Thứ Tư, 28 tháng 3, 2018

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO

Việt Nam là nước đa tôn giáo, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta, các thế lực thực dân, đế quốc thường lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Âm mưu, thủ đoạn của chúng không chỉ là chia rẽ nhân dân các vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn, đồng bào kinh với đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn triệt để thực hiện chính sách chia rẽ đồng bào có tôn giáo với đồng bào không tôn giáo, giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, thậm chí gây chia rẽ đồng bào ngay trong nội bộ một tôn giáo. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo góp phần tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo trước hết, phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt. Giải phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng giai cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo.
Để đoàn kết tôn giáo thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc cụ thể trong thực hiện. (1) Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung. (2) Không chạm đến đức tin của tôn giáo nói chung và của từng tôn giáo nói riêng. (3) Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. 
Hai là,  khai thác các giá trị nhân bản, đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh nhận thấy trong bản chất tôn giáo và trong cả tư tưởng của những người sáng lập ra nó chẳng có ai là không mong muốn cho cuộc sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn, đạo đức hơn. Xét cho cùng thì tất cả các tôn giáo đều hướng tới những giá trị chung của con người là: Chân - Thiện - Mỹ.
Như vậy, để đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp cơ bản cần thực hiện trong quá trình làm công tác tôn giáo. Nhờ đó, Người đã thành công trong việc đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh còn là cơ sở nền tảng cho các giáo hội đề ra tôn chỉ, mục đích hành đạo theo hướng gắn bó với dân tộc, như: “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” (Phật giáo); “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” (Công giáo); “Sống Phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc” (đạo Tin lành); “Nước vinh đạo sáng” (đạo Cao Đài); “chấn hưng nền đạo gắn bó với dân tộc; phù hợp với chính sách và pháp luật của Nhà nước góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Phật giáo Hòa Hảo), v.v.
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng ta kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo với tình hình thực tiễn. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào của nhân dân; đồng thời xác định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo”6. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và tại Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ ngày 01-01-2018.
Có thể nói, không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo lại sống bình đẳng như ở Việt Nam, một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Đó là sự thật! Tự nó bác bỏ mọi sự xuyên tạc, kích động hòng chia rẽ tôn giáo với chính quyền, chia rẽ những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

ĐẶC ĐIỂM CỦA VÙNG DÂN TỘC TÂY NGUYÊN Ở VIỆT NAM

Đặc điểm về địa lý và dân số. Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng; diện tích tự nhiên trên 56.000 km2, chiếm 17% tổng diện tích cả nước; địa bàn cư trú của trên 40 dân tộc, trong đó có 12 dân tộc tại chỗ thuộc hai nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme và Nam Đảo. Trước năm 1945, dân số các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên có hơn 300.000 người, sau tăng nhanh do các đợt di cư lớn từ đồng bằng lên, từ phía Bắc vào. Các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên thường sống khá tập trung, khu vực cư trú được phân chia khá rõ. Đa số người Gia-rai sống ở Gia Lai (trên 90%); người Ê-đê tập trung ở Đắc Lắc; người Mnông ở Đắc Nông; người Mạ, Chu-ru ở Lâm Đồng; người Giẻ - Triêng ở Kon Tum. Hiện nay, dân tộc Kinh chiếm 70% dân số Tây Nguyên, dân tộc thiểu số chiếm 30%. Các dân tộc cơ bản có quan hệ đoàn kết, bình đẳng, tương trợ lẫn nhau.
Đặc điểm về lịch sử - chính trị. Trước đây, vùng Tây Nguyên thường có nhiều biến động trong nhiều thế kỷ do xung đột giữa các bộ tộc, tập đoàn phong kiến của người Việt, Chăm, Lào, Xiêm. Sau này, Tây Nguyên chịu hậu quả nặng nề bởi chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính sách cai trị, sự đồng hóa các dân tộc ở Tây Nguyên của các triều đại phong kiến, thế lực thực dân, đế quốc và tay sai để lại những hậu quả chính trị - xã hội khá nặng nề. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, các dân tộc Tây Nguyên luôn một lòng đi theo Đảng. Hiện nay, các dân tộc ở Tây Nguyên cùng đoàn kết tương trợ dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc. Song gần đây, việc di dân tự do, tình hình tôn giáo, dân tộc ở Tây Nguyên có một số diễn biến phức tạp.
Đặc điểm về kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế các dân tộc thiểu số Tây Nguyên còn thấp, không đồng đều; kinh tế hàng hóa chưa phát triển rộng khắp. Đồng bào sống chủ yếu bằng nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Một bộ phận nhân dân đã canh tác thuần thục cây công nghiệp (cà phê, cao su, hồ tiêu). Hiện nay, đời sống của đồng bào đã được cải thiện cả về vật chất, tinh thần. Song một bộ phận đời sống còn nhiều khó khăn, chênh lệch giàu nghèo giữa người Kinh với người dân tộc thiểu số còn lớn.
Về văn hóa - xã hội. Tổ chức xã hội các dân tộc thiểu số Tây Nguyên mang nhiều tàn tích của xã hội sơ khai. Buôn làng là cơ sở xã hội phổ biến. Thiết chế xã hội cơ bản vẫn dựa trên luật tục, lễ thức truyền thống. Một số dân tộc như Gia-rai, Ê-đê, Mnông, Xơ-đăng, Giẻ-Triêng còn duy trì chế độ mẫu hệ; vai trò của già làng, trưởng buôn, trưởng dòng họ có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống cộng đồng. Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên đang được nhà nước quan tâm bảo tồn, vẫn giữ được những nét độc đáo. Nền văn nghệ dân gian truyền miệng phong phú, tiêu biểu là trường ca Đam San; dàn công chiêng, đàn đá, các điệu múa dân gian.
Đặc điểm về tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội. Đồng bào thiểu số Tây Nguyên có tín ngưỡng truyền thống với quan niệm vạn vật hữu linh và một số hình thái tôn giáo khác. Lễ tục tâm linh tiêu biểu là: Lễ bỏ mả, lễ tục đâm trâu mừng hội mùa, mừng chiến thắng... Trong quá trình thống trị Tây Nguyên, bọn thực dân, đế quốc đã đưa Công giáo vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vấn đề tôn giáo nổi cộm hiện nay là hoạt động của Tin Lành Đê Ga - tổ chức chính trị phản động của một số đối tượng FULRO cũ, được Mỹ nuôi dưỡng, chỉ đạo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định ở Tây Nguyên.
Hiện nay, dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế - xã hội, ở Tây Nguyên vẫn còn nổi lên một số vấn đề cần giải quyết: sự gia tăng dân số nhanh, sự phân hóa giàu nghèo, tàn phá tài nguyên thiên nhiên; sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; chưa có chính sách tổng thể nhằm giải quyết toàn diện vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên...

ĐẶC ĐIỂM CỦA VÙNG DÂN TỘC TÂY BẮC Ở VIỆT NAM

Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc, gồm các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Nơi đây có địa hình rừng núi hiểm trở. Thời Pháp thuộc đã lập ra xứ Thái tự trị ở Tây Bắc. Năm 1955, khu tự trị Thái - Mèo được thành lập, gồm 3 tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ; năm 1962 đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc. Tây Bắc là vùng chiến khu cách mạng, giàu truyền thống yêu nước. Thời kháng chiến chống Pháp đã diễn ra nhiều trận đánh, chiến dịch quân sự ác liệt, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1975, khu tự trị đã giải thể.
Tây Bắc là địa bàn cư trú lâu đời của hơn 30 tộc người như: Thái, Mường, Hmông, Dao, Kinh, Hoa, Khơ-mú, La ha, Xinh-mun, Lào, Lự, Hà Nhì, Kháng, La Hủ, Si La, Phù Lá, Bố Y, Mảng, Giáy... Trong đó, người Thái có dân số lớn nhất. Ngoài ra, còn có một bộ phận người Kinh vốn là con cháu của nghĩa quân Hoàng Công Chất đã sống lâu đời ở đây và một bộ phận người Hoa, vốn là dòng dõi quân Lưu Vĩnh Phúc thời nhà Thanh chạy sang.
Tây Bắc là vùng phân bố dân cư tiêu biểu theo độ cao địa hình rất rõ rệt. Cư dân cổ truyền, những chủ nhân từ xa xưa của Tây Bắc đều làm nông nghiệp với hai loại hình: ruộng nước ở thung lũng và nương rẫy ở sườn núi.
Ở Tây Bắc, mỗi tộc người đều có nền văn hóa mang bản sắc riêng nhưng nổi bật là không gian văn hóa Thái với tiếng Thái làm phương tiện giao tiếp trong vùng, múa xòe, dệt vải, nhà sàn... Người Kháng có tục uống nước bằng mũi (Ta mui), giỏi làm thuyền độc mộc. Người La Ha được coi là chủ nhân trống đồng ở trong vùng, nổi tiếng về hội lễ "Mừng mùa măng mọc". Mỗi dân tộc trong vùng đều có một kho tàng văn hóa dân gian đủ thể loại. Ở một số dân tộc có cả truyện thơ dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (Hmông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v... Người Hmông nổi tiếng về các điệu múa khèn của nam giới. Người La Ha có điệu múa Tăng bu; người Mường có điệu múa bông... Các dân tộc Tây Bắc có một hệ nhạc cụ hơi được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn Hmông, tính tảu Thái, đống ôi Mường, chưn may Khơ-mú, đàn ba dây Hà Nhì. Việc trang trí trang phục, đồ dùng có nét chung là thích sử dụng các gam màu nóng với họa tiết, bố cục, phối màu phong phú, thể hiện ở chiếc khăn piêu Thái, mặt chăn Mường, điểm màn Kháng, bộ nữ phục Hmông, Lô Lô, Dao Đỏ.
Hiện nay, Tây Bắc chiếm gần 1/3 diện tích cả nước với gần 10 triệu dân, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; là nơi có nhiều tiềm năng, lợi thế về tài nguyên khoáng sản, du lịch, kinh tế cửa khẩu, thu hút đầu tư, và đang là điểm đầu tư sản xuất, kinh doanh của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. 

PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Đảng và Nhà nước ta xác định phương hướng giải quyết quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay tập trung vào các vấn đề sau:
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc trong công cuộc Đổi mới hiện nay. Xác định đúng đắn sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của từng tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mọi chủ trương, chính sách chỉ đạo thực tiễn đều nhằm nâng cao ý thức quốc gia dân tộc, bảo đảm sự phát triển hài hòa từng tộc người với sự phát triển chung của đất nước. Quán triệt và thực thi tốt nguyên tắc nhất quán giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta. Nghiêm cấm những hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, khắc phục tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước phải toàn diện, quan tâm tôn trọng lợi ích của các tộc người, giữ gìn sự đa dạng bản sắc văn hoá tộc người, tạo mối quan hệ đồng thuận cho sự phát triển bền vững; khắc phục sự suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Các chủ trương chính sách phát triển dân tộc thiểu số ở nước ta cần được hoạch định trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo về kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý dân tộc, hiện trạng phát triển mọi mặt đời sống các tộc người. Từ đó, đề ra các chủ trương, chính sách và lựa chọn con đường phát triển phù hợp với đặc điểm vùng, tộc người và nhu cầu thiết thực của người dân, tránh áp đặt duy ý chí.
Khắc phục các thiếu sót, hạn chế trong một số chính sách phát triển kinh - xã hội. Tập trung khắc phục những khác biệt lợi ích giữa các tộc người về kinh tế như vấn đề đất đai, tài nguyên, thương mại... Việc ưu tiên đầu tư cho các tộc người có dân số ít cần tính đến vấn đề địa vực cư trú và tình trạng xen kẽ giữa các tộc người đã làm cho mối quan hệ tộc người ở một số địa phương bị tổn thương. Khắc phục điều chỉnh địa giới hành chính ở các địa phương không hợp lý đã làm nảy sinh mâu thuẫn, kiện cáo mang tính tập thể. Giải quyết thỏa đáng tình hình di dân tự do ở miền núi đã gây nên va chạm giữa các tộc người tại chỗ và dân nhập cư từ nơi khác đến. Thực hiện tốt hơn công tác tái định cư trong các công trình lớn của Nhà nước để không gây ảnh hưởng xấu tới niềm tin của đồng bào các dân tộc. Giải quyết tốt chính sách đất đai ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Bài trừ các biểu hiện mất đoàn kết, sự nghi kỵ, phân biệt đối xử giữa các tộc người.
Vô hiệu hóa và làm thất bại các âm mưu,thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch. 

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG THÔNG TIN SAI LỆCH

Paul Joseph Gobbels, Bộ trưởng Bộ Thông tin quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã, từng nêu một lý thuyết: Một điều lừa dối bịa đặt khó tin nhất, nếu được nhắc đi nhắc lại trăm ngàn lần sẽ được mọi người tin là thật. Trùm phát xít Hitler cũng từng phổ biến đòn hiểm độc mang tên “nói dối vụ lớn” vì “Đối với tâm hồn giản dị đơn sơ của quần chúng, nói dối vụ lớn rất có hiệu lực vì quần chúng thường chỉ dám nói dối những việc nhỏ bé. Nói dối càng lớn bao nhiêu càng khiến quần chúng dễ dàng tin bấy nhiêu”.
Những chiêu thức ấy đang được các thế lực thù địch sử dụng triệt để ngày hôm nay bằng các thủ đoạn xuyên tạc, bịa đặt những thông tin xấu về nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội. Chúng không từ một thủ đoạn gì, từ lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình đến cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Chúng xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chúng đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gây bất lợi, phá hoại quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Campuchia. Ngay cả những điều thiêng liêng nhất như lịch sử dân tộc, cội nguồn con Rồng cháu Tiên, lãnh tụ, từ các thế hệ lãnh đạo tiền bối đi trước cho đến các đồng chí lãnh đạo hiện nay cũng đều bị chúng xuyên tạc cũng là điều dễ hiểu. Điều này đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gần đây nhìn nhận, chỉ rõ thủ đoạn: “Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”. 
Khi mà dư luận xã hội đã quá quen thuộc và không còn để ý nhiều tới các loại thông tin “hậu trường chính trị”, lá cải bịa đặt, gần đây, chúng tìm cách câu kéo, đánh lừa xã hội bằng chiêu bài đê hèn hơn, mạo danh cán bộ có uy tín, nhất là một số tướng lĩnh đã nghỉ hưu và người nổi tiếng đứng đơn thư tố cáo bịa đặt, thỉnh nguyện theo kiểu “cáo mượn oai hùm”.
Thủ đoạn đê hèn này không chỉ tạo ra thông tin giả gây bất an trong xã hội mà còn ảnh hưởng, xúc phạm tới chính uy tín, danh dự của những cán bộ bị mạo danh. Các tướng lĩnh và cán bộ lão thành cách mạng với bề dày kinh nghiệm được tôi luyện qua chiến đấu, công tác, luôn là “cây cao bóng cả”, là niềm tin, là chỗ dựa cho thế hệ trẻ và toàn xã hội. Những đơn thư mạo danh đó có thể làm tổn hại cả thanh danh của những cán bộ, tướng lĩnh trung kiên, cả một đời hy sinh, cống hiến, nay bị mang tiếng “đổi màu”, “trở cờ”, “tự diễn biến” trong mắt đồng chí, đồng đội và nhân dân. Với thủ đoạn đó, chúng đồng thời đạt được mục đích vừa tấn công vào những cán bộ lãnh đạo đương chức, vừa hạ thấp uy tín các vị lãnh đạo lão thành, nghỉ hưu; vừa gây nghi kỵ, mâu thuẫn trong nội bộ, giữa đội ngũ cán bộ đi trước và lớp trẻ, giữa cấp trên và cấp dưới...
Vì vậy, mỗi chúng ta hãy luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tỉnh táo sáng suốt trước những thông tin bịa đặt, nói dối xảo trá của những kẻ phản động chống phá. Luôn giữ vững lập trường quan điểm, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo vào những chiêu trò nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Luôn tạo cho mình một kháng thể miễn dịch với những luận điệu phản động chống phá để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân./.

CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI

Nghiên cứu âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta bắt gặp không ít luận điểm tìm cách xuyên tạc, chống phá thể hiện trên nhiều góc độ, nội dung trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,... không chỉ công kích đường lối đổi mới kinh tế mà còn dùng sức ép kinh tế đòi thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta khi chúng ta tham gia ký kết các hiệp định kinh tế khu vực và liên khu vực. Vì vậy, việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế, nhất là tự do hóa thương mại trong tình hình hiện nay ở nước ta là một nhiệm vụ, hình thức đấu tranh đặc biệt quan trọng. Theo đó, cần hiểu đúng, cho chắc tự do hóa thương mại ở Việt Nam.
Tự do hóa thương mại là việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để làm cho luồng hàng hóa và dịch vụ di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn. Tự do hóa thương mại trước hết nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu của mỗi nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hóa và dịch vụ nước ngoài dễ dàng xâm nhập vào. Các biện pháp để mở rộng tự do hóa thương mại quốc tế bao gồm việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thương mại và kinh tế; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và tổ chức thương mại quốc tế; chủ động xây dựng lộ trình cắt giảm thuế quan và phi thuế quan theo các cam kết; điều chỉnh chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu như chính sách đầu tư, tỷ giá hối đoái, tín dụng theo chiều hướng nới lỏng sự can thiệp của nhà nước; hình thành các thể chế thương mại phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Quá trình này gắn liền với các biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
Lợi ích lớn nhất của tự do hóa thương mại là thúc đẩy trao đổi, buôn bán, phát huy lợi thế so sánh của các nước, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Đối với người tiêu dùng (bao gồm cả những nhà nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất ra hàng hóa), tự do hóa thương mại sẽ tạo cho họ cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt hơn với giá hợp lý hơn.
Nhận thức được tính khách quan của tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế, ngay từ Đại hội VII (1991), Đảng ta đã đề ra chủ trương: “Đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia”, “Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh”, và “gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện”. Đại hội X (2006), chủ trương: Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tới Đại hội XI (2011), chủ trương này tiếp tục được nâng tầm thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, trong đó, Việt Nam không chỉ “là bạn, đối tác tin cậy” mà còn là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”; hai định hướng lớn là “phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư” và “tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỷ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu”.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương tự do hóa thương mại và lồng ghép chủ trương này trong các định hướng về hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nhiệm vụ: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước”. Tự do hóa thương mại trên cơ sở phải giữ vững độc lập, tự chủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, trong đó cốt lõi là bảo đảm an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh thông tin, ... mang bản sắc Việt Nam. Tự do hóa thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Chống phá, lật đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Hiện nay, chúng chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất mãn trong nước gây rối, làm mất ổn định xã hội ở một số vùng nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và Tây Nghệ An của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo, mua chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương và uy hiếp các đơn vị lực lượng vũ trang. Ở Tây Bắc, chúng kích động người H’ Mông đòi thành lập khu tự trị riêng. Ở Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để tăng sức mạnh.
Vì vậy, chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lý trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài. Hoạt động đấu tranh, xử lý bạo loạn luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, cơ quan tham mưu và phối hợp thống nhất hành động cho các lực lượng tham gia. Kịp thời phân hóa, cô lập và đấu tranh kiên quyết với bọn đầu sỏ, cực đoan, giáo dục vận động những người dân lầm đường, lạc lối. 

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

Mỗi quốc gia, dân tộc có đặc điểm lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội, thể chế chính trị khác nhau thì có nhà nước pháp quyền khác nhau. Nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng là điều bình thường, không có gì là trái với quy luật khách quan cả.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Đảng Cộng sản là người lãnh đạo toàn diện, mọi mặt xã hội, lãnh đạo cả hệ thống chính trị, nhưng Đảng Cộng sản cũng là một thành viên trong hệ thống chính trị, mọi hoạt động của Đảng, cũng như hoạt động của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Đảng và nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm Hiến pháp và pháp luật. Không có một tổ chức, hoặc cá nhân nào có thể đứng trên, hay đứng ngoài pháp luật được.

NHẬN DIỆN MỚI VỀ THỦ ĐOẠN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

Những năm qua, việc phủ nhận, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “đột phá khẩu” để các thế lực thù địch, các thế lực phản động, thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,... phối hợp chống phá sự nghiệp cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Vì vậy, cần nhận thức đúng, nâng cao cảnh giác với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tự diễn biến xảy ra ở hai phạm vi: đối với tổ chức và cá nhân. Đối với tổ chức, là những thay đổi ở tầm quản lý vĩ mô về đường lối, chủ trương, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí suy yếu và tan ra tổ chức đó. Còn đối với cá nhân, là sự thay đổi về nhân thực chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi; tự bản thân cán bộ, đảng viên nhận thức chính trị và hành động xa rời, thậm chí đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư tưởng của Đảng. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức và ngược lại “tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó.
Tự chuyển hóa là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến” nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã có sự chuyển hóa, thay đổi về bản chất. Biểu hiện chuyển hóa chính trị ở Việt Nam xuất hiện từ hai hướng: một mặt, đó là âm mưu và hoạt động tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch; mặt khác, đó là sự “tự chuyển hóa” chính trị của nội bộ ta. Tuy nhiên, hai hướng này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ được thể hiện cụ thể là: xuất hiện các quan điểm, tư tưởng lệch lạc, trái chiều trong nội bộ; sự mất lòng tin đối với lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự xuống cấp về đạo đức, thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, muốn theo hướng phát triển tư bản chủ nghĩa; công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu sơ hở, thiếu sót; tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, tổ chức; một bộ phận trong đội ngũ trí thức, luật sư, báo chí, văn nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng muốn thoát ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. 

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG LÀ “PHẢI BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ XA”

Hiện nay, trước sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tạm thời lâm vào thoái trào; chủ nghĩa tư bản và các thế lực phản động đã và đang tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đối với các nước xã hội chủ nghĩa trong đó Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay cần phải có sự nhận thức mới trong tư duy và hành động. Bài học kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa to lớn cho Đảng ta vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay.
Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã đề ra nhiều kế sách, phương thức, phương châm, một trong những phương thức, phương châm mang tính nguyên tắc được đúc kết ra qua quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; tổng kết qua 30 năm đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đây là một quá trình nhận thức và hành động của Đảng qua tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh tình hình đất nước, thế giới và khu vực có nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức phức tạp và khó lường.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là sự kế thừa tư tưởng giữ nước truyền thống của dân tộc “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới,  đồng thời thể hiện tư duy, nhận thức mới của Đảng về phương thức, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, về không gian là bảo vệ từ bên ngoài biên giới lãnh thổ; về thời gian là bảo vệ, phòng ngừa, chủ động từ trước, chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ trước là chủ yếu, theo phương châm không cần tiến hành chiến tranh là thượng sách.
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”… Trong bối cảnh đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quán triệt thấu suốt phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa của Đảng trong thời gian tới cần phải: Làm tốt công tác nắm, dự báo chính xác tình hình quốc tế, trong nước, nhất là những động thái mới về quốc phòng, an ninh và xu hướng phát triển của nó tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nắm vững phương châm, phương thức tiến hành bảo vệ Tổ quốc hiện nay; Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

THÀNH TỰU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC LÀ BẰNG CHỨNG BÁC BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

Gần đây trên trang danlambaovn.blogspot.com có đăng bài viết "Nếu tất cả cúi đầu, thờ ơ... thì đất nước và dân tộc sẽ về đâu?" của tác giả Nguyên Thạch (#Danlambao).
Đọc xong bài viết của Nguyên Thạch, tôi thấy nực cười: Nguyên Thạch đã cố tình lợi dụng những khiếm khuyết trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của chúng ta trong thời gian qua để nói xấu chế độ, phủ nhận công lao to lớn của Đảng, của Bác, cho rằng sự hy sinh của cán bộ, đảng viên, anh hùng liệt sĩ là vô ích. Đặc biệt, trong bài viết Nguyên Thạch cố tình viện dẫn sai về lịch sử, so sánh Việt Nam với một số quốc gia khác để hướng đến chủ đích là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận thành quả cách mạng và sự nghiệp đổi mới của chúng ta; cố tình tán dương cho nền dân chủ "chật hẹp" ở các nước tư bản; phá hoại mối quan hệ đoàn kết máu thịt giữa nhân dân với đảng; đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang…
Chúng ta khẳng định, đây là một kiểu nói bừa của những kẻ cố tình không muốn thừa nhận hoặc lờ đi sự thật lịch sử rằng, cuộc đấu tranh để giành quyền thống trị của các giai cấp có hệ tư tưởng độc lập, bao giờ cũng được bắt đầu bằng cuộc đấu tranh ý thức hệ. Giai cấp thống trị phải lấy hệ tư tưởng làm trụ cột tinh thần để bảo vệ sự thống trị của mình. Nhưng khi giai cấp thống trị đã lỗi thời, trở thành vật cản của lịch sử thì để đánh đổ nó, giai cấp cách mạng nhất thiết phải bắt đầu bằng việc đấu tranh, phê phán, hạ bệ tư tưởng lỗi thời của giai cấp thống trị; truyền bá và thiết lập sự ảnh hưởng rộng rãi hệ tư tưởng của giai cấp mình, qua đó giáo dục, tập hợp và tổ chức quần chúng hành động cách mạng, lật đổ sự thống trị của giai cấp thống trị cũ, thiết lập trật tự xã hội mới. Đó là quy luật của mọi cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có hệ tư tưởng  độc lập và đối lập nhau.
Do đó, việc giai cấp công nhân Việt Nam và chính đảng cách mạng của mình lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm vũ khí tinh thần trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi khách quan từ chính thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, chống chủ nghĩa tư bản. Trên văn đàn lý luận và chính trị những năm gần đây, đã và đang tồn tại một không khí "hể hả", say sưa với "thắng lợi" của những kẻ chống cộng và cơ hội, xét lại. Nhưng những lời nói tang bốc nhau nghe mãi rồi cũng nhàm tai; những sự bịa đặt, thoá mạ rồi cũng đến lúc họ tự nhận thấy là vô lý. Không ít người đã nhìn nhận một cách nghi ngờ rằng, trong thế kỷ XXI, đặc biệt là sau Đại hội XII, Việt Nam sẽ đi về đâu và Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ dẫn dắt dân tộc này đi theo con đường nào? Những ai mong muốn Việt Nam thay đổi mục tiêu, con đường cách mạng, hãy xem lại thật kỹ sự thật lịch sử.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chỉ còn lại một số nước tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa với những tìm tòi, khám phá mới phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc. Các nước lớn đang tranh giành ảnh hưởng trong việc thiết lập thế giới một cực hay đa cực, song vẫn là một thế giới mà chủ nghĩa tư bản đang nắm quyền chi phối.
Với những ưu thế về kinh tế, về khoa học và công nghệ và sự điều chỉnh trong các chính sách để thích nghi, chắc chắn rằng, chủ nghĩa tư bản còn tồn tại và có thể có những bước phát triển mới. Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không thể giải quyết được những mâu thuẫn của thời đại; không thể chữa khỏi được những căn bệnh trầm kha, những ung nhọt vốn có của nó. Trong thế giới văn minh hiện nay vẫn đang phải chấp nhận một nghịch lý không thể khắc phục được là sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng người, giữa các quốc gia, dân tộc, các châu lục và sự nghèo khổ cùng cực của một bộ phận không nhỏ quần chúng lao động. Các quốc gia ngheo, những người nghèo trên thế giới vẫn gặp phải đầy rẫy những bất công và sự thống khổ đã đành; nhưng mọi người ở những quốc gai lắm tiền, nhiều của cũng không hẳn đã có bình đẳng, ấm no, tự do, hạnh phúc. Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng nhận thức rõ rằng, hạnh phúc của con người không chỉ là sự dư thừa về vật chất mà còn là sự phong phú của đời sống tinh thần, của những quan hệ xã hội nồng ấm, bình đẳng.
Cho nên, dù chủ nghĩa tư bản có bước phát triển thì cũng khó có thể đáp ứng được nhu cầu mọi mặt đời sống của con người. Vì vậy, một bộ phận không nhỏ nhân loại cần lao đã nhận ra rằng, cần phải vượt qua những hạn chế của chủ nghĩa tư bản nếu như muốn sống tốt hơn. Ngay cả một số học giả tư sản có thái độ khách quan, khoa học hiểu rất ró những nghịch lý trong lòng xã hội tư bản đã tiên đoán rằng, thế kỷ XXI vẫn sẽ là thế kỷ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi lợi ích của các giai cấp, dân tộc và nhân loại đan xen vào nhau đòi hỏi phải được giải quyết đồng thời và do đó, cac quốc gia, dân tộc không thể thành công trong giải quyết những vấn đề thực tiễn của đất nước mình nếu không tham khảo, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênnin.
Chủ nghĩa Mác – Lênnin là học thuyết cách mạng và khoa học; là học thuyết vì con người và do con người, chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp có khả năng chinh phục lòng người, không chỉ đối với giai cấp công nhân mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là lý luận đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân Việt Nam, nhưng cũng là lý luận của cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới. Chắc chắn rằng, trên con đường vươn tới một xã hội mới nhân đạo, công bằng và hợp lý hơn, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam và các dân tộc, trong sự lựa chọn của mình, đã và sẽ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm ngọn cờ tư tưởng để dẫn đường, chỉ lối.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta qua hơn 30 năm đổi mới là minh chứng rõ ràng, thuyết phục nhất cho điều đó. Như vậy, đi từ sự phân tích nguyên nhân quá trình sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu; từ lôgic của cuộc đấu tranh giai cấp và khả năng giải quyết mâu thuẫn vốn có với những căn bệnh trầm kha trong lòng xã hội tư bản; từ khát vọng vươn tới của phần lớn nhân loại cần lao và thực tiễn hơn 30 năm đổi mới ở Việt Nam có thể khẳng định rằng: Chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, khoa học và khách quan; Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; chế độ dân chủ mà chúng ta đang xây dựng là một nền dân chủ khác hoàn toàn về chất so với các nền dân chủ trước đó; để củng cố và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang… đó là bẩn chất, quy luật cách mạng là sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Tất cả đã được cụ thể hoá trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếu ai còn nghi ngờ đặt ra những câu hỏi "để Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo dân tộc ta sẽ đi về đâu?" như Nguyên Thạch thì hay xem lại mình; hãy nhìn rõ sự thật lịch sử; hãy nhìn thấu những thành tựu mà chúng ta đã đạt được… Đặc biệt, hãy dành thời gian nghiên cứu kỹ Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, Văn kiện Đại hội XII của Đảng sẽ hiểu biết và có câu trả lời xác đáng, đầy đủ hơn. 

LẠI LÀ LUẬN ĐIỆU BÔI NHỌ LÃNH TỤ; XUYÊN TẠC CHỐNG PHÁ ĐẢNG

Tôi đã đọc bài viết "Đời đầu và đời cuối vẫn là rắn" đăng tải trên danlambaovn.blogspot.com ngày 01.02.2018 của tác giả Trần Quốc Việt.
Trong bài viết tác giả sử dụng hình ảnh con rắn gắn với những sự kiện lịch sử để xuyên tạc sự thật hướng tới ẩn đích chia rẽ nội bộ, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan,… nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội , phủ nhận giá trị, làm lu mờ, mất sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân.
Tôi không biết vì lý do gì mà Trần Quốc Việt lại thâm thù lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đến thế?
Không chỉ sử dụng những lời lẽ cay độc để bôi nhọ lãnh tụ, bội nhọ Đảng mà Trần Quốc Việt còn biểu hiện thiếu khách quan khi nói về công lao cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh; của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc, cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, thổi phồng những hạn chế, yếu kém (ngay cả với những hạn chế, yếu kém đã được Đảng ta thừa nhận và đang ra sức đấu tranh, khắc phục). Không chỉ có vậy Trần Quốc Việt còn lớn tiếng: "ta phải đứng lên dẹp tan những người có lòng dạ rắn rết đang ngự trị trên quê hương".
Tôi khuyên Trần Quốc Việt hãy bình tĩnh, khách quan, trung thực khi nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh và về Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu không thâm thù với Đảng Cộng sản Việt Nam thì Trần Quốc Việt phải thừa nhận sự thực lịch sử về công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam. Tất cả người dân Việt Nam có lương tâm, hiểu biết (trừ bọn phản động hại dân, bán nước) đều thừa nhận một sự thật lịch sử là: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Lớp lớp các anh hùng, sĩ phu, hào kiệt như: Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… đã không cam chịu mất nước, không cam chịu làm nô lệ đã anh dũng xả thân, đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp. Song, tất cả các phong trào cứu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, hào kiệt theo các trào lưu tư tưởng khác nhau lần lượt thất bại. Cách mạng nước ta bị dìm trong biển máu, công cuộc cứu nước lâm vào khủng hoảng, bế tắc…
Sau hơn 30 năm bôn ba tìm đườn cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lênin con đường cứu nước và tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Sau 15 năm ra đời, nắm vững thời cơ cách mạng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta trường kỳ kháng chiến gian khổ suốt 9 năm để làm nên một Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" và hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên đã bị bọn thực dân, đế quốc xâm lược và bọn tay sai cầm tù, sát hại; hàng vạn đảng viên đã anh dũng hy sinh và đi vào sử sách của dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tôi xin nhắc lại: Đây là một sự thật lịch sử đã được nhân loại yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới và nhân dân Việt Nam thừa nhận, tôn vinh. Và nó hoàn toàn trái ngược với giọng văn của Trần Quốc Việt – một cách nói mà đọc xong người ta muốn ói mửa.
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam gần 90 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh chân lý khách quan: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cũng có lúc vấp phải sai lầm, khuyết điểm do giáo điều, chủ quan, duy ý chí; nhờ nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của toàn dân tộc để làm tròn trách nhiệm của đảng cầm quyền trước dân tộc và đất nước.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang quyết tâm thực hiện việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; hiện thực hoá tư tưởng, mong muốn của Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển đất nước, sánh vai cùng các cường quốc, năm châu. Đặc biệt, hiên Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lỗi sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao trước dân tộc. Chúng ta cần có thái độ khách quan, không vì tình trạng suy thoái, biến chất, hư hỏng của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà phủ nhận những công lao, cống hiến của Đảng đối với cách mạng Việt Nam và thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cũng không nên thổi phồng những khuyết điểm, yếu kém để bôi nhọ, sự lãnh đạo của Đảng.

 Đó cũng là đôi lời của tôi trước những lập luận thấp hèn, rẻ tiền của Trần Quốc Việt và để bạn đọc thấy rõ bản chất thâm thù cách mạng và động cơ chính trị phản động của Trần Quốc Việt. Mong bạn đọc bình tĩnh, nhận rõ những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các phần tử phản động, lừa bịp, lôi kéo. Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính chính trị, đề cao trách nhiệm, đoàn kết, trí tuệ cũng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như lòng Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn./.

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2018

KHÔNG ĐỂ BẤT KỲ THẾ LỰC NÀO CÓ THỂ PHÁ HOẠI ĐẤT NƯỚC

Nhân dân Việt Nam đã trải qua hàng mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tiếp tục phải đi qua cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gian nan vất phải đổ bao máu xương để giành độc lập cho dân tộc thông qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất nước Việt Nam ngày càng được nâng cao, đời sống của gần 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện. Đảng ta, nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Vì vậy, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch là một nhiệm vụ tất yếu, cần phải làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các dạng quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch để có những đối sách phù hợp. Tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, làm tốt công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và toàn dân bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - một thứ giặc nội xâm nguy hại để giữ vững niềm tin của nhân dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN.
Gần 90 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh chống những quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch chống phá cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức tình cảm, tư tưởng của nhân dân.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Cùng với đó là phối hợp làm tốt công tác vận động quần chúng, tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện tốt phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới, tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bồi đắp sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng dân tộc, củng cố và tăng cường thế trận lòng dân vững chắc. Góp phần bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân, tăng cường sức đề kháng làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa quân đội”... của các thế lực thù địch.

CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN VÀ MỤC TIÊU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Gần đây, các thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mũi nhọn quan trọng và thâm độc nhất là tiến công vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam; đồng thời phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam… Cùng với đó, các phần tử cơ hội về chính trị và chống đối đã thành lập các tổ chức, nhóm, hội bí mật phát tán các tài liệu bất hợp pháp, tung tin đồn nhảm, xuyên tạc tình hình, truyền bá những quan điểm sai trái chống đối Đảng, chính quyền các cấp. Một số người ở nước ngoài đưa ra luận điệu bịa đặt, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc sự thật, nói xấu lãnh tụ, bôi nhọ danh nhân và anh hùng dân tộc. Họ đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; bác bỏ con đường XHCN, đòi đa nguyên, đa đảng...
Theo thống kê, hiện nay ở bên ngoài có tới hơn 50 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, trang mạng in-tơ-nét, hàng trăm tờ báo, tạp chí, hơn 40 nhà xuất bản tập trung tuyên truyền chống phá ta. Hằng năm, có hơn 3.000 tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, hàng chục nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát qua con đường bưu điện quốc tế cùng rất nhiều ấn phẩm độc hại được đưa vào nước ta bằng nhiều con đường khác nhau. Một số đối tượng cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại lén lút cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân, bằng việc tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, nói xấu chế độ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam...
Những năm gần đây, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, lợi dụng những yếu kém để vu cáo chính quyền... kích động những người dân thiếu hiểu biết, dân tộc thiểu số vào các mục đích sai trái, âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, đồng bào miền xuôi và miền ngược, giữa người Kinh với đồng bào tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bằng thủ đoạn chống phá tạo sự chuyển hóa từ bên trong và bên trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã thành công trong việc xóa bỏ chế độ XHCN ở Liên Xô (trước đây) và một số nước Đông Âu. Thực tế cho thấy, một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến tình trạng đó còn là do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… sự xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng, sự vô nguyên tắc, mất dân chủ, xem thường luật pháp Nhà nước; hiện tượng chia bè, kéo cánh, quan liêu, trục lợi, tranh quyền tranh chức, đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự thiếu tu dưỡng, học tập, rèn luyện hoặc tôn sùng lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, thu vén cá nhân hơn là cống hiến... Một khi tư tưởng chính trị chệch hướng, thì sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ, dẫn đến nguy cơ tự sụp đổ của chế độ chính trị.

QUAN ĐIỂM PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC CỦA ĐẢNG LÀ ĐỘNG LỰC CHO SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực và nguồn lực to lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Quan điểm ĐĐKTDT của Đảng ta, là sự kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam, đó là giá trị truyền thống quí báu, điều kiện đảm bảo cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Cuộc cách mạng XHCN mà chúng ta đang tiến hành nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để song cũng rất lâu dài, quyết liệt, phức tạp, nó chỉ được hoàn thành khi gắn kết, đoàn kết được mọi giai tầng trong xã hội thành một lực lượng thống nhất, có tổ chức chặt chẽ có ý chí và hành động phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng.
Trong mỗi giai đoạn và thời kỳ cách mạng, Đảng đều có quan điểm và chính sách ĐĐKTDT đúng đắn, phát huy được sức mạnh ĐĐKTDT, tạo động lực to lớn, ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trải qua các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng luôn nhấn mạnh phải mở rộng và tăng cường ĐĐKTDT, phát huy sức mạnh ĐĐKTDT luôn là một nội dung quan trọng của chủ đề các đại hội. Tại Đại hội XII: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”, là khẩu hiệu hành động của Đảng. Nhờ phát huy sức mạnh ĐĐKTDT, mà sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng nước ta đứng trước nhiều thời cơ, vận hội đan xen với nhiều nguy cơ, thách thức. Để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên vững chắc, Đảng ta vạch rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
 Điều kiện đảm bảo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm Đại hội XII của Đảng
Trong phát huy sức mạnh ĐĐKTDT, vấn đề cơ bản là kết hợp và giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích. Sức mạnh ĐĐKTDT chỉ có thể được xây dựng và phát huy khi kết hợp đúng đắn và giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội.
Việc kết hợp, giải quyết hài hòa các nhu cầu và lợi ích của các chủ thể sẽ tạo động lực cơ bản cho sự liên minh và phát triển xã hội. Khối ĐĐKTDT nước ta dựa trên nền tảng của khối liên minh công – nông – trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội, giữa các dân tộc, giai cấp, tôn giáo, thành phần xã hội vì lợi ích căn bản, đó là: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh,  dân chủ, công bằng, văn minh”. Trên cơ sở mục tiêu đó, Đảng khẳng định: tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc, đã thể hiện thái độ nghiêm túc, rõ ràng, nhất quán của Đảng trong xây dựng ĐĐKTDT.
Một điểm quan trọng là Đảng ta coi tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước để tạo sinh lực mới của khối ĐĐKTDT. Vì củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng, là cội nguồn sức mạnh của Đảng ta. Từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm của 30 năm đổi mới, Đảng rút ra bài học lớn: phải luôn luôn lấy “dân là gốc”. Chính điều đó làm cho nhân dân tin Đảng, tin tưởng vào sự quản lý, điều hành của Nhà nước, tạo nên sự hòa hợp ý Đảng lòng dân, tạo ra sinh lực mới của khối ĐĐKTDT. 
Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta xác định:
Một là, tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về ĐĐKTDT. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước.
Hai là, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.
Ba là, tiếp tục khẳng định đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối ĐĐKTDT.
Bốn là, xem xét, đánh giá khách quan đặc điểm cơ cấu xã hội, mối tương quan và vai trò vị trí của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của các thành phần xã hội, các tổ chức đoàn thể. Từ đó, xác định ĐĐKTDT trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức do Đảng lãnh đạo trong điều kiện lịch sử mới, có cơ chế chính sách phù hợp huy động mọi tiềm năng, nguồn lực của toàn dân tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế hiện nay

Toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Trong các mặt đó thì toàn cầu hóa kinh tế đang là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hóa nói chung. Giống như khái niệm toàn cầu hóa thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa kinh tế.Sau đây là khái niệm phổ biến nhất: “Toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,khu vực,tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới,sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.”
Một là, Diễn ra ngày càng sâu rộng, mạnh mẽ, nhiều tầng, đan xen thuận, nghịch, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, là quá trình không đơn giản, trơn tru bằng phẳng, nhất là với các nước đang phát triển
Hai là, Các cường quốc kinh tế tư bản chủ nghĩa là lực lượng chủ đạo, là lực lượng chi phối quá trình toàn cầu hóa, là động cơ thúc đẩy và là người hưởng lợi chủ yếu
Ba là, Diễn ra trong sự bất công, bất bình đẳng do tính chất tư bản chủ nghĩa của nó. Phân hóa giàu nghèo gia tăng
Bốn là, Diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội
Năm là, Xu hướng tự do hóa kinh tế song song với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn cầu hóa đi đối với khu vực hóa; toàn cầu hóa đi với phản toàn cầu hóa, phát triển gắn liền với yếu tố phản phát triển.

Dự báo khuynh hướng phát triển của Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa xã hội hiện thực hiện nay và trong một vài thập kỷ tới

* Dự báo khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản
- Trong vài thập kỷ tới, thế giới về cơ bản vẫn phát triển trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản: CNTB phát triển trong khuôn khổ: sở hữu tư nhân là nền tảng; kinh tế thị trường vẫn thống trị; nhà nước vẫn do giai cấp tư bản chi phối
- Các nước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường
- Các tập đoàn xuyên quốc gia phát triển mạnh mẽ ở tầm toàn cầu, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh sang giai đoạn lũng đoạn quốc tế và toàn cầu.
- Tăng cường hội nhập quốc tế và toàn cầu về thể chế kinh tế, chính trị và văn hóa trên cơ sở KTTT, dân chủ và nhà nước pháp quyền.
- Chủ nghĩa tư bản phát triển ngày càng hiện đại, tạo nên cơ sở vật chất – kỹ thuật cho xã hội tương lai.
* Khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa xã hội
- Tiếp tục khắc phục khủng hoảng và vượt qua những thoái trào
- Triển vọng của CNXH và định hình CNXH hiện thực mới phụ thuộc phần lớn quá trình xây dựng CNXH của Trung Quốc, Việt Nam, cũng như các nước khác.
- Những thành tựu của CNXH hiện thực khẳng định CNXH có sức sống, tiềm năng; đấu tranh, cạnh tranh, hợp tác, cùng tồn tại, cùng phát triển giữa CNXH, CNTB, CNXH dân chủ - những trào lưu, khuynh hướng  lớn hiện nay.

Một số vấn đề lý luận về thời đại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta năm 1991

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.312-313)
- Đánh giá về tương quan giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, Cương lĩnh nêu rõ: “... do duy trì quá lâu những khuyết tật các mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số nước, Đảng Cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc lợi dụng những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt.
Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản.
Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.313-314.)
- Nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại, Cương lĩnh năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi:
“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.314)

Tại sao Liên Xô sụp đổ nhưng nội dung thời đại hiện nay vẫn không thay đổi?

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay, có quan điểm cho rằng, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thì nay chủ nghĩa xã hội sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của chủ nghĩ tư bản; rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa. Đây là quan điểm sai trái, bởi vì:
+ Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới là một quá trình lịch sử lâu dài.
+ Để chiến thắng chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản phải mất nhiều thế kỉ.
VD: Như nền cộng hòa tư sản Pháp được sinh ra từ cách mạng 1789, sau 82 năm qua những bước thăng trầm mới được khôi phục từ Công xã Pari. ở Mỹ, chế độ nô lệ bị thủ tiêu vào giữa thế kỷ XIX; phụ nữ chỉ được quyền bầu cử vào năm 1920. Cách mạng Anh (1640-1688), các cuộc cách mạng tư sản Pháp vào các năm 1830, 1848, 1871…
+  Sự đổ vỡ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu phản tính quanh co phức tạp của sự phát triển của lịch sử nói chung và của xã hội chủ nghĩa nói riêng.
+ Một số nước xã hội chủ nghĩa lâm vào trì trệ, khủng hoảng do những yếu kém, khuyết điểm kéo dài. Nhưng, đó không phải là bản chất của chủ nghĩa xã hội. 
+ Chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở nhiều nước và đang không ngừng đổi mới, phát triển làm cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành hiện thực, và ngày càng thể hiện tính ưu việt như bản chất tốt đẹp của nó. Điều này đã chứng minh cho triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong thời đại hiện nay, chứng minh khả năng có thể khắc phục khuyết điểm, vượt qua những thách thức để có những bước phát triển mới.
+ Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thì đây cũng là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.