Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

TƯ TƯỞNG CƠ HỘI - MỘT TRONG NHỮNG TƯ TƯỞNG CẦN LOẠI BỎ


Trong quá trình đấu tranh cách mạng phức tạp, lâu dài, ở vào những bước ngoặt lịch sử thường xuất hiện tư tưởng cơ hội về chính trị dưới nhiều màu sắc, hữu khuynh hoặc tả khuynh ở những mức độ khác nhau. Điều đó thể hiện trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi cuộc chiến đấu ở vào thời kỳ quyết liệt, đã có một số người trước sức mạnh tàn bạo của kẻ thù xâm lược, trước những hy sinh gian khổ của cuộc kháng chiến đã dao động về chính trị, không kiên định đường lối chiến tranh giải phóng miền Nam, sợ tiến hành đấu tranh vũ trang, có ảo tưởng về con đường thoả hiệp, chung sống hoà bình.
Đầu những năm 80 (thế kỷ XX), đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, Đảng tự phê bình nghiêm túc và từ tổng kết thực tiễn khởi xướng công cuộc đổi mới, đưa đất nước dần thoát khỏi khủng hoảng, phát triển đi lên. Nhưng chính lúc đất nước chuyển vào thời kỳ mới với muôn vàn khó khăn phức tạp, có một số người miệng hô hào đổi mới nhưng xa rời nguyên tắc, từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, tán dương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đề cao vai trò của kinh tế thị trường nhưng coi nhẹ chức năng quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cổ vũ cho tư nhân hoá, tự do hoá tư sản, kêu gọi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Đồng thời như một sự phản ứng lại, ở phía kia có một số người bám giữ những quan niệm giáo điều về mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, luyến tiếc cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, có định kiến với nền kinh tế nhiều thành phần, dị ứng với cơ chế thị trường, coi nó đồng nghĩa với đi theo con đường tư bản chủ nghĩa...
Trước thoái trào của phong trào cộng sản quốc tế, trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, họ hoang mang, mất niềm tin vào con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn. Họ bị choáng ngợp trước những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của các nước tư bản phát triển, dễ tin theo những luận điệu tuyên truyền dân chủ tư sản.
Tư tưởng cơ hội gây nguy hại tới sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, kể cả bản thân vận mệnh của Đảng. Nếu không được ngăn chặn, nó là nguy cơ làm thoái hoá biến chất Đảng về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống, nhất là trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cần đấu tranh phòng ngừa và chống tư tưởng cơ hội dưới mọi màu sắc, mọi biểu hiện.
Trước hết cần tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng một cách chủ động, kịp thời, sắc bén, có tính thuyết phục cao hơn nữa. Coi trọng giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, về con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn và dẫn dắt nhân dân ta phấn đấu giành những thành tựu lịch sử to lớn. Phê phán vạch trần các luận điệu thù địch xảo trá mưu xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, cổ vũ cho "dân chủ, nhân quyền" tư sản. Không lúc nào buông lỏng cuộc đấu tranh vạch trần bản chất sai trái, nguy hại của chủ nghĩa cơ hội xét lại, chủ nghĩa giáo điều cũ và mới, của mọi biểu hiện mơ hồ, dao động về chính trị cũng như lối sống cơ hội, cá nhân chủ nghĩa. Cán bộ, đảng viên được trang bị đầy đủ về nhận thức quan điểm đúng đắn sẽ có lập trường chính trị kiên định, vững vàng, giàu sức đề kháng trước những quan điểm tư tưởng sai trái.

Thương cho Dương Thu Hương, Bùi Tín, Phạm Trần những nhân phẩm lạc lối khi đọc tác phẩm "CHÂN TRẦN - CHÍ THÉP"


 “CHÂN TRẦN - CHÍ THÉP” là một cuốn sách đặc biệt, khi nó được viết bởi chính một Trung tá Thủy quân Lục chiến Mỹ - Nay trở thành một người bạn thân thiết trong quá trình hòa giải và hàn gắn những nỗi đau thời hậu chiến, thúc đẩy quá trình thấu hiểu, hợp tác và hàn gắn vết thương chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
James G. Zumwalt, tác giả cuốn sách là con trai của Đô đốc Elmo Russell Zumwalt, Jr., Tư lệnh Hải quân Mỹ đặc trách lực lượng duyên hải và đường sông thời Chiến tranh Việt Nam, trong tác phẩm này Ông viết: “Một số ý kiến của chính quyền Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi đã nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi. Không nơi nào mà quyết tâm được thể hiện rõ như thái độ những người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi. Hiểu được quyết tâm duy trì Đường mòn cũng như bám trụ tại địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “chí thép” của họ. Đó chính là ý chí thép đặc trưng và rất đặc biệt của người Việt Nam, vốn đã thôi thúc họ tiến lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến trước người Mỹ.”
Chính nhận định trung thực, thẳng thắn ấy mà Chân Trần, Chí Thép được đánh giá cao về mặt nội dung. Trong cuốn sách, cuộc chiến được đặc tả thông qua con người thật, sự kiện thật nhưng lại bằng quan điểm của một chiến binh đã từng đứng bên kia chiến tuyến. Khác biệt ngôn ngữ, khác biệt quan điểm, khác biệt lý tưởng ấy không biến những cảm xúc thành lạc điệu mà ngược lại, nó đồng cảm đến tận cùng, bởi, chiến tranh, dù thắng hay thua thì tổn thất là không thể đo đếm được. Những câu chuyện trong Chân Trần, Chí Thép đều gắn với một con người cụ thể, có thể là một cô văn công, có thể là một vị tướng, cũng có thể là một người dân thường… Sự đa dạng ấy khiến Chân Trần, Chí Thép trở nên thật đến trần trụi khi khắc họa chiến tranh và hậu quả chiến tranh để người đọc có cái nhìn sâu hơn, chi tiết hơn về những con người đã góp mặt trong thời điểm ấy.

Thông điệp mà James G. Zumwalt mang đến là cho nhiều người thuộc cả nhiều bên chiến tuyến xưa, rằng: “tinh thần dân tộc và lòng tự hào luôn bùng cháy, thổi lên trong lòng mỗi người dân Việt Nam quyết tâm đánh đuổi ngoại bang. Tinh thần dân tộc, lòng tự hào và quyết tâm ấy phát triển thành một sức mạnh vĩ đại nhất - một CHÍ THÉP - giúp họ thực hiện được điều tưởng như không thể. Để cuối cùng, CHÍ THÉP đã đánh bại công nghệ của siêu cường hùng mạnh nhất thế giới”. Trong khi có những người Việt như Dương Thu Hương, Bùi Tín, Phạm Trần và nhiều phần tử hằn thù với dân tộc lại luôn rêu rao, xuyên tạc: “Cộng sản Bắc Việt đã gây ra cuộc chiến tranh làm hàng triệu người thảm tử”, rằng lịch sử mấy ngàn năm bất khuất, kiên cường của dân tộc ta là “lịch sử bất hạnh của một dân tộc hèn mọn”. Thật đáng buồn và thương hại cho những kẻ xuyên tạc lịch sử, phỉ báng truyền thống như thế!

Tại sao phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại?


      Trong suốt tiến trình lịch sử phát triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, giai cấp công nhân luôn phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là xoá bỏ  chế độ tư hữu, xoá bỏ áp bức bóc lột, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng loài người. Cùng với quá trình đó, để phong trào tồn tại và phát triển thì giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản còn phải tiến hành một cuộc đấu tranh rất gay go và quyết liệt, quyết định sự sống còn của mình với một loại kẻ thù giấu mặt và trá hình, núp dưới bóng chủ nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác và phản bội lại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đó là chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Chủ nghĩa cơ hội xét lại là trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin là tàn dư tư tưởng tư sản, tiểu tư sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là sự hi sinh lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, của phong trào công nhân vì lợi ích trước mắt của một bộ phận.Thực chất đó là sự đầu hàng trước những trào lưu tư tưởng tư sản và phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại tồn tại dưới nhiều hình thức biểu hiện: về lý luận, đó là sự triết trung, nguỵ biện sẵn sàng thay đổi quan điểm tư tưởng cơ bản để trục lợi. Về kinh tế, chúng mang tư tưởng thực dụng sẵn sàng đánh đổi cả phong trào vì lợi ích kinh tế trước mắt của một nhóm người. Về hành động, hành động phiêu lưu, lúc tả lúc hữu, lúc thì nóng vội, lúc thì chủ quan từ bỏ mục tiêu cách mạng, thủ đoạn thì tinh vi lắt léo sẵn sàng thoả hiệp với mọi loại trào lưu khi có lợi. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại có quá trình hình thành gắn với quá trình đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với các trào lưu phi xã hội chủ nghĩa, các quan điểm sai trái và các hành động chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Cuộc đấu tranh này là một quá trình thường xuyên liên tục có những lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phải chịu đựng những hậu quả tai hại do chủ nghĩa cơ hội, xét lại gây lên làm kìm hãm phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, cản trở sự phát triển của nhân tố cách mạng vô sản, làm chệch hướng sự phát triển của phong trào cách mạng và phá vỡ tính thống nhất của phong trào, cắt xén, bóp méo, xuyên tạc dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lê nin trên nhiều phương diện.
Hiện nay trước tình hình chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang gặp nhiều khó khăn thử thách, chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực phản động đang điên cuồng chống phá cách mạng, hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, bóp chết phong trào cách mạng thế giới. Đây là cơ hội cho chủ nghĩa cơ hội, xét lại ngóc đầu dậy chống phá phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và đó cũng là điều kiện để chúng ta nhận rõ bộ mặt nham hiểm xảo quyệt và những âm mưu thủ đoạn thâm độc của chủ nghĩa cơ hội, xét lại được biểu hiện rất phong phú để chống phá Đảng, chống phá chủ nghĩa xã hội.
Đối với cách mạng Việt Nam trong thời gian hiện nay mặc dù chủ nghĩa cơ hội xét lại với những biểu hiện chưa rõ nét nhưng những phần tử cơ hội xét lại luôn cấu kết với bọn phản động trong và ngoài nước, các thế lực phản động quốc tế và chủ nghĩa đế quốc nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đòi đa nguyên về chính trị, đa Đảng đối lập, đòi từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Phủ nhận thành quả cách mạng mà toàn Đảng toàn dân ta đã đạt được trong 87 năm từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng. Cùng với nó hiện nay trước sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ đảng viên có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước, thực trạng tham nhũng đang hoành hành và những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng của chúng ta cũng là những thuận lợi cho những phần tử cơ hội xét lại tiếp tục ngóc đầu dậy chống phá công cuộc đổi mới, xuyên tạc đường lối quan điểm của Đảng, nhất là vào dịp đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII .Vì vậy chúng ta phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại đây không những là vấn đề mang tính quy luật trong sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên cấp bách của Đảng cộng sản, phong trào công nhân thế giới nói chung và Đảng ta, cách mạng Việt Nam nói riêng. Do đó nghiên cứu tập trung làm rõ quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; từ đó liên hệ với cách mạng Việt Nam hiện nay để xây dựng Đảng ta vững mạnh, đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của những phần tử cơ hội, xét lại cấu kết với các lực lượng phản động trong và ngoài nước tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.


“Thư ngỏ”, “kiến nghị”, “tâm thư”… những luận điệu vô căn cứ


Trên một số trang mạng xã hội đăng tải các bài viết dưới danh nghĩa “thư ngỏ”, “kiến nghị”, “tâm thư”… với nội dung chỉ trích, “kiến nghị” đòi hỏi vô lý, phi thực tế. Một số trích đoạn phơi bày cái gọi là “tâm huyết” của các tác giả, vẫn là những điệp khúc muôn thuở, nào là “sai lầm đường lối” của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; nào là “thể chế độc đảng toàn trị” nên “xã hội không có tự do, dân chủ”…
Về phương diện lý luận, nghiên cứu lịch sử đương đại, Mác và Ăngghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng, quan điểm cơ bản đó trong điều kiện mới, V.I.Lênin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền của Đảng Cộng sản, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Về phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam với truyền thống đoàn kết, thống nhất, được tổ chức và hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong 30 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Về phương diện lịch sử, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở Việt Nam cũng có thời kỳ tồn tại đa đảng, nhưng sau đó các đảng khác đều tự giải tán do hoàn thành vai trò lịch sử và không còn cơ sở xã hội để tồn tại. Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam - đó là sản phẩm của sự lựa chọn mang tính khách quan của lịch sử dân tộc.
Bài học rút ra từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn còn nguyên giá trị. Các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận thức rõ rằng, không cần thiết phải thực hiện “đa nguyên chính trị”. Và khẩu hiệu “đa đảng chính trị” chỉ là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị muốn loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm chuyển đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sang mô hình xã hội kiểu phương Tây, phá hoại sự ổn định của đất nước, xóa bỏ những thành quả mà giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc ta đã phải mất bao nhiêu xương máu mới giành được. Phủ nhận Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là phủ nhận một thực tế lịch sử, phủ nhận một trong những trang hào hùng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam; là sự xúc phạm đến tình cảm và điều thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước.


Thứ Ba, 26 tháng 12, 2017

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ XU THẾ TOÀN CẦU HÓA

Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng những yêu cầu về phẩm chất và tay nghề khi tham gia vào quá trình hội nhập khu vực, quốc tế và xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt phương hướng, mục tiêu và một số những giải pháp cơ bản sau đây.
 Phương hướng chung: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh toàn diện đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới.
Mục tiêu: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhậy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giải pháp cơ bản xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình hội  nhập  quốc tế và xu thế toàn cầu hóa
Một là, Đảng, Nhà nước cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện về phát triển giai cấp công nhân.
Hai là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân.
Ba là, quan tâm  bối dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân.

Bốn là, giai cấp công nhân tự nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm giai cấp, trách nhiệm với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế để không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đáp ứng những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người công nhân thời đại mới. 

SỰ TÁC ĐỘNG, ẢNH HƯỞNG CỦA XU THẾ TOÀN CẦU HÓA VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đã và đang làm cho thế giới có những biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nó tác động đến mọi đối tượng trong xã hội tuy mức độ khác nhau song xét về tổng thể thì giai cấp công chịu sự tác động mạnh mẽ nhất. Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến giai cấp công nhân nói chung thể hiện: làm cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh và được áp dụng ngay vào trong sản xuất; sản phẩm làm ra mang hàm lượng trí tuệ cao; nền sản xuất hàng hóa mang tính toàn cầu. Đây là điểm mấu chốt làm cho giai cấp công nhân tăng cả về số lượng, chất lượng cũng như sự phân hóa cơ cấu trong chính ngay giai cấp công nhân. Tuy nhiên sự tác động đó không làm mất đi những đặc trưng, bản chất và vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân mà nó càng được tăng lên nếu như họ được giáo dục giác ngộ.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của công nhân thế giới, do vậy  nó cũng có đầy đủ những đặc trưng và phẩm chất của giai cấp công nhân quốc tế và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công công nhân nói chung. Tuy nhiên cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đã tác động rất lớn đế giai cấp công nhân Việt Nam cả tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực;
          Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong hội nhập khu vực quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, làm cho giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức.
Ý thức chính trị của giai cấp công nhân được nâng lên: có sự hiểu biết về vị trí, vai trò lịch sử đối với tiến trình phát triển xã hội; hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng cao; nhận thức đúng về các tổ chức trong hệ thống chính trị; về chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; có ý thức pháp luật. Đồng thời đội ngũ công nhân hiện nay đã có thái độ đúng đắn với sự nghiệp CNH,HĐH đất nước; nhận thức về nhu cầu và lợi ích chính trị của mình. Các tổ chức của giai cấp công nhân hoạt động ngày càng đi vào nề nếp và đạt hiệu quả khá tốt.
Mặt hạn chế:
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, giai cấp công nhân Việt Nam chịu ảnh hưởng và đang trong quá trình phát triển cho nên tính ổn định không cao. Tốc độ công nhân hóa lực lượng lao động xã hội, trí thức hóa đội ngũ công nhân rất chậm. Tỷ lệ công nhân lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng chậm. Trong khi đó: lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp giảm thấp; tốc độ trí thức hóa công nhân chậm, trình độ học vấn, chuyên môn không đáp ứng yêu cầu sản xuất trong đây chuyền sản xuất kỹ thuật cao; công tác đào tạo công nhân có tay ngề vững còn nhiều bất cập, không đáp ứng yêu cầu công việc, thường phải đào tạo lại tại; một bộ phận không nhỏ công nhân không nhận thức rõ vai trò của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong gương mẫu, nhận thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình một cách chung chung, hiểu biết chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hạn chế, ý thức tổ chức kỷ luật không cao.

Như vậy, sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa vừa tác động tích cực vừa ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội nói chung và đến giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng.  Tuy nhiên để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội đất nước giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là giai cấp lãnh đạo, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội  là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp dưới sự  lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.

HỘI NHẬP QUỐC TẾ LÀ XU THẾ KHÁCH QUAN CỦA VIỆT NAM

Trong bối cảnh của tình hình quốc tế hiện nay, không một quốc gia dân tộc nào trên thế giới (kể cả các nước giầu hay nước nghèo; nước lớn hay nước nhỏ, nước phát triển hay chậm phát triển; dù đó là các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau...) muốn hay không, vẫn phải chấp nhận và tham gia vào tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam là một nước đang phát triển, chủ trương thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước bối cảnh quốc tế hiện nay, chúng ta tiến hành hội nhập với khu vực và quốc tế là một tất yếu khách quan. Bởi xuất phát từ mấy lý do sau:
Thứ nhất, đây là một xu thế chung của nhân loại - xu thế của quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá đang và sẽ là một xu thế lớn tác động sâu sắc tới các lĩnh vực của đời sống quốc tế, nó đi sâu vào từng quốc gia và buộc các chủ thể này phải có những thay đổi về chiến lược, sách lược phát triển đất nước cho phù hợp với bối cảnh toàn cầu hoá đang ngày càng lan rộng. xét về bản chất, toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới.
Bởi thực tế hiện nay sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, sự hình thành mạng Internet bao trùm toàn cầu, đã làm cho sức sản xuất hàng hóa có hàm lượng trí tuệ phát triển nhanh, mối liên hệ giữa các dân tộc, các quốc gia và khu vực ngày càng được tăng cường. Toàn cầu hoá đang là một xu thế khách quan tác động mạnh mẽ tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, tới mọi chủ thể trong quan hệ quốc tế không phân biệt các nước có chế độ chính trị khác nhau. Toàn cầu hoá làm cho mối liên hệ và sự phụ thuộc vào nhau của các nền kinh tế tăng lên, đồng thời kéo theo hàng loạt các vấn đề chính trị xã hội. Vì thế, trong xu thế chung này, Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế chung đó.
 Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của nước ta, đi lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tâm lý, tư tưởng, thói quen, tập quán sản xuất nhỏ hàng ngàn năm đè nặng trong suy nghĩ và hành động, còn ăn sâu bám rễ trong mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội gặp muôn vàn khó khăn cùng những trở ngại. Cho nên, chúng ta tham gia hội nhập vào đời sống quốc tế và khu vực là điều tất yếu, là một trong những con đường để đưa đất nước vượt lên, thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu, là sự rút ngắn giai đoạn quá độ và khoảng cách chênh lệch giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Thứ ba, do yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là con đường duy nhất đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, là quá trình chúng ta xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH và hoàn thành mục tiêu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiẹp theo hướng hiện đại” mà Đảng ta đã xác định thì chúng ta cần thiết phải thực hiện quá trình hội nhập, mở cửa với khu vực và quốc tế. Quá trình hội nhập sẽ mang lại cho chúng ta vốn, trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ đặc biệt là các công nghệ hiện đại như: công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…và đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Với những lý do trên, có thể khẳng định rằng, Việt Nam tham gia hội nhập vào khu vực, quốc tế là tất yếu khách quan, là xu thế hợp quy luật, hợp với sự vận động của đời sống quốc tế hiện nay. Sự hội nhập này vừa là một xu thế không thể cưỡng lại nhưng cũng là nhu cầu phát triển nội tại của Việt Nam, là chính sách và cũng là chiến lược phát triển đất nước của chúng ta trong thế kỷ XXI.

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

Nhận diện các ấn phẩm, tài liệu xấu độc hiện nay

Xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu có nội dung xuyên tạc, bóp méo sự thật để hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế là một trong những phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch; trong đó, chúng tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động thâm độc, nguy hiểm này là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, chúng đặc biệt coi trọng việc xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình thực tế của đất nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo,... gây mâu thuẫn, chia rẽ nhân dân với Đảng, chính quyền, phá vỡ sự đồng thuận xã hội. Đồng thời, làm suy giảm lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kích động các đối tượng cơ hội, bất mãn trong nước hoạt động chống đối và khi có thời cơ lôi kéo quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị. Qua nghiên cứu, có thể phân loại các ấn phẩm, tài liệu chính như sau:
Một là, các nghị quyết, dự luật,… của Nghị viện, Quốc hội Mỹ, Úc, các nước phương Tây (Anh, Thụy Sỹ,…). Các ấn phẩm này thường có những nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở các quốc gia; trong đó có Việt Nam, nhằm đưa ra các yêu sách trong quan hệ ngoại giao song phương, đa phương, can thiệp sâu vào nội bộ Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; Báo cáo, Nghị quyết thường niên của Quốc hội châu Âu, Anh về tình hình nhân quyền thế giới...
Hai là, các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO) gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng của Việt Nam với nội dung phản ánh sai lệch tình hình trong nước, như: Thông cáo báo chí của tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Kháng thư của Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW)...
Ba là, các ấn phẩm xuất bản, như: sách, báo, tạp chí, tập san, tờ rơi, truyền đơn… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, các NGO hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền, các hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam, với nội dung không đúng sự thật hoặc bóp méo, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo.
Bốn là, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt định kỳ của các hãng VOA, RFA, RFI,… có nội dung cập nhật mặt trái của tình hình dân chủ, nhân quyền trong nước, nhưng được xuyên tạc, thổi phồng hoặc tô đậm những yếu kém, vi phạm của chính quyền các cấp trong giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, dân tộc; xử lý các đối tượng lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để vu cáo, rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, v.v.
Cùng với đó, các thế lực bên ngoài đã lập ra các đài phát thanh, truyền hình và website, blog, diễn đàn; lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, internet để thực hiện chiến dịch phá hoại tư tưởng, chống phá Việt Nam. Thông qua hợp tác trên các lĩnh vực bưu chính viễn thông, báo chí, xuất bản trong nước, chương trình hợp tác quốc tế, dự án đào tạo báo chí, các hội thảo để móc nối, tác động chuyển hóa tư tưởng. Chúng còn lợi dụng đường thư tín, bưu phẩm, bưu kiện, nhân viên ngoại giao, các đoàn khách quốc tế vào thăm, làm việc tại Việt Nam để chuyển tải các ấn phẩm, báo cáo, tài liệu vào nước ta, đầu độc thông tin, làm cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất lòng tin vào Đảng, từng bước hình thành xu hướng ly khai, lôi kéo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, tiến tới hình thành đảng đối lập, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta.
Nhằm triển khai các chiến dịch phá hoại tư tưởng nêu trên, các thế lực thù địch ráo riết xuất bản, tán phát, chuyển tải các ấn phẩm, tài liệu vào trong nước, thông qua hàng trăm trang web, blog, báo điện tử, diễn đàn phản động trên mạng in-tơ-nét, hàng trăm báo, tạp chí, nhà xuất bản, hàng chục đài phát thanh có chương trình tiếng Việt. Chúng triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng hoặc xảy ra các vụ việc phức tạp để tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động nhằm cổ súy cho số đối tượng chống đối; phục vụ cho các kỳ họp Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc có đoàn Việt Nam tham gia nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong còn tìm cách tác động các chính khách cực đoan Mỹ, phương Tây (L.Sanchez, Tremosa I.Balcells,…) thường xuyên gây sức ép Hạ viện Mỹ, Anh, Quốc hội EU ra nghị quyết, dự luật xuyên tạc, vu cáo tình hình dân chủ, nhân quyền để lấy cớ đưa yêu sách và can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Họ thông qua các hội nghị, điều trần của Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng kinh tế - Văn hóa - Xã hội của Liên hợp quốc; các hội nghị của Quốc hội Mỹ, Nghị viện châu Âu, các nước phương Tây để gây sức ép ra các “báo cáo”, “thông cáo”, “nghị quyết”,… tuyên truyền, xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Từ năm 1999 đến nay, hằng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ cho ra cái gọi là “Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế” đánh giá thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhiều lần đưa Việt Nam vào danh sách CPC và áp dụng biện pháp trừng phạt vì cho rằng Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng”(!)
Để đấu tranh, ngăn chặn hoạt động đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, luật, văn bản chỉ đạo và quản lý hoạt động trên lĩnh vực này. Các cơ quan chức năng đã chủ động triển khai biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc tình hình nước ta; phát hiện sơ hở, thiếu sót, bất cập trong các quy định của pháp luật về quản lý trên lĩnh vực thông tin - truyền thông để tham mưu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; chỉ đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh tuyên truyền, phản bác luận điệu sai trái, thù địch. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương, đối ngoại nhân dân, qua tiếp xúc với các đoàn quốc tế quan tâm đến nhân quyền ở Việt Nam, chúng ta đã chuyển tải chính sách, thành tựu đảm bảo quyền con người tới bạn bè quốc tế, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền đối với nước ta. Qua đó, tranh thủ được sự hợp tác và hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế trên nhiều lĩnh vực, góp phần ngăn chặn những hành động xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền; đấu tranh, phê phán những hoạt động thiếu thiện chí của các tổ chức, cá nhân bên ngoài đối với Việt Nam.

Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tán phát ấn phẩm, tài liệu xuyên tạc tình hình ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn thụ động; công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, internet còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật trên lĩnh vực này chưa được hoàn thiện, bộc lộ nhiều sơ hở để kẻ địch lợi dụng. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong phòng ngừa, đấu tranh chưa thường xuyên, nặng hình thức. Tình trạng vi phạm định hướng tuyên truyền và các quy định trong việc đăng thông tin, bài viết nhạy cảm, tán phát trên phương tiện thông tin đại chúng có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Tổ chức bộ máy làm công tác bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh vực này còn thiếu, trình độ kỹ thuật chuyên môn, nghiệp vụ chưa chuyên sâu; việc xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe.

QUAN NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY

Vấn đề xã hội bao gồm tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của con người, kể cả thường xuyên và bất thường (thiên tai, dịch bệnh...) trong mối quan hệ với xã hội và tự nhiên, những nảy sinh trong quá trình phát triển của xã hội (việc làm, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, học tập, chăm sóc sức khỏe, môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, nhân văn; khả năng hòa nhập, nâng cao mức sống và chất lượng sống của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng xã hội) theo các tiêu chuẩn khách quan của tiến bộ xã hội.
Việc giải quyết các vấn đề xã hội thuộc chức năng xã hội của các nhà nước thông qua các chính sách xã hội, đặt ra đối với bất kỳ một thể chế nhà nước nào. Đó là quá trình tổ chức, tác động có mục đích của nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội đối với các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội liên quan đến cuộc sống của con người nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn và phát triển của con người, quyền tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội và an sinh xã hội, công bằng; quyền được sống trong môi trường sống an toàn, lành mạnh, nhân văn; cơ hội hòa nhập phát triển, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mỗi cá nhân và cộng đồng, xã hội theo các tiêu chuẩn khách quan của văn minh, tiến bộ xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
Theo đó, chính sách xã hội là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương hướng, biện pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác để giải quyết những vấn đề xã hội nhằm bảo đảm sự an toàn và phát triển xã hội. Đây là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay chính quyền nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, nhu cầu lợi ích của các nhóm người, các tầng lớp xã hội, các giai cấp, các dân tộc, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với bản chất giai cấp, và những mục tiêu của chính đảng hay của chính quyền đó. Phạm vi chính sách xã hội phải giải quyết bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...
Chính sách xã hội gồm ba bộ phần cơ bản là: 1) Các chính sách thúc đẩy phát triển xã hội của nhà nước; 2) Các chính sách của các bộ, ngành chức năng liên quan có mục tiêu nâng cao năng lực của con người (vốn con người) và môi trường hoạt động của con người (chính sách lao động, việc làm, y tế, giáo dục, phát triển doanh nghiệp, hạ tầng cơ sở...); 3) Chính sách an sinh xã hội nhằm sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua hệ thống các chính sách can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn (bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, trẻ em, tàn tật…) dẫn đến không có thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa hoặc quy định). Chính sách an sinh xã hội là các chính sách do nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị trường trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ an sinh xã hội. Hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm đối tượng yếu thế (lý do chính để có sự tham gia của nhà nước).

QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Ngay từ rất sớm, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dành sự quan tâm lớn đến chính sách xã hội nhằm nâng cao quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội - một mục tiêu và nội dung của cách mạng XHCN. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội; coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Đại hội VI của Đảng (1986) trong khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện để phát triển đất nước đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, coi chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm khóa XI của Đảng Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 đã khẳng định: Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu và động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển, đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ.
Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới tập trung vào năm lĩnh vực sau: giải quyết việc làm cho người lao động; xoá đói, giảm nghèo; thực hiện chính sách ưu đãi người có công; chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chính sách an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, duy trì mức thu nhập đủ sống khi gặp rủi ro, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, giảm nghèo và hoà nhập xã hội nhóm yếu thế).
Tại Đại hội XII, quan điểm về quản lý phát triển xã hội, chính sách xã hội được Đảng ta nhấn mạnh, có sự bổ sung và phát triển mới, trở thành một nội dung lớn trong Báo cáo chính trị tại đại hội (Mục VIII). Nghị quyết Đại hội XII nêu rõ: “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công.”

QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊ NIN VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC

          Văn hóa hiểu theo nghĩa chung nhất là những giá trị được sáng tạo bởi con người, đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Nền văn hóa lại là một tập hợp các thiết chế xã hội và một tập hợp cơ chế, phương tiện, cách thức được con người sử dụng để sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Có những giá trị văn hóa toàn nhân loại nhưng trước hết, văn hóa bao giờ cũng gắn với một dân tộc, là đặc trưng nổi bật và bền vững của dân tộc. Văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của mỗi dân tộc. Kế thừa quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về văn hóa, V.I.Lênin xem xét văn hóa như một hệ thống giá trị vật chất và tinh thần gắn liền với sự tiến hóa của lịch sử, sự phát triển chung của tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh lịch sử mới những năm đầu thế kỷ XX và điều kiện cụ thể của nước Nga lúc bấy giờ, quan điểm của V.I.Lênin về văn hóa được thể hiện sâu sắc, toàn diện trên nhiều phương diện vừa có tính lịch sử, tính kế thừa, tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại.
          Theo V.I.Lênin, mỗi dân tộc có một nền văn hóa đặc trưng, tạo nên cốt cách, bản sắc của dân tộc đó. Văn hóa mang tính chất dân tộc, bởi xét cho cùng, văn hóa chưa bao giờ là vấn đề tự thân. Văn hóa bao giờ cũng thuộc phạm trù song đề: văn hóa và kinh tế; văn hóa và chính trị - tư tưởng; văn hóa và tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa và dân tộc... Văn hóa dân tộc là một thuộc tính đặc trưng của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc, thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc bao hàm trong đó những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại đã được dân tộc hóa. V.I.Lênin khẳng định: “Đối với người mácxít, vấn đề khẩu hiệu văn hóa dân tộc có một ý nghĩa to lớn chẳng những vì nó xác định nội dung tư tưởng của toàn bộ công tác tuyên truyền và cổ động của chúng ta về vấn đề dân tộc, mà còn vì toàn bộ các cương lĩnh về tự trọng dân tộc, về văn hóa trứ danh đều dựa trên khẩu hiệu đó”.
          Văn hóa, bản sắc văn hóa là vấn đề cốt lõi của mọi dân tộc, liên quan trực tiếp đến tính đặc thù, tính bền vững, tính đa dạng, phong phú về đời sống tinh thần xã hội của mỗi dân tộc. Hơn thế nữa, văn hóa là một đặc trưng, tiêu chí để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, là một nhân tố quy định đến sức mạnh nội sinh, sự trường tồn và phát triển dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Nga, V.I.Lênin kiên quyết chống lại những lời nói văn hóa trống rỗng theo kiểu vô chính phủ, tách rời văn hóa với dân tộc. Người phê phán sâu sắc quan điểm văn hóa nằm ngoài dân tộc, phê phán thuyết hư vô dân tộc. Bàn về thuộc tính dân tộc của văn hóa, V.I.Lênin luôn gắn tổ quốc với hoàn cảnh chính trị, văn hóa, xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh: “…là một nhân tố mạnh mẽ nhất trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản... Giai cấp vô sản không thể có thái độ thờ ơ và lãnh đạm đối với những điều kiện chính trị, xã hội và văn hóa của cuộc đấu tranh của mình, do đó cũng không thể thờ ơ đối với vận mệnh của đất nước mình”.
          V.I.Lênin khẳng định trong mỗi quốc gia dân tộc, khi xã hội còn phân chia giai cấp thì văn hóa mang tính giai cấp sâu sắc. Văn hóa phản ánh rõ nét cơ cấu xã hội giai cấp của xã hội ở một thời kỳ lịch sử nhất định. Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. V.I.Lênin viết: “Mỗi nền văn hóa dân tộc đều có những thành phần, thậm chí không phát triển, của một nền văn hóa dân chủ và xã hội chủ nghĩa, vì trong mỗi dân tộc đều có quần chúng lao động và bị bóc lột mà điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa”.
          Về tính giai cấp của các nền văn hóa, trong những năm trước Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã nêu quan điểm về hai dòng văn hóa tồn tại trong lòng xã hội tư bản đó là văn hóa tư sản của giai cấp tư sản thống trị và những yếu tố văn hóa dân chủ và xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và quần chúng lao động bị áp bức. Người nhiều lần nhấn mạnh rằng, mỗi một nền văn hóa đều có những yếu tố mặc dù không phát triển một nền văn hóa dân chủ và xã hội chủ nghĩa nhưng trong mỗi dân tộc cũng có một nền văn hóa của bọn phản động và thầy tu không phải dưới dạng chỉ là những yếu tố, “mà phải dưới dạng một nền văn hóa thống trị.

MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

          Nhằm đẩy mạnh thực hiện đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc (ĐĐKTDT), phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của sức mạnh khối đại đoàn kết trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đại hội XII của Đảng đã kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, đồng thời bổ sung thêm những điểm mới như sau:
         Một là, tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về ĐĐKTDT; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận xã hội.
           Hai là, trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
          Ba là, tiếp tục khẳng định đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối ĐĐKTDT. Các cấp ủy đảng và chính quyền có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân.
           Bốn là, từ đánh giá khách quan đặc điểm cơ cấu xã hội, mối tương quan và vai trò vị trí của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của các thành phần xã hội, các tổ chức đoàn thể, Đảng xác định ĐĐKTDT trên nền tảng liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo trong điều kiện lịch sử mới, có cơ chế chính sách phù hợp huy động mọi tiềm năng, nguồn lực của toàn dân tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
          Đại hội XII nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh ĐĐKTDT thông qua đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhà nước đối với các giai tầng trong xã hội, các dân tộc, tôn giáo. Có cơ chế, chính sách cụ thể đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài. Tiếp tục tăng cường, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc trong tập hợp, phát huy sức mạnh ĐĐKTDT.
Năm là, đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo ở nước ta, Văn kiện Đại hội XII có bổ sung, phát triển những nội dung mới, khẳng định tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Chống kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tôn giáo; nghiêm trị những âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
          Như vậy, quan điểm của Đảng ta về phát huy sức mạnh ĐĐKTDT trong văn kiện Đại hội XII đã có sự bổ sung, phát triển mới với nhiều luận điểm quan trọng, thể hiện sự phát triển về lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY

Hiện nay, mặc dù thế giới có nhiều thay đổi, tiềm ẩn những bất trắc, khó lường, nhưng những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sống mãi
Giai cấp công nhân đã, đang biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu cả số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, nhưng địa vị kinh tế - xã hội của họ không hề thay đổi. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự hiện diện ngày càng lớn của kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, quốc tế hóa... đã làm thay đổi sâu sắc các yếu tố nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng: Nếu vào cuối thế kỷ XIX số lượng công nhân trên thế gới chỉ có khoảng trên 10 triệu thì đến đầu thế kỷ XX là 119 triệu, đến cuối thế kỷ XX đã tăng lên đến trên 660 triệu và đến năm 2003 số lượng GCCN khoảng trên 800 triệu, đến nay số lượng công nhân chắc chắn cao hơn thế. Kết cấu giai cấp công nhân cũng có những biến động: tỷ trọng công nhân trong tổng số lao động chung của xã hội tăng lên; cơ cấu trong giai cấp công nhân có thay đổi, tỷ lệ công nhân trong ngành dịch vụ, công nghệ cao ở Mỹ hơn 71%, Nhật hơn 59%, Đức hơn 58%, Anh hơn 69%, Pháp hơn 66%.
Chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng phát triển nhưng những mâu thuẫn cơ bản vốn có không những không được khắc phục mà còn tăng lên, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Các mâu thuẫn cơ bản trong chủ nghĩa tư bản biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa đế quốc với những nước phụ thuộc ngày càng tăng lên. Đặc biệt, sự tích tụ tư bản với một khối lượng khổng lồ đang ngày càng tập trung vào tay một số ít các nhà tư sản, là điều kiện cho phép các nhóm tư bản và cá nhân thu được lợi nhuận kếch sù. Ở nhiều nước tư bản, bình quân tỷ suất chiếm đoạt lợi nhuận là 300%, cá biệt có những nơi lên tới 700% - 800%. Ở Mỹ, 1% người giàu nhất đã làm chủ 40% tài sản, trong khi 80% người dân ở mức thấp nhất làm chủ chỉ có 7% tài sản nước Mỹ. Năm 2011, tại Liên minh châu Âu có 120 triệu người sống trong cảnh nghèo đói. Tổ chức phi chính phủ Oxfam có trụ sở tại Anh, ngày 12 tháng 9 năm 2013 cảnh báo, tới năm 2015, sẽ có thêm 25 triệu người châu Âu rơi vào cảnh đói nghèo. Thực chất sự phát triển của chủ nghĩa tư bản những năm qua chỉ hướng tới phục vụ cho một bộ phận giàu có nhất. Chính điều đó đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gây gắt, làm bùng phát nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân và người lao động chống lại giới chủ tư sản với quy mô rộng khắp. Khởi nguồn là từ “phố Wall” - trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất nước Mỹ (nổ ra vào ngày 14 tháng 9 năm 2012), sau đó, lan rộng ra hàng chục thành phố của Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu để phản đối các biện pháp khắc khổ và tỉ lệ thất nghiệp, đói nghèo đang ngày càng gia tăng. Sự phản kháng xã hội mạnh mẽ càng làm bộc lộ bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Khẩu hiệu “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. Sự thật này một lần nữa chứng minh tính chất phản tiến bộ, phản nhân văn và không bền vững của chủ nghĩa tư bản. Đúng như Mác đã từng nói, chủ nghĩa tư bản đang huỷ hoại chính ngay những nhân tố làm nên sự giàu có của nó là lao độngtài nguyên.
Mặc dù, hiện nay ở nhiều nước tư bản phát triển, đời sống của giai cấp công nhân và người lao động đã được cải thiện, một bộ phận công nhân đã là chủ nhân của một số lượng cổ phiếu nhất định trong công ty và trở thành tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đó là kết quả của các cuộc đấu tranh quyết liệt liên tục, bền bỉ của chính bản thân giai cấp công nhân và người lao động chống lại sự quản lý hà khắc và sự áp bức, bóc lột của giới chủ trong suốt nhiều thế kỷ. Nhưng so với tỷ suất bóc lột và những món lợi nhuận kếch xù mà giai cấp tư sản có được thì sự điều chỉnh về chế độ phúc lợi xã hội, an sinh xã hội tiến bộ cho công nhân và người lao động cũng vô cùng nhỏ bé, chỉ tựa như giọt nước trong đại dương lợi nhuận mà nhà tư bản thu được. Suy cho cùng những điều chỉnh của giới chủ theo hướng thỏa mãn ngày càng nhiều hơn những đòi hỏi chính đáng của giai cấp công nhân và người lao động cũng trước hết là vì lợi ích của chính giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh, thích nghi chỉ làm dịu đi những mâu thuẫn xã hội, chứ không làm thay đổi bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ở mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vẫn tồn tại và ngày càng gay gắt, tất yếu chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ bị CNXH, CNCS thay thế trong tương lai.
Hiện nay, các nước XHCN còn lại không những không bị sụp đổ mà còn đổi mới, cải cách thành công và tiếp tục vững bước đi lên CNXH. Thành công của công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam, cải cách kinh tế ở Lào, kết quả bước đầu của chính sách “cập nhật hoá mô hình kinh tế” ở CuBa,... đã đưa các nước này không chỉ vượt qua được giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, mà còn tạo được những bước đột phá phát triển, là những bằng chứng rõ ràng về sự phục hồi của CNXH.
Đồng thời, sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào cánh tả ở nhiều nước Mỹ Latinh trong gần hai thập niên qua là bằng chứng sống động về sự bền bỉ của lý tưởng XHCN. Rõ ràng, mặc dù con đường đi lên CNXH đã và đang trải qua những khó khăn, thử thách, nhưng “theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Chủ nghĩa xã hội là hiện thực sinh động, tương lai tươi sáng của nhân loại tiến bộ đang nỗ lực hướng tới...
Trung thành với học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn kiên định với con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nên đã lập nên những kỳ tích vẻ vang. Hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu lịch sử. Cương lĩnh (bổ sung phát triển) năm 2011 của Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước và nhiều văn kiện các Đại hội Đảng đã khẳng định "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam qua hơn 85 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, xuất hiện trên mạng internet và một số ấn phẩm in, tán phát những quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mang tính cấp bách, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ, của dân tộc ta. Vì lý do thứ nhất là, từ vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Thứ hai, thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để nó thực sự theo kịp đòi hỏi của cuộc sống mới, công cuộc xây dựng xã hội mới. Thứ ba, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch điên cuồng tiến công chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho Đảng ta “biến chất” chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Nhận diện và đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái không chỉ là trách nhiệm của Đảng ta mà cũng là trách nhiệm của mỗi cán bộ đảng viên, của mỗi nhà khoa học và mỗi giảng viên làm công tác giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh...

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam đối với nhiệm vụ đấu tranh, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ bản chất cách mạng, khoa học và vận dụng sáng tạo của các nguyên lý cách mạng vào thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức để bảo đảm ngang tầm với yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Thường xuyên đổi mới công tác lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội để đạt nhiều thành tựu trên thực tế. Đồng thời, từ thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta trước đây và trong gần 30 năm đổi mới để bổ sung, phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện mới. Tăng cường giáo dục chính trị xã hội cho cán bộ, đảng viên và cho công nhân có chiến lược vũ trang tư tưởng cho toàn dân để phòng chống đòn phản công của các thế lực thù địch muốn thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tự diễn biến và tự chuyển hóa trong nội bộ nhân dân ta. Trực tiếp lãnh đạo và tập hợp các lượng xã hội tham gia cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vạch trần mục đích chính trị và bản chất phản khoa học và vô hiệu hóa những luận điểm sai trái để giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Hiện nay, các phần tử cơ hội, xét lại và cực đoan đang ráo riết công kích, xóa bỏ và muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đấu tranh vô hiệu hóa các mưu đồ của chúng, trước hết chúng ta cần nhận biết tính tất yếu của việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là vấn đề có tính quy luật, vừa là nội dung trọng yếu, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ có giá trị về tinh thần mà còn trở thành lực lượng vật chất thức tỉnh giai cấp công nhân và chuyển từ giai cấp tự nó trở thành giai cấp vì nó. Vì thế, chủ nghĩa Mác ra đời đã thể hiện bản chất cách mạng, khoa học và đã được mệnh danh là “bóng ma ám ảnh châu Âu” đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản. Cho nên, trên thực tế đã có nhiều trào lưu tư tưởng đối lập, nhiều kẻ thù muốn công kích, xóa bỏ và muốn phủ nhận sạch trơn bản chất cách mạng, khoa học của nó. C.Mác - Ph.Ăngghen cùng với phong trào công nhân đã sớm nhận thấy nhiệm vụ quan trọng là kiên quyết đấu tranh, khai trừ những người phản bội lại lợi ích, nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân. Vạch trần bản chất, tác hại của tư tưởng Vaitơlinh ra khỏi đồng minh những người cộng sản - một chính đảng đầu tiên của giai cấp công nhân. Ở những giai đoạn tiếp theo C.Mác - Ph.Ăngghen đã cùng giai cấp công nhân tích cực đấu tranh chống lại học thuyết cơ hội, tiểu tư sản của tên vô chính phủ chủ nghĩa Misen Bacunin trong suốt quá trình hoạt động của quốc tế I. Đây là những khuynh hướng cơ hội chống lại chủ nghĩa Mác được che giấu dưới những lời lẽ có tính chất “cách mạng của phái tả”. C.Mác - Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin đã vừa đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác và vận dụng vào thực tiễn nước Nga trong điều kiện rất đặc thù là quốc tế II đã bị chủ nghĩa cơ hội, xét lại lũng đoạn và bị phân hóa thành ba phái hữu, phái tả, phái giữa làm ảnh hưởng xấu đến phong trào công nhân lúc này. V.I.Lênin cùng với Đảng Bônsêvic và giai cấp công nhân Nga đã nhận rõ sứ mệnh lịch sử cao cả của mình là phải tích cực đấu tranh chống lại những quan điểm lệch lạc ở một số đảng xã hội dân chủ, những biểu hiện của khuynh hướng tuyệt đối hóa phương pháp đấu tranh nghị trường chỉ dùng lá phiếu để đánh đổ chủ nghĩa tư bản và từ bỏ các nguyên lý cách mạng của Học thuyết Mác. Sự thiên tài và tấm gương mẫu mực của C.Mác - Ph.Ăng ghen là không những sáng lập ra học thuyết cách mạng, khoa học để chỉ dẫn hành động cách mạng cho giai cấp công nhân, đồng thời sớm nhận thức vấn đề có tính quy luật là đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng thù địch với bảo vệ, phát triển học thuyết của mình. Trong giai đoạn hiện nay, các thề lực thù địch đang ra sức công kích và tìm mọi thủ đoạn tinh vi để nhằm xóa bỏ hệ tư tưởng tiên phong của giai cấp công nhân. Đây là vấn đề rất phức tạp, lâu dài và là nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp công nhân.
Đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, từ khi hệ thống xã hội không còn, tương quan so sánh tạm thời có lợi thuộc về chủ nghĩa tư bản. Tận dụng lợi thế đó, chủ nghĩa tư bản đang điên cuồng phản kích, chống lại chủ nghĩa xã hội bằng tất cả các quan điểm sai trái, luận điệu phản động và phản khoa học, với các âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc, xảo quyệt. Một trong những trọng điểm của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay là chúng muốn xóa bỏ niềm tin của nhân loại tiến bộ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo ra khoảng trống về tư tưởng, đây là âm mưu thâm độc tạo cơ hội cho sự trỗi dậy và thống trị của hệ tư tưởng tư sản. Bởi lẽ, giai cấp cấp công nhân không còn hệ tư tưởng tiên phong thì cũng đồng nghĩa là giai cấp không còn sứ mệnh lịch sử, không còn là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Chúng lợi dụng hiện tượng đã diễn ra thực tế là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (cũ) và một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, để đưa ra một lý lẽ giản đơn là sự sụp đổ đó là do học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời lạc hậu. Tính chất sai trái của những luận điệu đó là đã đánh đồng giữa hai sự vật hiện tượng khác nhau, mà không thấy sự sụp đổ đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội cụ thể và không vận dụng đúng đắn các nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn chứng minh, chủ nghĩa Mác - Lênin ngày nay vẫn là học thuyết tiên tiến của loài người, điều đó không chỉ những người mác-xít thừa nhận mà cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận. Thí dụ, Giắc Đê-ri-đa, nhà triết học nổi tiếng người Pháp coi C.Mác không chỉ là nhà tư tưởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI, ông khẳng định nhân loại không thể thiếu C.Mác được. Chương trình Thời đại chúng ta trên sóng phát thanh radio 4 của đài BBC tại Anh tổ chức thăm dò với ba vạn phiếu phát ra. Kết quả trong số 20 triết gia vĩ đại được đưa ra để lựa chọn, C.Mác được chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước đến nay bởi những cống hiến khoa học xuất sắc của ông.

Một số nhà khoa học của Nga hiện nay cho rằng, “Nước Nga đang trải qua sự xâm nhập lần thứ hai của chủ nghĩa tư bản, nên đặc biệt cần chủ nghĩa xã hội”. Cuộc tìm kiếm và nghiên cứu lại chủ nghĩa Mác là cuộc “tái vũ trang về tư tưởng” với sự nhấn mạnh các giá trị như phát triển, công bằng, dân chủ và xã hội cùng với các lực lượng xây dựng xã hội mới như giai cấp công nhân, trí thức... Nếu như các học giả phương Tây đã tái phát hiện chủ nghĩa Mác trong cơn khủng hoảng tài chính kinh tế gần đây thì ở phương Đông, ở nước Nga cũng lại có một xu hướng trở lại với chủ nghĩa Mác. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chưa có học thuyết nào tiến bộ hơn chủ nghĩa Mác - Lênin, đây vẫn là một học thuyết có giá trị vạch thời đại mà khiến cho các học giả tư sản phải nghiên cứu để tìm ra những giải pháp để hóa giải những căn bệnh nan y trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Hiện nay, các phần tử cơ hội, xét lại và cực đoan đang ráo riết tung ra đủ các luận điệu nhằm bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để đấu tranh vô hiệu hóa các quan điểm sai trái, thù địch, trước hết chúng ta cần nhận diện các loại quan điểm sai trái đó, cần nắm vững một số luận điểm chủ yếu mà các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền hiện nay, đó là:
Trước hết, chúng tìm cách chia rẽ và đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng "đoàn kết và thống nhất của học thuyết Hồ Chí Minh". Chúng cho rằng, do du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nên dẫn đến sai lầm lịch sử là diễn ra hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hậu quả của hai cuộc kháng chiến đó làm cho đất nước bị kiệt quệ về kinh tế, tổn thất về con người và làm cho đất nước nghèo nàn kéo dài. Hoặc, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc; lý luận Mác - Lênin chỉ giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp, còn tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết đấu tranh dân tộc thuần túy nên nó đối lập nhau và không phù hợp với Việt Nam.
Thứ hai, chúng tìm cách phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, coi đây chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng không bao giờ thực hiện được; sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu là một tất yếu được dự báo trước; chủ nghĩa xã hội chỉ là một dạng xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân - xã hội tạo điều kiện cho những tư sản đỏ nắm quyền lãnh đạo xã hội nên bên ngoài thì đỏ nhưng bên trong đã đổi màu theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng cho rằng, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vừa trái quy luật, là sai lầm nên đất nước chậm phát triển.
Thứ ba, chúng ra sức xuyên tạc sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Chúng cho rằng, giai cấp công nhân Việt Nam là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, lại được “đào luyện trong một môi trường đấu tranh giai cấp”, cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển. Họ lập luận rằng, nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có số lượng rất ít công nhân là đảng viên nên mang đậm bản chất giai cấp nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Với những điều kiện như vậy, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam.
Thứ tư, chúng phủ nhận về mô hình, mục tiêu phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay. Chúng cho rằng, nước ta nên theo chủ nghĩa xã hội dân chủ; định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ không thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, sẽ bị cô lập trên trường quốc tế, nên gác định hướng xã hội chủ nghĩa lại. Bên cạnh đó, chúng ra sức công kích, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa. Và cho rằng, “đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào xu thế thời đại hiện nay là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ bị trả giá, nếu sớm thức tỉnh lại thì sẽ đến đích nhanh hơn, nếu không, thì tất yếu cũng đi theo con đường sụp đổ như ở Liên Xô (cũ) và ở một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Thứ năm, chúng ra sức phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo. Chúng cho rằng Đảng có nhiều sai lầm trong quá khứ, cho dù trong quá khứ có làm nhiều thành tích thì đến thời đại mới đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước. Phản bác quan điểm, cương lĩnh của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch đòi "từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ...
Trước tình hình đó, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay sẽ còn diễn ra rất phức tạp, lâu dài và luôn có những biến thái mới với nhiều luận điểm đúng sai, trắng đen lẫn lộn, lôi kéo nhiều lực lượng tham gia nên khó nhận biết để vô hiệu hóa những quan điểm sai trái kịp thời. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ lịch sử quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là phải thực hiện cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giai cấp, bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới trong giai đoạn cách mạng mới. Cho nên, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng xã hội nói chung.

Không thể xuyên tạc, bóp méo sự thật về nhân quyền Việt Nam

(Tiếp)
Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin của người dân theo Hiến pháp và pháp luật. Những năm gần đây, hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng cởi mở, sôi động. Sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung và các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam là một minh chứng về tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin ở Việt Nam. Báo chí ở Việt Nam đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân. Báo chí còn là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Báo chí đã đóng vai trò quan trọng trong phát hiện, đưa ra ánh sáng nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội, xây dựng bộ máy công quyền trong sạch, vững mạnh.
Các quyền của người dân về tự do hội họp và lập hội được bảo đảm và quy định cụ thể trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và nhiều văn bản pháp luật. Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, ở Việt Nam còn có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 5 đoàn thể bao gồm: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và hàng trăm tổ chức nhân dân bao gồm các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp với hàng chục triệu hội viên. Cùng với các tổ chức công đoàn cấp quốc gia, ở Việt Nam còn có hơn 6.000 tổ chức công đoàn cơ sở. Ngoài ra ở Việt Nam còn có hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ... hoạt động trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Các tổ chức và hiệp hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, độc lập và tuân thủ pháp luật... Sự tăng nhanh của các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ, chứng tỏ quyền tự do hội họp và lập hội của người dân được tôn trọng và bảo đảm. 
Nhà nước Việt Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần chính đáng của con người. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Điều này được ghi rõ trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; được bảo đảm tôn trọng trên thực tế. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền của các tín đồ được tự do thờ cúng và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách này đã được thể chế hóa bằng pháp luật. Số chức sắc, nhà tu hành và những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp không ngừng tăng qua từng năm nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tâm linh của nhân dân. Các chức sắc tôn giáo cũng có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, có quyền ứng cử vào Quốc hội và hội đồng nhân dân như mọi công dân khác. Các tôn giáo có quyền và được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện mở trường, cơ sở đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, tham gia các hoạt động xã hội...  Nhà nước Việt Nam đã và đang thực thi nhiều chính sách và biện pháp cụ thể để bảo đảm người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo được Quốc hội thông qua vào tháng 11-2016 (có hiệu lực vào tháng 1-2018). Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát triển bền vững của đất nước. Chính sách này được thể hiện một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân như nhau...
Trong khi kinh tế thế giới có lúc lâm vào khủng hoảng và suy thoái, nhưng bằng những giải pháp hữu hiệu, nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được ổn định và tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức khá. Thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam tăng từ 1.024 USD (năm 2008) lên 2.200 USD (năm 2016). Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt Nam giải quyết những vấn đề bức thiết về xã hội, thực hiện tốt hơn các mục tiêu công bằng xã hội, bảo đảm tốt hơn những giá trị quyền con người, quyền công dân. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo được Đảng và Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm và đạt nhiều kết quả được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Việt Nam nằm trong số các quốc gia được Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc vinh danh là nước có nhiều thành tích trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ như: Xóa đói, giảm nghèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới và đạt nhiều tiến bộ trong các chỉ tiêu về y tế như giảm tỷ số tử vong mẹ và tỷ suất tử vong trẻ em; đạt mục tiêu về kiểm soát sốt rét và bệnh lao cũng như đẩy lùi tỷ lệ lây lan HIV/AIDS… Tổng thư ký Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2007-2016) Ban Ki-moon đánh giá: Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ....
Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ được nêu trong các công ước mà mình đã tham gia, tuân thủ nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế, Việt Nam luôn được đánh giá cao về cách tiếp cận, ủng hộ đối thoại và hợp tác trong vấn đề quyền con người. Cộng đồng quốc tế đánh giá cao những thành tựu quan trọng trong bảo đảm các quyền cơ bản của con người mà Việt Nam đạt được và đã dành cho Việt Nam số phiếu ủng hộ cao nhất trong cuộc bầu chọn thành viên tham gia Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016.
Những thành tựu cơ bản trong bảo đảm và phát triển quyền con người ở Việt Nam nêu trên là kết quả từ chính sách nhất quán luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ quốc tế. Những giọng điệu lạc lõng xuyên tạc, bóp méo phản ánh không đúng về tình hình nhân quyền tại Việt Nam của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội là nhằm dụng ý xấu hòng phá hoại sự ổn định và kìm hãm sự phát triển của đất nước Việt Nam. Khi thấy vị thế của Việt Nam ở khu vực và thế giới ngày càng được nâng cao, họ tỏ ra tức tối và tìm cách xuyên tạc, nói xấu nhằm làm giảm uy tín, vai trò của Việt Nam. Thế nhưng "vải thưa không che nổi mắt thánh", những ghi nhận, đánh giá của cộng đồng quốc tế và thực tiễn sinh động trên đất nước Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đối với Việt Nam./.