Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017

Về cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể hiện dưới hình thức chủ nghĩa Mác - Lênin”

Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của Hồ Chí Minh”. Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lênin một cách vô căn cứ, vu khống, bịa đặt. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của  chủ nghĩa Mác - Lênin mà đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh... Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên chia rẽ và cực đoan, phiến diện, không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trên thực tế, như chúng ta biết, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Về sau này Lênin bổ sung thêm: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, Mác, Ăngghen, Lênin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã đúc rút bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2017

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - Nhận diện và giải pháp phòng, chống

Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước ta. Điều đáng quan ngại là nó diễn ra ngấm ngầm rất khó nhân diện. Vì thế, cần phải cảnh giác, có biện pháp phòng, chống hiệu quả.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó”; “chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác, hình thái khác”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên từ thái cực này sang thái cực khác mà hậu quả nó gây ra hết sức nguy hiểm, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến chuyển hóa chế độ.
Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam, v.v. Tất cả những biểu hiện đó, là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguy hại hơn là trong số những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả một số vị là lão thành cách mạng, cán bộ cấp cao, trí thức có tên tuổi, ít nhiều có cống hiến cho đất nước, cho nên những nhận thức và hành động của họ dễ lây lan, phát tán là điều dễ hiểu.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phân hóa giàu nghèo, … dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, v.v. Khi bị phát giác, xử lý kỷ luật thì bảo thủ, không những không nhận ra sai lầm, khuyết điểm mà lại bất mãn, suy diễn, dẫn đến thay đổi nhận thức, quan điểm, lập trường, thiếu niềm tin vào Đảng, chế độ. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị dẫn tới sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng, chính trị. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chặt chẽ và chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội, hệ thống thông tin đại chúng và tác động của mặt trái cơ chế thị trường, … ngày một gia tăng đã làm nghiêm trọng thêm sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
 Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng nguy hiểm hơn trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau và là hệ quả của nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “đồng minh” tự nhiên của “diễn biến hòa bình”, làm cho nó càng nguy hiểm hơn; đến lượt nó - “diễn biến hòa bình” lại tác động trở lại thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ. Nó có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội; nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên, quần chúng đến những người có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mới đây, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Điều đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đồng thời, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hếtcần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là giải pháp hết sức quan trọng. Trước mắt, cần làm cho mọi người nhận thức được những biểu hiện của nó đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra; tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành; thấy được việc phòng, chống sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh hết sức cam go, phức tạp diễn ra ngay trong nội bộ, giữa ta với ta, v.v. Đồng thời, làm rõ sự nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nếu như không phòng, chống, đấu tranh kịp thời, kiên quyết. Trên cơ sở nhận thức đúng, đề cao quyết tâm, ý thức trách nhiệm, dám nói, dám làm, dám đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nâng cao khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng trước sự tác động chuyển hóa, cùng những tiêu cực trong đời sống xã hội. Việc giáo dục nâng cao nhận thức phải đi đôi với khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, không thể hiện rõ lập trường, quan điểm trước những hành vi tiêu cực, hoặc thờ ơ, không dám đấu tranh với sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.
Hai làphải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu tranh, khắc phục. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, trách nhiệm năng lực tốt và động cơ phấn đấu đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên, bảo đảm rõ từng nội dung, hình thức, bước đi, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, tránh dàn trải, v.v.
Ba làđẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục. Bởi thế, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới phong cách làm việc, sâu sát cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn làphát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, cần tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, internet và các trang mạng xã hội; chủ động định hướng, cung cấp thông tin kịp thời. Chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đi đôi với khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; cần xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái.

Nhận diện đúng, đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra đối với Đảng và chế độ ta. Làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch./.

Đằng sau những định kiến thiên lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam

Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, Việt Nam đã có bước chuyển mạnh mẽ, tích cực về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số nước, tổ chức, cá nhân chưa thấy hoặc không muốn thấy kết quả đó, do định kiến; thậm chí có thế lực thù địch trắng trợn xuyên tạc Luật Tín ngưỡng, tôn giáo sau khi Quốc hội Khóa XIV vừa thông qua. Tại sao vậy?
Những người theo dõi sát tình hình tôn giáo ở Việt Nam cả khía cạnh pháp lý và thực tiễn đều có chung câu trả lời rằng: vấn đề không đơn thuần chỉ là định kiến thiên lệch, mà điều quan trọng hơn là những định kiến thiên lệch đó mang dụng ý xấu, nhằm chống phá Việt Nam. Có không ít những minh chứng cho thấy rõ điều này. Mới đây, ngày 10-8-2016, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại một lần nữa tự cho mình quyền phán xét về tự do tôn giáo thế giới, trong đó có Việt Nam. Ngay sau khi bản báo cáo được đưa ra, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối về những thông tin sai sự thật, những trích dẫn không chính xác thể hiện sự sai lệch, định kiến của nó. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho rằng: "Việt Nam ghi nhận một số điều chỉnh trong Báo cáo tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2015 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ so với các báo cáo trước đây, song đáng tiếc, Báo cáo vẫn tiếp tục đưa ra một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam". Cùng với dân chủ, nhân quyền việc đánh giá không khách quan đưa ra những thông tin sai lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam đã trở thành vấn đề mang tính hệ thống của Hoa Kỳ và nhiều nước phương Tây trong nhiều năm qua. Tình trạng đó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể có nguyên nhân về sự khác biệt trong quan niệm về vấn đề này giữa các quốc gia (khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, pháp luật...), song cần khẳng định nguyên nhân sâu xa và trực tiếp nhất là những định kiến thiên lệch đó mang mưu đồ xấu, nhằm cổ súy cho tự do, dân chủ, nhân quyền không giới hạn, bất chấp luật pháp, lợi ích của quốc gia sở tại; hay xét đến cùng là hòng phá hoại các quốc gia này, trong đó có Việt Nam.
Những phát triển, tiến bộ của Việt Nam về tự do tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao trong nhiều năm qua. Điều này thể hiện qua các điều luật, chế định về hoạt động tôn giáo đã được Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam xác định; qua sự mở rộng và lớn mạnh không ngừng về tổ chức và các hình thức hoạt động tôn giáo; qua thực tế các chính sách ưu tiên chăm lo phát triển các vùng dân cư của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và trong các hoạt động đối ngoại quốc tế của các tôn giáo. Mọi hoạt động của các tổ chức, tín đồ tôn giáo trong những năm qua phù hợp với luật pháp đều diễn ra bình thường, không hề có sự ngăn cản, cấm đoán nào của các cấp chính quyền. Không những thế, Nhà nước Việt Nam còn có những chương trình, dự án quốc gia về chính sách tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các tôn giáo, nhất là các vùng Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, như: hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, v.v. Nhà nước Việt Nam rất quan tâm tới việc tăng cường các hoạt động đối ngoại quốc tế về tôn giáo. Gần đây, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tham gia làm thành viên Hội đồng Giám mục châu Á, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh Phật giáo hằng năm; đồng thời, tổ chức đón các đoàn chức sắc, Phật giáo quốc tế tới thăm, tham dự một số hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Gắn liền với công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, việc đào tạo, bồi dưỡng các chức sắc, chức việc tôn giáo và cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trong giáo hội được Đảng, Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện và các giáo hội tiến hành tích cực. Nhiều cơ sở thờ tự mới được xây dựng, tu sửa khang trang. Việc tiến hành sinh hoạt tôn giáo được diễn ra thường xuyên… Điều đáng nói nhất là, ngày 18-11-2016, kỳ họp thứ 2 quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo với tỷ lệ nhất trí cao (84,58% đại biểu tán thành), sau khi có sự tham khảo ý kiến của các chức sắc tôn giáo. Sự kiện này có ý nghĩa thiết thực đối với việc thúc đẩy tự do tôn giáo đang được Đảng, Nhà nước ta và các tổ chức, tín đồ tôn giáo quan tâm.
Thế nhưng, mặc cho những phát triển tiến bộ về dân chủ, nhân quyền của Việt Nam nói chung, về tự do tôn giáo nói riêng đã được hầu hết các quốc gia trong Liên hợp quốc nhìn nhận tích cực, vẫn còn có những nhận định thiên lệch, hoặc thừa nhận một cách miễn cưỡng qua Báo cáo về tự do tôn giáo thế giới của Hoa Kỳ vừa qua. Một số vấn đề được cho là Chính phủ Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo: đối xử bạo lực, giam giữ, truy tố, giám sát việc đi lại với một số chức sắc tôn giáo; hạn chế các hoạt động của một số nhóm tôn giáo hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế; cản trở hoạt động của các tổ chức tôn giáo không đăng ký, v.v. Trong đó, nhiều thông tin không có cơ sở, mang tính mơ hồ, phỏng đoán được khai thác từ các tổ chức phi chính phủ đã từng bị nhiều quốc gia khác chỉ trích, nhưng vẫn đưa vào Báo cáo và được coi là sự thật. Việc đưa ra địa chỉ một số chức sắc tôn giáo được cho là bị xâm phạm tự do tôn giáo, thì trên thực tế hầu hết những nhân vật này đều có tỳ vết vi phạm pháp luật, như: kích động quần chúng biểu tình tự phát, có người còn là thành phần trong tổ chức công khai phản bác chế độ. Cùng với thời điểm Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra Báo cáo về tự do tôn giáo thế giới, người ta còn nhận thấy rõ bàn tay của tổ chức phản động Cờ Vàng Việt Tân ở Ca-li-pho-ni-a “tát nước theo mưa”. Họ rầm rộ kêu gọi cộng đồng hải ngoại quyên góp ủng hộ cho cái gọi là “phong trào tự do tôn giáo” ở Việt Nam. Đi liền theo đó là những luận điệu xuyên tạc cho rằng “Việc Nhà nước Việt Nam đưa ra Luật Tôn giáo là nhằm siết chặt quyền tự do tôn giáo”, thậm chí trắng trợn hơn: “Những vi phạm về tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn tiếp diễn đã lên tới mức cần phải đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan ngại về tự do tôn giáo”.
Mới đây, ngày 19-12, trong Hội nghị làm việc với chức sắc cao cấp các tổ chức tôn giáo toàn quốc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - người đứng đầu Chính phủ Việt Nam cho rằng, công tác tôn giáo, hoạt động tôn giáo đang phải đối diện với những khó khăn, thách thức do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan; trong đó, có cả sự xúi giục, kích động từ các thế lực xấu. Để giải quyết khó khăn, vướng mắc trên, Thủ tướng đề nghị các chức sắc cần tăng cường phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước cùng tháo gỡ trên tinh thần xây dựng, thiện chí, khách quan, thượng tôn pháp luật, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người, và phải: “kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối an ninh trật tự, lợi dụng chống phá Nhà nước, gây cản trở đối với Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế”. Đồng thời: “Phát huy các nguồn lực tôn giáo, tạo sức lan tỏa trong xã hội, xây dựng nếp sống văn minh tốt đời, đẹp đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và phát triển đất nước”.
Thiết nghĩ, đó là những định hướng cơ bản, đảm bảo cho sự phát triển, tiến bộ của các tổ chức tôn giáo, để tôn giáo ngày càng tham gia thiết thực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và tự do tôn giáo của người dân ngày càng được phát huy đầy đủ.

 Nguồn: tapchiqptd.vn

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG SUY THOÁI VỀ PHẨM CHẤT VÀ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Một, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tự giáo dục và rèn luyện cho đội ngũ cán bộ,đảng viên. Đây là cơ sở, nền tảng để bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức chính trị, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn vai trò, trách nhiệm của mình, ra sức học tập, nghiên cứu không ngừng nâng cao năng lực toàn diện, tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch lành mạnh. Cần tập trung giáo dục bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ cách mạng, truyền thống của dân tộc, của Đảng, những thuận lợi, khó khăn, thách thức của thời kỳ đổi mới, quá trình hội nhập quốc tế, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hiện nay... Cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị một cách thiết thực, hiệu quả; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Giáo dục động cơ trách nhiệm, chức trách, nhiệm vụ, phương pháp, tác phong và hiệu quả công tác mà cương vị họ phải đảm nhiệm. Chú trọng làm tốt hơn việc nêu gương tốt, những cán bộ lão thành kiên trung luôn phụng sự cách mạng vì Đảng, vì dân để đẩy lùi hiện tượng tiêu cực. Đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống... Kịp thời tuyên truyền, vô hiệu hóa những tin tức sai trái trên mạng Internet, các trang mạng xã hội, blog cá nhân để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta cập nhật và thấy được tác hại của nó. Quản lý tốt đội ngũ cán bộ chủ chốt, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Giữ gìn hình ảnh mẫu mực, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, quan hệ mật thiết với quần chúng và khó khăn của nhân dân.
Hai là, chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, chủ nghĩa cá nhân sẽ có nhiều điều kiện để phát triển, lối sống t­ư sản sẽ có nhiều cơ hội để thâm nhập vào n­ước ta, tác động mạnh vào đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những ng­ười bản lĩnh chính trị kém, không chịu tu dư­ỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng dễ bị sa ngã. Vì thế, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ trực tiếp đẩy lùi tình trạng suy thoái. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, dù ở cư­ơng vị công tác nào cũng không đ­ược bằng lòng với chính mình về trình độ năng lực, đạo đức và phong cách công tác, thấy đó là một quá trình bền bỉ, lâu dài như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[1]. Là cán bộ lãnh đạo chủ chốt càng phải g­ương mẫu, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi, nhất là trước những cám dỗ vật chất phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, không sa ngã, tích cực đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Cần phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh của cán bộ, đảng viên.
Ba là,nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Tự phê bình và phê bình giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng kịp thời nhận thức rõ những sai lầm, khuyết điểm của mình, từ đó kiên quyết khắc phục, sửa chữa, không rơi vào tình trạng suy thoái. Quản lý tốt việc cá nhân đăng ký nội dung hành động cụ thể trong học tập làm theo Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh để có căn cứ xem xét, kiểm điểm và sàng lọc những người không đủ tư cách và phẩm chất ra khỏi Đảng. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”[2], “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”[3]. Do đó, các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình, phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh. Ở mỗi tổ chức cơ sở Đảng, người đứng đầu phải đề ra các biện pháp hữu hiệu để khắc phục, sửa chữa yếu kém và nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên kiểm điểm phải bảo đảm tính trung thực trong tự kiểm điểm, người phê bình thì công khai dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng và cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới. Đồng thời phải kiên quyết xử lý kỷ luật những tổ chức đảng và cá nhân không thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm, khuyết điểm và che dấu những hạn chế, khuyết điểm cho nhau.
Bốn là, các tổ chức đảng quan tâm đúng mức công tác quản lý, kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Quản lý cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ thường xuyên và có quản lý tốt thì mới đánh giá đúng những mặt tốt và hạn chế của mỗi người. Thông qua kiểm tra, giám sát, nhằm quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi để phát hiện và xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về tư tưởng chính tri đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Thực hiện tốt ba khâu là quản lý, kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng phải được tiến hành đồng bộ, đúng quy trình thì mới đạt hiệu quả thiết thực. Tiến hành kiểm tra, giám sát toàn diện cả tư tưởng chính trị, phẩm chất năng lực công tác, đạo đức, lối sống, kết quả hoàn thành cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao... Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là tổ chức chuyên trách trong tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là phải nâng cao vai trò, phát huy khả năng của cơ quan, Ủy ban Kiểm tra của cấp ủy đảng các cấp, của tổ chức đảng, của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém để làm cho Đảng thực sự vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Năm là, các cấp ủy đảng thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, sử dụng cán bộ. Làm tốt công tác cán bộ sẽ trực tiếp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi vì, công tác cán bộ là một trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng; tiến hành tốt công tác cán bộ Đảng sẽ có đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” để phụng sự cách mạng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi và ngược lại. Cần chú trọng khâu bồi dưỡng cán bộ, sử dụng và đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ để sử dụng cho đúng người đúng việc. Các cơ quan chức năng cần rà soát, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ sát với mỗi chức danh để làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ chop đúng. Phân cấp, quy định rõ thẩm quyền của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị và đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, mất đoàn kết, suy thoái, biến chất cần kiên quyết đưa ra khỏi đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt những vấn đề nêu trên sẽ ngăn chặn được hệ quả của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhân dân ta luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa


[1] Sđd, t.11, tr.612
[2] Sđd, t.5, tr.279
[3] Sđd, t.5, tr.302

NHẬN DIỆN MỐI LIÊN HỆ GIỮA SUY THOÁI VỀ PHẨM CHẤT VÀ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Giữa hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” có mối liên hệ với nhau. Xét về cấp độ phạm vị thì hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên là những hạn chế yếu kém nảy sinh từ bên trong, còn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng là yếu tố từ bên ngoài. Xét về hệ quả thì hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là cơ sở nảy sinh quan điểm sai trái là dễ dẫn đến hành động lệch lạc làm ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng; nếu có biện pháp quản lý và giáo dục kịp thời, hiệu quả thì vẫn khắc phục. Khi để diễn ra mức độ cao hơn là các thế lực thù địch lợi dụng những cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sẽ trở thành lực lượng cốt cán bên trong để thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cho chúng ta tự suy yếu và tự sụp đổĐây là kịch bản mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, chống phá cách mạng nước ta nói riêng hòng làm chuyển hóa chế độ chính trị của ta. Tính chất nguy hiểm nhất là chúng khai thác những mầm mống từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng và tiêu cực từ bên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Về phương thức chúng sắn sàng mua chuộc, lôi kéo, hậu thuẫn, giúp đỡ những cán bộ, đảng viên đã bị thoái hóa biến chất để họ kích động quần chúng, hình thành “phe”, “nhóm” đối lập, tạo dựng “ngọn cờ”, gây sức ép từng bước buộc ta nhượng bộ, mà thúc đẩy “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” và lật đổ chế độ nhanh chóng hơn.
Thực chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những phương thức, thủ đoạn chủ yếu của chiến lược “diễn biến hòa bình” được chủ nghĩa đế quốc sử dụng từ nhiều thập kỷ trước để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Bằng phương thức, thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt này, chủ nghĩa đế quốc đã thúc đẩy nhanh chóng hơn sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu. Ở Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh âm mưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam. Tính chất nham hiểm của mưu đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là kẻ thù dùng đòn đánh từ bên trong làm cho nội bộ tự suy yếu để chuyển hóa, chuyển màu từ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải phụ thuộc vào nước khác và theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng chủ trương tăng cường hoạt động chống phá làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Khái niệm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hai khái niệm có quan hệ với nhau nhưng có tính độc lập tương đối, trong đó “tự diễn biến” là khái niệm phản ánh quá trình thay đổi theo hướng tiêu cực về tư tưởng chính trị của con người, cán bộ, đảng viên. Khái niệm “tự chuyển hóa” phản ánh sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến” nhưng ở cấp độ cao hơn, đó là sự chuyển hóa được bản chất chính trị của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, trở thành thù địch, đối lập với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. “Tự diễn biến” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình diễn ra sự biến đổi, suy thoái từ bên trong của một bộ phận cán bộ, đảng viên cả về ý thức và hành động trên các lĩnh vực đời sống xã hội trước những tác động “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch. Nó có căn nguyên sâu xa từ  suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo chiều hướng coi nhẹ, xa rời, từ bỏ bản chất cách mạng, khoa học và các giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng, những chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, chân chính. Hệ quả dẫn đến từng bước chuyển sang lập trường giai cấp tư sản và “tự chuyển hóa” - biến chất, đứng về phía thế lực thù địch chống lại sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng ta khởi xướng. Việc làm rõ hệ quả của hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với âm mưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chỉ ra tính chất và mức độ rất nguy hiểm của tình trạng này. Nếu một cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống được phát hiện kịp thời, có biện pháp giáo dục đồng bộ và hiệu quả thì chúng ta vẫn còn cơ hội giúp họ sửa chữa sai lầm khuyết điểm; nhưng nếu bộ phận này để kẻ thù lợi dụng để thực hiên mưu đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chế độ ta từ bên trong thì họ sẽ không còn trong đội ngũ của Đảng nên cần phải khai trừ ra khỏi Đảng.