Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

CẦN SỚM LOẠI BỎ TỔ CHỨC "HỘI THÁNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI" RA KHỎI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Thời gian gần đây trên địa bàn một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc, đặc biệt là tỉnh Thái Nguyên đã xuất hiện một tổ chức tự xưng mang tên "Hội thánh của Đức Chúa Trời". Hậu quả đã xảy ra đối với những người tin, theo tổ chức này là mất thời gian, mất tiền bạc; sinh viên bỏ bê việc học tập; các thành viên trong gia đình mâu thuẫn, ly tán…
Biểu hiện rõ nhất là một số con em trong gia đình không ủng hộ việc mua bàn thờ tổ tiên; không muốn tiếp xúc, giao lưu với mọi người và đặc biệt là không ăn những thức ăn đã thờ cúng, thắp hương. Một số sinh viên còn lớn tiếng với bố mẹ rằng: Đức Chúa Trời là tất cả, bố mẹ mẹ chỉ là đấng sinh thành…
Ngoài ra "Hội thánh của đức Chúa Trời" còn deo dắt những luận điệu lệch lạc, vô bổ như "ngày tận thế"; "sự cứu rỗi của đức Chúa Trời"; hay được hưởng nhiều phúc nếu như người nào đi truyền giáo, kết nạp được nhiều hội viên vào "Hội thánh của đức Chúa Trời". Khi gia nhập vào "Hội thánh của đức Chúa Trời" các thành viên phải bỏ hết việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ; luôn vâng lời hội thánh. Các thành viên đều là anh chị, chỉ có một cha mẹ là đức Chúa Trời; khi tham gia không được tìm hiểu thông tin cá nhân của nhau; Thứ bảy hàng tuần tất cả các thành viên phải đến điểm thờ phụng, gác hết mọi công việc để làm "lễ Sa bác" và thực hiện dâng lễ. Lễ dâng bằng 1/10 số tiền tổng thu nhập cá nhân trong tuần…
"Hội thánh của đức Chúa Trời" xâm nhập vào Thái Nguyên vào khoảng tháng 6/2015 do Lương Văn Tường sinh năm 1986 trú tại xã Đông Sơn, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang thuê nhà tại các phường Phú Xá, Tân Lập thành phố Thái Nguyên để tuyên truyền, giảng giải về Hội thánh. Nhiều người đã mù quáng tin theo, chủ yếu là người già, người đã nghỉ hưu, người có thu nhập thấp, học sinh, sinh viên và có cả cháu nhỏ đi theo bố mẹ, ông bà tham gia Hội thánh.
Lương Văn Tường không hề có giấy chứng nhận chức sắc tôn giáo và không được phép truyền giảng kinh thánh cũng như thực hiện hoạt động truyền đạo, giảng đạo của bất kỳ tôn giáo nào. Theo gia đình Tường cho biết, có thời gian Tường nợ khá nhiều tiền do tham gia hoạt động mua bán gian hàng ảo trên mạng của công ty MB 24. Mặc dù đã được gia đình đã phân tích, khuyên cản nhưng Tường không dừng lại mà vẫn tiếp tục các hoạt động không được pháp luật cho phép với nhiều chiêu trò và thủ đoạn khác nhau hòng thu lời bất chính.
Khi bị chính quyền và cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm, Lương Văn Tường đã rời khỏi Thái Nguyên và chỉ đạo các thành phần cốt cán hoạt động Hội thánh với phương thức tinh vi hơn như thuê nhà đội nốt dưới danh nghĩa các công ty; tụ tập nhỏ lẻ từ 5-10 người, hoạt động bí mật chứ không công khai như trước. Hiện dưới sự "lãnh đạo" của Tường bên cạnh những chiêu thức hoạt động tinh vi; "giáo lý thần bí" là sự mở rộng địa bàn, tăng nhanh về số lượng thành phần cốt cán và số lượng người tham gia.
Thiết nghĩ, những hoạt động của tổ chức tự xưng mang tên "Hội thánh của Đức Chúa Trời" nói trên không chỉ gây mất thời gian, mất tiền bạc của những người nhẹ dạ, cả tin mà nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá tâm linh, thuần phong mỹ tục của nhân dân, xa hơn nữa có thể là ẩn số gây mất ổn định chính trị, ảnh hưởng tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương.
Để ngăn chặn hệ luỵ hoạt động của tổ chức tự xưng này, đòi hỏi cấp uỷ, chính quyền địa phương cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục giúp bà con nhân dân và các đối tượng khác nhận rõ bản chất, ý đồ, hình thức hoạt động của tổ chức tự xưng "Hội thánh của Đức Chúa Trời". Mặt khác, làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện việc ngăn chặn hoạt động của tổ chức này, tuyên truyền trong đó chỉ rõ những hoạt động trái phép của "Hội thánh của Đức Chúa Trời" xung quanh vấn đề về mê tín dị đoan, xung quanh vấn đề tuyên truyền thu lợi bất chính; vi phạm các quy định quản lý nhà nước về văn hoá trong in ấn, sao chép, truyền bá các văn bản. Yêu cầu "tổ chức" này nhận ra những hành vi sai trái của mình để tự giác chấm dứt hoạt động.
Bên cạnh sự vào cuộc tích cực của các cấp các ngành trong việc tuyên truyền, vận động. Các gia đình cần quan tâm quản lý con em mình nhiều hơn nữa, có như vậy mới có thể ngăn chặn được các đối tượng xấu lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin để lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia vào tổ chức tự xưng"Hội thánh của đức Chúa Trời"





Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

NHẬN BIẾT THỦ ĐOẠN MỚI ĐỐI VỚI GIAI CẤP CÔNG NHÂN

   
Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ với nhau để thúc đẩy từ “diễn biến hòa bình” sang  “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, chống phá Đảng, Nhà nước và giai cấp công nhân Việt Nam  với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Song mọi mưu mô xảo quyệt và thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch có đạt được hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng, tổ công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam. Do vậy, để nhận diện thủ đoạn mới của các thế lực, thù địch hiện nay đối với cách mạng Việt Nam nói chung và giai cấp công nhân hiện nay có ý nghĩa rất cấp bách. Thủ đoạn của chúng hiện nay:
1/ Lợi dụng các hoạt động đình công của công nhân để tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo, kích động tập hợp lực lượng phục vụ cho âm mưu chống Đảng, chống Nhà nước Việt Nam.
          2/ Lợi dụng các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp còn thiếu và yếu, để tích cực kêu gọi, vận động thành lập "Công đoàn độc lập" làm "người đại diện quyền lợi của công nhân ” để nhằm lãnh đạo lực lượng công nhân.
          3/ Dùng mọi thủ đoạn đẩy mục tiêu các cuộc đình công của công nhân từ "quyền lợi dân sinh" sang ”chính trị". Biến các cuộc đình công mang tính tự phát sang các cuộc đình công có tổ chức do các thế lực phản động thù địch lãnh đạo chỉ đạo chống đối chính quyền và gây mất an ninh trính trị…
Lực lượng và phương tiện chống phá: dùng Đài phát thanh, người Việt Nam di tản, sinh sống ở nước ngoài; sử dụng lực lượng trong nước: binh sĩ, cảnh sát nhân viên làm việc trong chính quyền nguỵ trước đây; sử dụng phần tử bất mãn, cơ hội thoái hoá tham nhũng. Sử dụng đài, sách báo, tài liệu, mạng internet tuyên truyền bôi nhọ các lãnh tụ của Đảng, xuyên tạc vai trò công đoàn cách mạng...
Trong bối cảnh đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ, đời sống của công nhân còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, các thế lực phản động và thù địch vẫn âm mưu lợi dụng tình hình này để kích động, lôi kéo công nhân vào các hoạt động nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, làm cho giai cấp công nhân Việt Nam tự đánh mất sứ mệnh lịch sử của mình.
Trên đây là một số thủ đoạn âm mưu của các thế lực thù địch  dùng chiêu bài “DBHB” đối với giai cấp công nhân Việt Nam để tiến hành các hoạt động phá hoại sự nghiệp phát triển của đất nước. Vì vậy, đối với mỗi người dân đất Việt, đặc biệt là giai cấp công nhân luôn cảnh giác cao và nhận diện khi tham gia vào không gian mạng. Đồng thời, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình trước ánh sáng công lý và pháp luật.


CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIAI CẤP CÔNG NHÂN HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA MÌNH


Trong bối cảnh đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ, đời sống của công nhân còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, các thế lực phản động và thù địch vẫn âm mưu lợi dụng tình hình này để kích động, lôi kéo công nhân vào các hoạt động nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, làm cho giai cấp công nhân Việt Nam tự đánh mất sứ mệnh lịch sử của mình. Cho nên, trong tình hình hiện nay để cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, chúng ta phải thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân, trước nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức công đoàn, nhằm nâng cao vị thế các tổ chức công đoàn để các tổ chức này thực sự trở thành người đại diện và bảo vệ quyền lợi của công nhân.
Hai là, tăng cường bồi dưỡng kiến thức chính trị, pháp luật và nghiệp vụ công đoàn công tác cho cán bộ làm công tác công đoàn để họ có đủ trình độ, kỹ nàng giải quyết mối bất hoà giữa người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời và phải tạo cơ chế cho cán bộ công đoàn làm việc hiệu quả.
Ba là, các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhất là Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Điều lệ Công đoàn để thống nhất đảm bảo quyền lợi cho người lao động và người hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp, cả các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,...
Bốn là,  nêu cao hơn nữa vai trò của các cấp chính quyền trong việc phối hợp bảo vệ quyền lợi của người lao động. Nên có các chế tài đủ mạnh để răn đe hạn chế các vụ vi phạm pháp luật của người sử dụng lao động. Đồng thời, các cơ quan chức năng phải nghiên cứu toàn diện về chính sách đối với người lao động cho hợp lý, nhất là cần thay đổi về tiền lương tối thiểu, cải cách đóng bảo hiểm xã hội và đặc biệt là cần can thiệp đúng lúc, đúng chỗ bằng công cụ pháp luật chứ không phải bằng công cụ hành chính. Hơn tất cả, pháp luật lao động phải được hoàn thiện. Nhà nước và các cấp chính quyền cần quan tâm đúng mức và kiểm soát chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Năm là, cần có giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ công nhân. Nhất là giải quyết các vấn đề búc xúc của công nhân hiện nay như: vấn đề nhà ở, việc làm, công bằng dân chủ và phòng chống tham nhũng...

NÂNG CAO CẢNH GIÁC “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” HIỆN NAY


Những năm qua, việc phủ nhận, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “đột phá khẩu” để các thế lực thù địch, các thế lực phản động, thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,... phối hợp chống phá sự nghiệp cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Vì vậy, cần nhận thức đúng, nâng cao cảnh giác với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tự diễn biến là sự thay đổi ngay từ nội bộ, sự thay đổi theo chiều hướng xấu, chiều hướng tiêu cực. Tự diễn biến xảy ra ở hai phạm vi: đối với tổ chức và cá nhân. Đối với tổ chức, là những thay đổi ở tầm quản lý vĩ mô về đường lối, chủ trương, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí suy yếu và tan ra tổ chức đó. Còn đối với cá nhân, là sự thay đổi về nhân thực chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi; tự bản thân cán bộ, đảng viên nhận thức chính trị và hành động xa rời, thậm chí đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư tưởng của Đảng. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức và ngược lại “tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan của cán bộ, đảng viên, như: lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu bản lĩnh chính trị, hoang mang, dao động trước tác động của các yếu tố bên ngoài; thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân thường xuyên; không chủ động học tập, nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, tư tưởng của Đảng...
Tự chuyển hóa là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến” nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã có sự chuyển hóa, thay đổi về bản chất. Biểu hiện chuyển hóa chính trị ở Việt Nam xuất hiện từ hai hướng: một mặt, đó là âm mưu và hoạt động tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch; mặt khác, đó là sự “tự chuyển hóa” chính trị của nội bộ ta. Tuy nhiên, hai hướng này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Yếu tố bên ngoài thúc đẩy, tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo sự chú ý và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, “tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị nên hết sức nguy hiểm. Do vậy, phương châm, nguyên tắc bảo đảm an ninh nội bộ, phòng, chống chuyển hóa chính trị là phải chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính.
Yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ được thể hiện cụ thể là: xuất hiện các quan điểm, tư tưởng lệch lạc, trái chiều trong nội bộ; sự mất lòng tin đối với lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự xuống cấp về đạo đức, thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, muốn theo hướng phát triển tư bản chủ nghĩa; công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu  sơ hở, thiếu sót; tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, tổ chức; một bộ phận trong đội ngũ trí thức, luật sư, báo chí, văn nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng muốn thoát lu khỏi sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội XII: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xã hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước”.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, Đại hội XII của Đảng xác định: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lốn sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diện biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thát bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”


Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan


Sự ra đời của nhà nước pháp quyền đã đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người, là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật luôn mang tính giai cấp, là sự hiện thực hóa ý chí của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội tuân theo. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ý chí của giai cấp thống trị thống nhất với ý trí và nguyện vộng của đa số người dân, nên pháp luật được xây dựng dựa trên cơ sở ý trí, nguyện vọng của người dân, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của người dân. Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân và do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số người do hạn chế về nhận thức hoặc bất đồng về chính kiến đã có quan điểm không đúng khi cho rằng: “đã có pháp quyền, tại sao phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, hay “trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Đảng, nhà nước, cán bộ, công chức của Đảng, nhà nước đứng ngoài pháp luật”… Mục đích của các quan điểm này nhằm phủ nhận các giá trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ca ngợi nhà nước pháp quyền của các nước phương Tây. Trước những luận điệu đó, cần nhận thức đúng đắn một số vấn đề sau:

Mỗi quốc gia, dân tộc có đặc điểm lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội, thể chế chính trị khác nhau thì có nhà nước pháp quyền khác nhau. Nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Như vậy, Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng là điều bình thường, không có gì là trái với quy luật khách quan cả.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các đảng phái, tổ chức, tôn giáo, công dân phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo... của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Đảng Cộng sản là người lãnh đạo toàn diện, mọi mặt xã hội, lãnh đạo cả hệ thống chính trị, nhưng Đảng Cộng sản cũng là một thành viên trong hệ thống chính trị, mọi hoạt động của Đảng, cũng như hoạt động của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Đảng và nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm Hiến pháp và páp luật. Không có một tổ chức, hoặc cá nhân nào có thể đứng trên, hay đứng ngoài pháp luật được.



Thứ Tư, 22 tháng 11, 2017

VIỆT NAM KHÔNG ĐI THEO NƯỚC NÀY CHỐNG NƯỚC KIA TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC


Vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quyết định xây dựng Cảng biển Cam Ranh thành Cảng quốc tế hiện đại trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, ngay sau khi chủ trương trên được đưa ra đã xuất hiện không ít những quan điểm, tư tưởng khác của những "công dân", "nhà báo", "nhà dân chủ", "trí thức", "học giả" … dưới các hình thức "tư vấn", "phản biện", "kiến nghị, "góp ý", "gợi ý" … cho rằng hàng động trên của Việt Nam đã phá hoại mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với nước láng giềng; nói không đi đôi với làm; nói "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ …" nhưng trên thực tế lại liên minh với "nước thứ ba" để đòi chủ quyền trên Biển Đông.
Vậy, thực hư những quan điểm, luận điệu đó là như thế nào? Đây có phải là lời "gan ruột" góp ý chân thành, tâm huyết nhưng thiếu nhạy cảm, tỉnh táo về chính trị hay là dụng ý thâm độc của những kẻ cơ hội, phản động? Hay là sự nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối gây mất ổn định chính trị ở Việt Nam?
Trước tiên về thực tế, khi được hiện thực hoá, Cam Ranh sẽ trở thành khu dịch vụ hàng hải và cung ứng, sửa chữa tàu biển lớn, hiện đại, có thể đón tàu của tất cả các nước đến thăm và sửa chữa, cung cấp các dịch vụ hậu cần…, vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đáp ứng yêu cầu của các đối tác khi đề nghị cho tàu vào thăm, ghé đậu Cảng Quốc tế Cam Ranh. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với chủ trương gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại của Đảng; đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai, để giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dung và phát triển đất nước trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, Việt Nam hiểu rằng:
- Những bất đồng, tranh chấp ở trên Biển Đông hiện nay không chỉ liên quan đến 5 nước, 6 bên có yêu sách chủ quyền mà còn trực tiếp liên quan đến hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hành hải, hàng không ở Biển Đông và khu vực. Đây là vấn đề phức tạp, lâu dài, không thể giải quyết ngay trong ngày một, ngày hai và vấn đề Biển Đông không thể do một nước lớn hay một vài cường quốc nào đó dàn xếp, quyết định. Càng không thể giải quyết được vấn đề phức tạp ở Biển Đông bằng sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực. Vì sẽ không thể có hoà bình, ổn định và phát triển lành mạnh ở Biển Đông nếu ở đây chân lý thuộc về kẻ mạnh, nếu những tranh chấp, bất đồng được các bên hành xử theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Thực tế cho thấy, chính những hành động bất chấp luật pháp quốc tế và quân sự hoá Biển Đông gần đây đã và đang làm cho tình hình trở lên phức tạp, căng thẳng và khó kiểm soát. Do đó, giải quyết vấn đề Biển Đông tất yếu phải bằng cơ chế đàm phán, thương lượng hoà bình song phương và đa phương trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
- Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam hiện nay phải bằng sức mạnh tổng hợp trên cơ sở luật phát quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực và ngoại lực, bằng cả sức mạnh trong nước và sức mạnh của cộng đồng quốc tế chứ không thể chỉ dựa vào việc liên minh quân sự với một cường quốc, một nước phát triển. Trong điều kiện các nước đều đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc thì hiếm có một "nước phát triển" nào; một "cường quốc" nào lại đi bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc cho một quốc gia, dân tộc khác một cách vô tư, không tính toán. Do đó, dựa vào một nước nào đó dù là "nước phát triển" hay một "cường quốc" thì không những không giải quyết được vấn đề mà thậm chí còn làm trầm trọng, căng thẳng và phức tạp thêm tình hình. Thực thế cho thấy, là đồng minh của Nhật Bản nhưng lâu nay Mỹ cũng không giúp được gì cho Nhật Bản trong việc khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư); hay như cả Mỹ và Liên minh châu Âu "bảo trợ" khá toàn diện cho Ucraina nhưng đất nước này vẫn rơi vào khủng khoảng và không thể giữ được bán đảo Crưm…
- "Liên minh" với một nước nào đó để chóng lại nước khác tức là chúng ta đã tự tạo cho mình thêm một kẻ thù. Càng tai hại hơn nếu đó lại là một quốc gia có địa chính trị "núi liền núi, sông liền sông". Lịch sử đã khắc ghi nhiều bài học sâu sắc cho việc tồn tại độc lập bên cạnh một nước láng giềng luôn tìm cách "đồng hoá" chúng ta, đó không chỉ là nhờ vào những chiến công hiểm hách như lời hiệu triệu của các bản Tuyên ngôn "Hịch tướng sĩ" hay "Đại cáo bình Ngô"… mà còn nhờ vào chính sách ngoại giao mềm dẻo ngay sau mỗi chiến thắng của các đấng anh minh vì dân, vì nước. "Bán an hem xa, mua láng giềng gần", "nước xa không cứu được lửa gần"… những câu dặn dò của cha ông xưa vẫn còn nguyên giá trị. Hơn nữa, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Nhật Bản… vừa là chủ nợ vừa là con nợ, vừa là đối thủ, vừa là đối tác lớn của nhau. Do đó, việc nêu "quan điểm" đi theo (liên minh) với nước này để chống nước kia nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo là ảo tưởng, ngây thơ và hài hước.
- Quan điểm dựa vào nước này, liên minh với nước kia để bảo vệ chủ quyền… là thể hiện tư tưởng yếu hèn, nhược tiểu. Quan điểm này haonf toàn trái ngược với truyền thống của dân tộc ta và trái với xu thế vận động khách quan của thời đại. Trong suốt chiều dài lịch sử: Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là truyền thống, kinh nghiệm, bản lĩnh, khí phách dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng đúc kết: Không có gì quý hơn độc lập, tự do; đem sức ta mà giải phóng cho ta; tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính. Xu thế khách quan của thế giới đương đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển; các quốc gia, dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường… Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, dựa vào nước khác không những không bảo vệ, không đòi được chủ quyền, thậm chí còn mất luôn cả quyền độc lập về chính trị, quyền tự quyết của dân tộc. Do đó, ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của nước khác, dựa vào nước khác để bảo vệ độc lập, chủ quyền thì không xứng đáng được hưởng tự do, độc lập. Sự phụ thuộc của một số quốc gia trên thế giới hiện nay càng khẳng định thêm tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Như vậy, rõ ràng trong vấn đề đối ngoại, kể cả chính sách phát triển kinh tế, gắn với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là sự thể hiện lòng dân, ý Đảng; nó gắn bó, thống nhất chặt chẽ với nhau vì sự ổn định và phát triển đất nước chứ không hề có chuyện "liên minh với nước này để chống nước kia"; "nói một đường, làm một nẻo" như ai đó đã rắp tâm rêu rao.




Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

Đôi điều về xây dựng “hình mẫu” thanh niên hôm nay


Trước thực trạng “một bộ phận thanh thiếu niên còn có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc”, cùng với những yêu cầu, đòi hỏi mới của nhiệm vụ cách mạng đặt ra vấn đề có tính cấp bách là phải xây dựng hình mẫu thanh niên ngày nay. Mục đích để thể hệ thanh thiếu niên nhận thức rõ được các tiêu chí cơ bản của thanh niên thời đại mới, nhìn vào đó để phấn đấu, tích cực tu dưỡng, rèn luyện góp phần đẩy lùi những tiêu cực, tệ nạn trong thanh niên, xây dựng, củng cố lực lượng mình ngày càng lớn mạnh, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Vậy, hình mẫu thanh niên hôm nay cần phải đạt được những tiêu chí cơ bản nào, hay nói cách khác họ cần phải có những phẩm chất gì để đại diện cho một thế hệ thanh niên thời đại mới? Điều này cần phải được cân nhắc, lựa chọn kỹ càng, nghiêm túc để đảm bảo những tiêu chí về hình mẫu thanh niên hôm nay đưa ra phải thật sự mang tính khái quát, tiêu biểu, nhưng cũng hết sức cụ thể và dễ triển khai, xây dựng trên thực tế đối với lực lượng thanh niên. Bởi môi trường xã hội ngày nay có nhiều thay đổi so với trước kia, vì thế hình mẫu của thanh niên cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu trước kia khi đất nước còn chiến tranh, hình mẫu thanh niên thường gắn với mục tiêu, lý tưởng cách mạng và các hành động anh hùng trong chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược; nhưng ngày nay trong hoàn cảnh đất nước hòa bình, trước tác động của xu thế hội nhập, của nền kinh tế thị trường thì hình mẫu thanh niên phải gắn với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh với những cái xấu, cái sai của xã hội… Có những nội dung về hình mẫu thanh niên ngày nay cần được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xã hội, đất nước, song cũng có một số tiêu chí vẫn phải giữ nguyên, bởi đây là những phẩm chất tiêu biểu, nền tảng của thanh niên cho dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.
Theo tôi, xây dựng “hình mẫu” thanh niên hôm nay cần phải đạt được những tiêu chí cơ bản sau:
         Thứ nhất, sống có mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, có ước mơ, hoài bão lớn, luôn kiên định với con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
Đây được xem là phẩm chất tiêu biểu, đặc trưng nhất của thanh niên trong mọi thời đại, mọi thời kỳ cách mạng. Bởi thanh niên là lực lượng “trụ cột” của nước nhà, đảm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, nặng nề, họ nhất thiết phải mang trong mình lý tưởng sống cao đẹp, vì đất nước, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà. Thanh niên phải luôn là những người mang trong mình những ước mơ, hoài bão lớn về sự nghiệp, điều này giúp họ luôn nỗ lực, cố gắng không ngừng, đạt được nhiều thành công lớn, qua đó góp phần xây dựng xã hội, đất nước lớn mạnh, hùng cường. Trong xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới không thể thiếu phẩm chất quan trọng này.
           Thứ hai, tích cực trong học tập, lao động sản xuất, có vốn kiến thức sâu rộng, kỹ năng giỏi, có khả năng tự vươn lên để thành đạt, đóng góp cho gia đình, xã hội và đất nước.
Đất nước đã hòa bình, bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng trên nhiều mặt, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản để phát triển, vẫn còn đặt ra không ít những khó khăn đòi hỏi cần phải được khắc phục, giải quyết. Là thế hệ trẻ, thanh niên cần phải thể hiện rõ vai trò của mình bằng việc tích cực học tập, tu dưỡng, lao động sản xuất giỏi, luôn có nhiều sáng tạo, đổi mới trong sản xuất để xây dựng nền kinh tế nước nhà vững mạnh. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay thanh niên phải đi tiên phong trong nỗ lực làm giàu, kiếm tiền chính đáng, bởi như vậy, họ mới có thể đóng góp được cho xã hội, đất nước. Muốn làm được điều đó, thanh niên phải tích cực học tập, có vốn kiến thức sâu rộng, có kỹ năng tốt để thành công.
         Thứ ba, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có ý thức cao trong chấp hành mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước.
Bác Hồ đã khẳng định: đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Suy ra cũng có nghĩa, thanh niên được coi là thế hệ tương lai của nước nhà, lực lượng kế cận thực hiện sự nghiệp cách mạng của dân tộc, họ phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, chấp hành nghiêm mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, đồng thời tích cực và kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, bảo vệ cái đúng. Thanh niên ngày nay cũng cần phải thật sự gương mẫu, đi đầu trong công tác giáo dục, tuyên truyền và thực hiện nghiêm pháp luật, nói không với các tệ nạn xã hội.
         Thứ tư, có tấm lòng nhân văn, nhân ái cao cả, sống có trách nhiệm cao với cộng đồng, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ tình nguyện hướng tới cộng đồng.
Xã hội hiện nay đặt ra nhiều nhiệm vụ rất cần những tinh thần tình nguyện của lực lượng thanh niên tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc. Do đó, thanh niên hiện nay phải xây dựng hoạt động tình nguyện trở thành thương hiệu riêng của lực lượng mình. Sẵn sàng tình nguyện thực hiện các nhiệm vụ khi xã hội cần đến. Thanh niên thời đại mới cũng cần sống có lòng nhân văn, nhân ái cao cả, có tình thương yêu đồng loại, yêu con người, góp phần xây dựng mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp, cùng nhau chung sống đoàn kết, hòa thuận.
          Thứ năm, luôn là một công dân gương mẫu, ý thức cao được vị trí, vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ, của lực lượng mình trước vận mệnh của dân tộc, đất nước.
Gương mẫu luôn là phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người, nhất là đối với lực lượng thanh niên hôm nay. Ở đây muốn nói tới vai trò tự ý thức, tự vươn lên mạnh mẽ của thanh niên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, trên tất cả các lĩnh vực để trở thành những công dân gương mẫu, sống có trách nhiệm cao với xã hội, với đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI


Thanh niên là trụ cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) nhận định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo”. Thực tế hơn 82 năm qua cho thấy, Đảng ta luôn coi trọng công tác thanh niên, trọng tâm là giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về lý tưởng, đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, hướng tới mục tiêu: xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh chính trị, ý thức chấp hành pháp luật, có đạo đức cách mạng và lối sống đẹp, có ước mơ, hoài bão, khát vọng đưa đất nước vươn lên, có tri thức, sức khoẻ, kỹ năng xã hội, năng lực chuyên môn, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại. Mục tiêu ấy được Đảng ta cụ thể hoá trong mỗi giai đoạn cách mạng và trở thành sứ mệnh lịch sử mang tính thời đại của thanh niên. Điều đó được chứng minh, khi nước nhà bị họa xâm lăng, lý tưởng cách mạng mà thanh niên hướng đến không gì khác là đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc. Ngày nay, trong thời kỳ cách mạng mới, nhiệm vụ chính trị cao cả của thanh niên là cùng với toàn Đảng, toàn dân tộc ra sức phấn đấu vì một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của thanh niên, đồng thời quán triệt sâu sắc các quan điểm giáo dục thanh niên của Đảng và Bác Hồ, thời gian qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã phát huy tốt vai trò nòng cốt trong công tác thanh niên, cùng với các lực lượng giáo dục khác luôn kiên trì thực hiện nhiệm vụ giúp Đảng giáo dục và rèn luyện thanh niên. Giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên được triển khai thực hiện đồng bộ dưới nhiều phương thức đa dạng và phong phú như: thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước; tổ chức các sinh hoạt truyền thống, giáo dục đạo đức, lối sống,..; thông qua phong trào thi đua yêu nước trong các cộng đồng dân cư và các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ như "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước", "Thanh niên tình nguyện", "Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"; thông qua cá buổi sinh hoạt chính trị "Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh", "Tiếp lửa truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi"; thông qua diễn đàn "Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích", thông qua cuộc vận động "Tuổi trẻ Việt nam học tập và làm theo lời Bác"; thông qua công tác tổ chức, bồi dưỡng thanh niên phấn đấu trở thành đoàn viên, qua các sinh hoạt của chi đoàn, qua công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên vào các tổ chức hội do Đoàn làm nòng cốt; qua nhiệm vụ bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú đề nghị Đảng xem xét kết nạp và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; qua việc quản lý, giáo dục thanh thiếu nhi của gia đình, nhà trường và xã hội. Kết quả là, cùng với những thành tựu to lớn đạt được trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, công tác giáo dục thanh niên đã góp phần quan trọng tạo dựng nên một lớp thanh niên mới, tiên tiến đi đầu trên nhiều lĩnh vực, có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vượt qua khó khăn, vươn lên lập thân, lập nghiệp, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích, sáng tạo, xung phong tình nguyện của những thế hệ thanh niên cách mạng lớp trước, đây thực sự là những phẩm chất nổi trội của thanh niên ngày nay.
Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và quốc tế, một bộ phận thanh niên còn bị dao động về lập trường tư tưởng, ít quan tâm, thậm chí ngại tham gia vào các sinh hoạt chính trị và các hoạt động xã hội, có nhận thức chính trị giản đơn, chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn, coi nhẹ những giá trị truyền thống, nhân văn cao đẹp của dân tộc, bị ảnh hưởng xấu bởi lối sống ngoại lai, sự xâm lăng văn hoá và những tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường; thiếu động cơ học tập và tính định hướng nghề nghiệp đúng đắn; tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp còn khá phổ biến; kiến thức, kỹ năng sống chưa cao; các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma tuý, mại dâm,... diễn biến phức tạp đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực trẻ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Mặt khác, do tâm lý lứa tuổi, thanh niên còn thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm trong cuộc sống lại gặp phải những tác động to lớn từ sự thay đổi quá nhanh và đa dạng trong quan niệm về các chuẩn giá trị xã hội và văn hoá; sự gia tăng phân hoá giàu nghèo, sự tha hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; những thông tin xấu, độc hại lan truyền trên Internet, những âm mưu và hành động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Trong khi đó, năng lực cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, Nhà nước trong công tác giáo dục đối với thanh thiếu nhi ở một số đơn vị còn yếu. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay có lúc, có nơi, có bộ phận chưa thực sự chú trọng; chưa phát huy được sức mạnh đồng bộ của các lực lượng xã hội trong giáo dục thanh niên. Việc nắm bắt, xử lý diễn biến tư tưởng thanh niên và thực hiện nội dung giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên của Đoàn hiệu quả còn thấp; hình thức còn thiếu hấp dẫn; nhiều vấn đề chính đáng của thanh niên chậm được giải quyết; việc đầu tư cho công tác giáo dục thanh niên chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình...
Trong bối cảnh trên, việc tăng cường công tác thanh niên nhằm góp phần hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế thừa trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng của Bác Hồ là đòi hỏi và nhiệm vụ đặt ra rất cần thiết và cấp bách. Để góp phần thực hiện định hướng đó, thiết nghĩ cần bám sát Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đoàn, thực hiện đồng bộ một số nội dung, biện pháp cơ bản sau sau:
Một là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên trong tình hình mới.
 Đây là một trong những nhân tố bền vững của sự nghiệp cách mạng nước ta. Bởi lẽ, thanh niên ngày nay được sinh ra và lớn lên trong điều kiện đất nước hoà bình, được hưởng những thành quả đấu tranh và lao động sáng tạo của các thế hệ cha anh, có nhiều điều kiện tốt để vươn cao và xa hơn, song cũng đang đứng trước nhiều thử thách, dễ bị mua chuộc, bị kích động… vì thế, điều cốt yếu hiện nay là cần tạo dựng cho thanh niên ý chí tự lực, tự cường, không cam chịu đói nghèo lạc hậu, dám tự tin vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Nói cách khác, đó chính là quá trình xây dựng động cơ, tạo nội lực tinh thần cho thanh niên. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, bùng nổ thông tin mạnh mẽ như ngày nay, việc bồi dưỡng lý tưởng, tạo dựng bản lĩnh chính trị cho thanh niên chính là còn giúp họ biết chọn lựa, tiếp thu những tinh hoa văn hoá và nâng cao khả năng đề kháng trước các âm mưu phá hoại, chia rẽ, lôi kéo của các thế lực thù địch, các cám dỗ vật chất và các tệ nạn xã hội khác.
Việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cần được tiến hành trên cơ sở khoa học và được triển khai thường xuyên, liên tục thông qua việc tổ chức cho thanh niên nghiên cứu, học tập, quán triệt các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, triển khai học tập các bài lý luận chính trị cơ bản,...
Hai là, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng của các tổ chức Đoàn cho phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng thanh niên.
Trên cơ sở quy luật trưởng thành, trình độ nhận thức của thanh, thiếu niên, nắm chắc đặc điểm tư tưởng, tâm lý của thanh niên các lứa tuổi để thiết kế các nội dung, phương thức giáo dục một cách khoa học từ nhận thức đến hành vi, thói quen, dẫn dắt thanh, thiếu niên trở thành công dân tích cực của xã hội. Tiếp tục bám sát thực tiễn, bám sát thanh niên, kết hợp tốt giữa trang bị kiến thức với trải nghiệm thực tiễn, trong đó coi trọng giáo dục thanh niên qua thực tiễn. Tiếp tục thực hiện thật tốt Cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” và chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; với những tiêu chí và cách làm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng thanh, thiếu niên; xây dựng và nhân rộng được nhiều cá nhân, tập thể thanh niên tiên tiến, là những người có đạo đức để làm gương, có trí tuệ để nhận biết, có ý chí để vươn lên, có bản lĩnh để hội nhập, có quyết tâm để hành động; tổ chức cho các điển hình gặp gỡ, giao lưu, trao đổi với các thanh niên khác, để truyền đi cảm hứng phấn đấu không ngừng, luôn vươn lên khẳng định mình, không ngừng sáng tạo cùng tạo dựng tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao tính hấp dẫn, cụ thể, thiết thực trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên thanh niên. Trọng tâm là đổi mới hình thức học tập lý luận chính trị cơ bản, cách thức quán triệt và triển khai nghị quyết của Đảng, của Đoàn; chú trọng giáo dục truyền thống, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc. Phát huy vai trò tích cực của thanh niên trong việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đi đầu trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại; đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, văn hóa phẩm độc hại. Tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của tuổi trẻ; tăng cường đấu tranh phòng, chống mọi hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; nâng cao sức đề kháng của tuổi trẻ trước những hiện tượng suy thoái về đạo đức và lối sống; phát huy tính tự giác và khả năng sáng tạo của thanh niên trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh; kịp thời dự báo, nắm chắc tình hình diễn biến tư tưởng, tâm trạng của các đối tượng thanh niên để tập hợp, phản ánh và kịp thời giải quyết các vấn đề mới nảy sinh. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và truyền thông trong đổi mới công tác giáo dục của Đoàn.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giáo dục thanh niên.
 Trong đó, nội dung giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng là quan trọng hàng đầu; đó cũng là nhân tố quyết định mọi thành công trong công tác giáo dục thanh niên thời gian qua. Bài học rút ra là ở đâu cấp uỷ, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao thì ở đó công tác thanh niên và giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên của chúng ta có hiệu quả. Nghị quyết XI của Đảng khẳng định: "Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có trí thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính"[1]. Trước yêu cầu nhiệm vụ công tác giáo dục thanh niên hiện nay, một mặt các cấp uỷ, chính quyền cần tiếp tục tin tưởng ở thanh niên; mạnh dạn giao nhiệm vụ cho thanh niên; theo dõi, giúp đỡ và tạo điều kiện để thanh niên rèn luyện, phấn đấu trưởng thành; cổ vũ thanh niên hăng hái, tự tin tham gia thực hiện các  nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Mặt khác, phải tiến hành rà soát lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường; quan tâm gắn kết giữa công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên với việc giải quyết các vấn đề chính đáng của thanh niên như: học tập, việc làm, nhu cầu văn hoá, thông tin, vui chơi, giải trí... tạo môi trường lành mạnh để thanh niên rèn luyện, cống hiến và phát triển toàn diện. Đồng thời, tăng cường đầu tư về mọi mặt cho công tác giáo dục thanh niên, "đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ"[2]
Bốn là, phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng rèn luyện lý tưởng, đạo đức cách mạng của thanh niên.
Tự học tập, tự tu dưỡng là con đường phát triển suốt đời của mỗi con người, đó cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy vai trò của thanh niên trong tự học tập, tự tu dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Vì vậy, cần giáo dục cho thanh niên ý thức tự học, tự thân vận động, độc lập suy nghĩ, rèn luyện óc sáng tạo để thực hiện mục đích học tập của mình. Coi đó là một trong những phẩm chất cần thiết của người thanh niên để chuẩn bị hành trang cho cuộc sống, chuẩn bị cho suốt quá trình công tác. Mặt khác, dù ở bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào thanh niên cũng cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào các giá trị chân, thiện, mĩ; vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã dạy: "gian nan rèn luyện mới thành công".
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu sớm đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Mục tiêu đó đã và đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, trọng trách nặng nề đối với thế hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, tuổi trẻ Việt Nam và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh sẽ ra sức rèn luyện, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua trong học tập, lao động; đoàn kết, xung kích, sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết lần thứ X của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, góp phần thiết thực vào chiến lược con người của Đảng ta trong thời kỳ cách mạng mới.







[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của đảng, Nxb CTQG, H, tr.77
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của đảng, Nxb CTQG, H, tr.216
Chủ nghĩa anh hùng trong chiến thắng 30/4/1975: lịch sử và hiện tại với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Thật tự hào khi nhắc tới lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam – dân tộc có bề dày truyền thống trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm với tinh thần bất khuất, anh dũng và khí phách hiên ngang. Từ thời Vua Hùng dựng nước cho đến nay, dân tộc ta đã tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và hàng trăm cuộc khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Có lẽ những thử thách của lịch sử dựng nước và giữ nước đã “hun đúc” và tôi luyện nên trong mỗi con người Việt Nam những phẩm chất, đức tính cao đẹp như: lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, kiên cường, mưu trí, lao động cần cù, sáng tạo, lòng nhân ái, bao dung… những phẩm chất đó đã hội tụ trở thành truyền thống tốt đẹp tạo nên bản sắc dân tộc của nền văn hoá và con người Việt Nam. Đến thời đại Hồ Chí Minh những phẩm chất đó đã được kế thừa, phát triển rực rỡ, thể hiện rõ nhất là Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, điều này được chứng minh một cách thuyết phục qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ-đỉnh cao của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được coi là thứ vũ khí sắc bén để quân và dân ta chiến thắng kẻ thù xâm lược lớn mạnh và tàn bạo hàng đầu thế giới. Đó là chủ nghĩa anh hùng tập thể, bởi nó xuất hiện và được phát huy cao độ trong phong trào cách mạng của quần chúng, của tinh thần đoàn kết tạo ra sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù. Có lẽ chỉ có Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mới có được những nét tiêu biểu riêng biệt mang đậm sắc thái truyền thống dân tộc: đó là tinh thần tiến công trên trận địa, chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiến; là hình ảnh của em bé đội mũ rơm đi học đến các mẹ, các chị chèo đò đưa bộ đội qua sông dưới bom đạn… Có thể nói, trên khắp đất nước Việt Nam đâu đâu cũng có sự tích anh hùng, con người anh hùng, nó trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và tôi luyện qua sự khắc nghiệt của chiến tranh.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam là sự kết hợp nhuần nhuyễn của lòng dũng cảm, sự mưu trí sáng tạo trong đánh địch, là sự quyết tâm làm chủ các loại vũ khí từ thô sơ đến hiện đại. Đồng thời, Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam còn cho thấy sự linh hoạt, sáng tạo trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện với sự huy động toàn thể các lực lượng, mọi tầng lớp, lứa tuổi trong xã hội, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh giặc cứu nước. Từ các em học sinh, sinh viên, trí thức đến các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo từ Bắc chí Nam đều chung một lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm, lập lại nền hoà bình cho đất nước.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, có nhiều thời điểm đất nước ta trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, tưởng chừng không thể vượt qua. Nhưng Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt, làm nên những thắng lợi kỳ diệu: chiến thắng đạo quân viễn chính và nguỵ quân được trang bị vũ khí tối tân; giành thắng lợi oanh liệt ở Điện Biên Phủ trên không; nổi bật là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng mùa xuân 1975… ở đây Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được thể hiện chính trong sự sáng tạo, đổi mới về cách đánh, trang bị vũ khí cùng với ý chí để chiến thắng kẻ địch.
Như vậy, dưới ánh sáng của Tư tưởng Hồ Chí Minh, sự dẫn đường chỉ lối của Đảng ta, nhân dân Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, được sự giáo dục, bồi dưỡng của Đảng và Bác Hồ, luôn coi trọng kế thừa truyền thống dân tộc, nêu gương người tốt, việc tốt đến các anh hùng, chiến sĩ thi đua, tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước với các điển hình tiên tiến làm cho Chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy lên tầm cao mới với nhiều thành tích khác nhau, như một vườn hoa muôn màu sắc. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam còn là sự biểu hiện của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa yêu nước với tinh thần quốc tế cao cả - sự giúp đỡ, tương trợ làm nên thắng lợi vang dội.
Ngày nay, hoà bình đã lập lại, non sông Việt Nam thu về một mối, Nước ta đang vững bước trên con đường hội nhập, mở cửa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần, ý chí cách mạng ngày 30/4 đã và đang cổ vũ cho mỗi người dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu xét trong dòng chảy dịch sử dân tộc, thì chiến thắng 30/4/1975 chỉ là một khoảnh khắc trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhưng đó thực sự là mốc son lịch sử quan trọng mang tính “bước ngoặt” trên bước đường xây dựng và phát triển đất nước. Đây chính là chiến thắng có tính chất nền tảng, tạo cơ sở quan trọng để đến năm 2020 Nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phương châm đã được đề cập rất rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Phát huy truyền thống lịch sử, với tinh thần thắng lợi của chiến thắng lịch sử 30/4/1975, trong những năm qua Nước ta đã liên tục có những bước phát triển mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Chỉ tính riêng 9 tháng năm 2012, xuất khẩu tăng 18,9%, đạt 83,79 tỷ USD, nhập khẩu tăng 6,6%, đạt 83,76 tỷ USD. Riêng lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 trong số 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm thành công cương vị uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010. Thế và lực của Việt Nam ngày càng vững mạnh, vị thế của Nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách đặt ra, song những thành tích, những kết quả mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đạt được trong những năm qua là cơ bản, là chủ yếu. Không như những gì mà các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc, bóp méo cho rằng, tình hình kinh tế-xã hội của đất nước ta chỉ hoàn toàn là màu ảm đạm. Đây là những âm mưu trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của kẻ địch cần phải được loại bỏ. Đặc biệt, hiện nay đông đảo các tầng lớp nhân dân ta đang tích cực hưởng ứng “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, điều đó đã làm xuất hiện ngày càng nhiều các phong trào thi đua yêu nước, nhiều đơn vị, địa phương tiêu biểu, nhiều cá nhân, tập thể với những thành tích, cống hiến xuất sắc… tất cả đã tạo động lực tinh thần to lớn, giúp đất nước ta vượt qua mọi khó khă, thử thách vững bước đi lên. Đó thực sự là những biểu hiện mới, sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trên con đường đổi mới và hội nhập ngày nay.
Ngày nay thế hệ người Việt Nam cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần quyết tâm giữ vững nền độc lập thống nhất – thành quả mà các thế hệ cha anh phải đánh đổi bằng xương máu. Luôn nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lao động, học tập và công tác có hiệu quả góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.



Bồi dưỡng bản lĩnh chính trị cho thanh niên, sinh viên hiện nay: thực trạng và giải pháp


Thanh niên, sinh viên là thế hệ trẻ - lực lượng “trụ cột” của nước nhà đảm nhiệm trọng trách lớn lao là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề, đòi hỏi lực lượng thanh niên, sinh viên càng phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong học tập, rèn luyện phát huy tinh thần đoàn kết, bản lĩnh thế hệ xung kích thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Thanh niên, sinh viên - họ là những trí thức trẻ, người lao động lành nghề, có sự năng động, sáng tạo, tích cực, đây là nguồn lực quan trọng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Với vai trò và nhiệm vụ quan trọng đó, hơn ai hết bản thân mỗi thanh niên, sinh viên cần phải tích cực, chủ động, cần phải được quan tâm đúng mực trong xây dựng và rèn luyện bản lĩnh chính trị để trở thành những con người sống có mục tiêu, lý tưởng, hoài bão lớn, có niềm tin vào sự thành công của chủ nghĩa xã hội, có tinh thần, ý thức dân tộc cao. Đây là yêu cầu có tính cấp thiết hiện nay trước những biến động, thay đổi phức tạp, khó lường của tình hình chính trị khu vực và thế giới, trước những âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”, sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch đối với nước ta nói chung và đối với thế hệ trẻ nói riêng.
Thanh niên, sinh viên là lực lượng chiếm số đông trong dân cư, do đó mọi hoạt động, mọi hành động của họ đều có tác động, ảnh hưởng lớn tới xã hội, có sức “lan toả” mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương, thanh niên, sinh viên được tin tưởng giao các nhiệm vụ quan trọng, có tính xã hội cao như: tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tuyên truyền xây dựng văn hoá, lối sống tiến bộ, kết nối tình đoàn kết lực lượng và các tầng lớp trong xã hội… Thanh niên, sinh viên còn là những nhân tố tích cực - hạt nhân quan trọng đi đầu trong phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và các phong trào xung kích tình nguyện vì cộng đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế thời gian qua có một bộ phận thanh niên, sinh viên do thiếu hiểu biết, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, nói cách khác là do bản lĩnh chính trị yếu kém đã dẫn đến có những hành vi không đúng nguyên tắc, chuẩn mực chính trị. Qua thái độ phản ứng và cách giải quyết các vấn đề chính trị-xã hội có phần cảm tính, theo số đông của một số thanh niên, sinh viên dẫn đến sự lệch lạc, thiếu nhãn quan chính trị khoa học. Điều đáng phê phán là chính mỗi hành vi đó của số ít thanh niên, sinh viên gây ra nhưng lại tác động rất xấu đến tâm lý của cộng đồng. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thanh niên, sinh viên ngày nay dễ có những phản ứng sai trái, lệch chuẩn về quan điểm chính trị. Trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, nó đã tạo ra cho thanh niên, sinh viên những không gian “thoải mái” để bàn luận, chia sẻ và thể hiện quan điểm, thái độ của mình về mọi lĩnh vực không chỉ về đời sống cá nhân mà cả những vấn đề của cộng đồng xã hội. Điều đáng buồn, đáng xấu hổ là có không ít thanh niên, sinh viên được học hành tử tế, có trình độ nhưng lại không ngần ngại nói ra những quan điểm về các vấn đề nhạy cảm của cộng đồng, của đời sống chính trị mà không có sự tư duy, cân nhắc, tìm hiểu kỹ lưỡng. Không phủ nhận rằng, đa số thanh niên, sinh viên hiện nay khi tiếp xúc với họ về nhận thức chính trị họ thực sự là những người có kiến thức, sáng tạo, yêu nước và có ý thức dân tộc sâu sắc. Vấn đề ở chỗ, do thiếu tính định hướng rõ ràng, chưa được quan tâm, uốn nắn thường xuyên nên một bộ phận thanh niên, sinh viên có những biểu hiện và hành vi chưa chuẩn mực. Đây chính là sự biểu hiện thiếu hụt về bản lĩnh chính trị, nếu không được bồi dưỡng, rèn luyện kịp thời và thường xuyên thanh niên, sinh viên sẽ dễ có nhận thức lệch lạc, dễ bị dao động, lôi kéo, thậm chí sẵn sàng bỏ qua ý thức dân tộc cũng như vai trò của bản thân đối với cộng đồng, đất nước.
Mặt khác, nhiều thanh niên, sinh viên hiện nay bị ảnh hưởng của lối sống hiện đại, nhiều người quá coi trọng việc học tập kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, dẫn tới việc phớt lờ, thờ ơ với việc học tập lý luận chính trị. Đáng buồn là có nhiều thanh niên, sinh viên rất mơ hồ về lịch sử và truyền thống dân tộc, thế nên mới có chuyện “sành sử tầu hơn sử ta”, nghiện phim Hàn Quốc hơn là theo dõi các sự kiện về đất nước, con người Việt Nam… Đây chính là biểu hiện của việc thanh niên, sinh viên không chú trọng tới rèn luyện bản lĩnh chính trị cho mình, trong khi đây được coi là nhân tố quan trọng – “bản lĩnh thứ nhất” của thanh niên, sinh viên, cơ sở hình thành những phẩm chất, đức tính tốt đẹp khác của họ trong thời kỳ mới. Rõ ràng thanh niên, sinh viên là những người có nhiều lợi thế hơn các lực lượng khác trong việc học tập lý luận chính trị, song trên thực tế họ chưa phát huy được hết những lợi thế và vai trò của mình. Đặc biệt điều đáng lo ngại là hiện nay hầu như thanh niên, sinh viên đang có biểu hiện quay lưng với các môn học giáo dục chính trị, trong khi đó các môn học này lại có vai trò nền tảng trong rèn luyện bản lĩnh chính trị cần thiết cho thế hệ trẻ. Thêm vào đó, hầu hết thanh niên, sinh viên hiện nay vẫn còn biểu hiện thờ ơ, chưa thật sự nhiệt tình, chưa được cuốn hút vào các hoạt động xã hội, sinh hoạt tư tưởng thường xuyên nên dễ có những cách nhìn phiến diện, lệch lạc về những vấn đề chính trị, xã hội.
Trước thực trạng đó đặt ra yêu cầu đối với tổ chức đoàn, hội và các nhà trường cần phải tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng chính trị, xây dựng bản lĩnh chính trị cho thanh niên, sinh viên để họ có được sự hiểu biết cần thiết, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng “đủ sức” vượt qua mọi cám dỗ, thử thách trong thời buổi phức tạp của đời sống chính trị hiện nay, cụ thể cần làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò, hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, giáo dục ý thức công dân cho thanh niên, sinh viên.
Đây là hoạt động có vai trò nền tảng trong việc trang bị kiến thức hiểu biết đúng đắn về đời sống chính trị, xã hội cho thanh niên, sinh viên, xây dựng cho thanh niên, sinh viên có nhận thức luận và thế giới quan khoa học, biết ứng xử chuẩn mực với các sự kiện, thông tin trong cộng đồng. Chỉ khi nào bản thân mỗi thanh niên, sinh viên nhận thức rõ được ý thức, trách nhiệm công dân của mình khi đó họ sẽ luôn ghép mình vào khuôn khổ những chuẩn mực đạo đức xã hội, có được những hành vi ứng xử đúng mực. Nội dung giáo dục chính trị cần tập trung vào trang bị những kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và luật pháp của nhà nước. Đồng thời, chỉ rõ cho thanh niên, sinh viên biết được vai trò, trách nhiệm của thế hệ mình với dân tộc, đất nước từ đó không ngừng tu dưỡng, rèn luyện xứng đáng với sự kỳ vọng của Đảng và nhân dân dành cho. Việc nâng cao ý thức công dân cho thanh niên, sinh viên sẽ giúp họ luôn biết suy nghĩ, cân nhắc với mỗi hành vi của mình để không ảnh hưởng xấu tới dư luận xã hội, tới lợi ích quốc gia dân tộc.
Hai là, tạo dựng sân chơi, không gian chia sẻ, trao đổi, học tập và hoạt động xã hội lành mạnh cho thanh niên, sinh viên.
Hiện nay sự phát triển mạnh mẽ của các mạng xã hội, sự thiếu kiểm soát, định hướng kịp thời các nguồn thông tin của các cơ quan chức năng đã khiến cho không ít thanh niên, sinh viên tiếp cận phải các thông tin sai lệch, dẫn tới những suy nghĩ, nhìn nhận lệch lạc về xã hội, cộng đồng. Do đó, cần phải tạo ra một sân chơi lành mạnh, thuận lợi để đông đảo thanh niên, sinh viên được học tập, giao lưu và trao đổi những kiến thức, hiểu biết về các vấn đề xã hội quan tâm, những sự kiện quan trọng của đất nước. Qua đó, giúp họ có cách nhìn nhận toàn diện, chính xác hơn, xoá bỏ những nghi ngờ, lệch lạc của cách nhìn nhận phiến diện, tư duy cảm tính. Hiện nay cần hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội, thay vào đó thu hút thanh niên, sinh viên tích cực tham gia các hoạt động phong trào hướng tới các hoạt động thực tiễn, tình nguyện, đồng thời tổ chức nhiều câu lạc bộ, các cuộc thi, cuộc giao lưu để thanh niên, sinh viên được trải nghiệm thực tiễn qua đó hình thành bản lĩnh, cách ứng xử khoa học.
Ba là, tạo điều kiện cho thanh niên, sinh viên tham gia các hoạt động phong trào, hoà mình vào thực tiễn chính trị để rèn luyện, củng cố bản lĩnh chính trị.
Các hoạt động thực tiễn xung kích tình nguyện vào thực hiện các nhiệm vụ của xã hội như: hiến máu tình nguyện, cứu hộ cứu nạn, tình nguyện bảo vệ môi trường, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… nhất là việc phát huy vai trò của tuổi trẻ trong tuyên truyền, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các lực lượng thù địch mang lại hiệu quả tích cực trong việc rèn luyện, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên, sinh viên. Thực tiễn cho thấy, khi phát huy được vai trò của đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia vào các hoạt động thực tiễn xã hội, tham gia vào đời sống chính trị của đất nước thì bản thân họ sẽ luôn ý thức rõ ràng được trách nhiệm của mình đối với vận mệnh đất nước, có trách nhiệm với dư luận cộng đồng. Sự trải nghiệm thực tiễn, nhu cầu được tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội của đất nước không chỉ giúp cho thế hệ trẻ thấy được vị trí, trách nhiệm của mình với đất nước, mà qua đó còn góp phần quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên, sinh viên.
Bốn là, coi trọng hơn nữa việc học tập và tìm hiểu lịch sử truyền thống tốt đẹp của dân tộc đối với lực lượng thanh niên, sinh viên.
Có một bộ phận thanh niên, sinh viên hiện nay có biểu hiện “quay lưng” lại với lịch sử, với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Họ sẵn sàng “trà đạp” lên những giá trị truyền thống tốt đẹp để chạy theo những giá trị phù phiếm, ảo tưởng để rồi đánh mất mình lúc nào không hay. Đây là một thực tế khiến không ít người lo ngại cho một bộ phận thanh niên, sinh viên sẽ bị trượt dài trong sự sai lầm, thậm chí dẫn tới phạm tội. Giới trẻ sẽ không thể trưởng thành và làm tròn được sứ mệnh lịch sử của mình nếu như họ lãng quên quá khứ, coi nhẹ giá trị truyền thống. Do đó, thời gian tới tổ chức đoàn các cấp và nhà trường cần phải tăng cường các nội dung học tập, tìm hiểu lịch sử truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho thanh niên, sinh viên để họ có hiểu biết đầy đủ về lịch sử dân tộc, củng cố lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước. Các nội dung học tập, bồi dưỡng về lịch sử truyền thống cần có bước “đột phá” trong nội dung, cách thức tạo sức hấp dẫn lớn nhằm lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia. Tóm lại, để xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên, sinh viên cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên của tổ chức đoàn, nhà trường và các tổ chức chính trị - xã hội để giúp thế hệ trẻ hoàn thành tốt vai trò, trách nhiệm của mình với vận mệnh dân tộc.


Bộ đội biên phòng với nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ an ninh biên giới trong tình hình mới hiện nay


Trong những năm gần đây tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch vẫn đang điên cuồng chống phá và ngấm ngầm thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà bình” đối với nước ta. Điều đó đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu cao đối với lực lượng vũ trang nói chung và đối với lực lượng bộ đội biên phòng nói riêng trong nhiệm vụ bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền Tổ quốc, giữ gìn an ninh biên giới hiện nay. Riêng đối với nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới – nhiệm vụ cấp bách hiện nay thì lực lượng bộ đội biên phòng luôn giữ vị trí, vai trò “nòng cốt”.
Riêng trong năm 2013, lực lượng bộ bộ biên phòng (BĐBP) đã cùng lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng tiến hành hơn 2.500 cuộc gặp gỡ ở các cấp; tổ chức 750 đợt tuần tra chung; phối hợp chặt chẽ trong hoạt động kiểm soát xuất, nhập cảnh và tuyên truyền đối ngoại cho hàng triệu lượt người ra vào Việt Nam, góp phần giải quyết thông thoáng việc qua lại cho nhân dân hai bên biên giới; nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm; phục vụ tốt việc phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia, hoàn thành việc tăng dày, tôn tạo mốc quốc giới trên thực địa với Lào. Bên cạnh đó, BĐBP cũng đã chủ động chủ trì, phối hợp với cơ quan chức năng của Trung Quốc xây dựng, hoàn chỉnh nội dung: Thoả thuận hợp tác biên phòng (sửa đổi) và Điều lệ công tác của Uỷ ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền, phục vụ Bộ Quốc Phòng hai bên ký kết trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam (tháng 6-2013), tạo nền tảng thúc đẩy hợp tác về biên giới, cửa khẩu giữa hai nước đi vào chiều sâu, hiệu quả, góp phần xây dựng khu vực biên giới chung hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Đặc biệt, Đảng uỷ, Bộ tư lệnh BĐBP đã chỉ đạo BĐBP các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc xây dựng quy chế quan hệ tốt với các đồn, trạm của bạn. Đến nay, đã có 11 đơn vị của BĐBP các tỉnh như: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai,… tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bảo vệ biên giới của Trung Quốc. Bộ tư lệnh BĐBP cũng phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam triển khai kế hoạch tổ chức chương trình giao lưu “Biên cương thắm tình hữu nghị”, có sự tham gia của đại diện lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia).
Như vậy, với những kết quả đạt được rất quan trọng nêu trên lực lượng BĐBP đã trực tiếp đóng góp vai trò quan trọng trong nhiệm vụ giữ vững chủ quyền an ninh vùng biên giới của Tổ quốc, tạo môi trường ổn định vững chắc cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể khẳng định, lực lượng BĐBP ngày càng giữ vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn chủ quyền an ninh biên giới quốc gia và vai trò của BĐBP ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng trước những diễn biến khó lường của khu vực và thế giới hiện nay. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, cần phải tiếp tục quan tâm, xây dựng lực lượng BĐBP ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, trang bị từng bước hiện đại “đủ sức” đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giữ vững chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong những năm qua, Bộ tư lệnh BĐBP đã chỉ đạo toàn lực lượng tích cực đổi mới toàn diện các biện pháp nghiệp vụ công tác biên phòng nhằm phù hợp và bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, trong đó nổi lên là công tác đối ngoại biên phòng. Trên cơ sở quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác đối ngoại biên phòng với nhiệm vụ giữ vững chủ quyền an ninh biên giới, Bộ tư lệnh BĐBP đã thường xuyên chỉ đạo các đơn vị trong BĐBP tăng cường quan hệ phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng để duy trì việc thực hiện các hiệp ước, quy chế biên giới; cùng nhau hợp tác, quản lý và bảo vệ biên giới hoà bình, hữu nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước. Cụ thể, ngay từ năm 2007, Bộ tư lệnh BĐBP đã làm tốt công tác chỉ đạo, tập trung quan hệ với lực lượng bảo vệ biên giới của Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia để cùng nhau quản lý, bảo vệ biên giới; duy trì quan hệ tốt với Ngành Biên phòng Cơ quan An ninh Liên Bang Nga, mở rộng quan hệ với Bộ Nhập cư, đa văn hoá Ô-xtrây-li-a và các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ trong hợp tác chống nhập cư trái phép, giúp đỡ trang thiết bị phát hiện giấy tờ hộ chiếu giả và đào tạo tiếng Anh, huấn luyện chó nghiệp vụ và tham gia sáng kiến an ninh container, đấu tranh phòng, chống tội phạm ma tuý…
Những hoạt động của lực lượng BĐBP đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững môi trường hoà bình, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, nâng cao tiềm lực sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới hiện nay. Đồng thời, thông qua những hoạt động thiết thực, hiệu quả của BĐBP còn tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân khu vực biên giới Việt Nam và các nước láng giềng nêu cao tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn, thiên tai, hoạn nạn cũng như giúp đỡ nhau trong sinh hoạt và lao động sản xuất; thúc đẩy hợp tác về kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân khu vực vùng biên giới chung. Qua đó còn góp phần tích cực trong đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động vượt biên, buôn lậu và gian lận thương mại, mua bán người qua biên giới và phòng chống các loại tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng biên giới hoà bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới lực lượng BĐBP tiếp tục triển khai phối hợp chặt chẽ với quần chúng nhân dân khu vực biên giới, phát huy tinh thần tích cực, trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo vệ đường biên, mốc giới cũng như giữ gìn, củng cố và phát triển mối quan hệ hữ nghị, hợp tác với các các nước có chung biên giới. Trong đó, tập trung vận động nhân dân khu vực biên giới tích cực tham gia cùng BĐBP bảo vệ đường biên, cột mốc và dấu hiệu vành đai khu vực biên giới; không làm hư hỏng, xê dịch cột mốc biên giới, dấu hiệu biên giới, biển báo khu vực biên giới, vành đai biên giới… không tham gia buôn lậu hoặc che giấu, chứa chấp, chỉ đường cho bọn buôn lậu hoặc tham gia vận chuyển hàng lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ, các chất ma tuý, không buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới… Đặc biệt, BĐBP cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào kết nghĩa cụm dân cư, đối ngoại biên giới, đối ngoại nhân dân nhằm giữ vững ổn định chính trị, thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa các nước và nhân dân có chung đường biên giới.