Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

CHIÊU TRÒ CŨ CỦA NHỮNG TÊN HỀ LỐ BỊCH!

Liên quan đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, trên các trang mạng xã hội luôn xuất hiện những lời bình, lời bàn rầm rộ. Lời khen cũng nhiều và đương nhiên, không thiếu lời gièm pha, cay cú. Hãy xem sự đồng tình, phấn khởi, niềm tin tích cực của nhân dân trong thời gian vừa qua, để thấy được hiệu quả của chủ trương và việc làm đúng đắn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang ra sức chống phá, đả kích Đảng, chính quyền với những toan tính chính trị đầy bẩn thỉu.
Sẽ còn những lời hay hơn để dùng cho bọn chúng, nhưng thôi không cần thiết. Bởi lẽ những lời này nếu nói với những người có não thì cũng đã quá đau rồi.
Cộng đồng mạng không lạ gì những cái tên Hồ Chí Phèo, Lê Hải Lăng… Cái tên thì là như vậy, nhưng việc chúng nói và làm thì chắc cũng chỉ một bộ phận biết mà thôi. 
Với cái mạo nhận là “nhà báo tự do” - nhà “tự do”, Hồ Chí Phèo, Lê Hải Lăng… lại dùng những luận điệu xuyên tạc xỏ xiên cũ rích, chẳng có một căn cứ, cơ sở nào nhưng vẫn tru lên rằng, việc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm là vì mục đích nhằm tới làm lu mờ ai đó, làm tay sai cho ai đó... 
Hãy xem, khi lịch sử đòi hỏi, với những người đứng đầu gánh trách nhiệm như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm chưa hết việc thì chúng lại ra rả, ông ổng rằng: “tại sao không làm?”, “chính quyền ở đâu?”, “trách nhiệm của người đứng đầu?”... Còn bây giờ, khi người đứng đầu, dẫn đầu xông pha, chỉ đạo sát sao, thu lại những kết quả tích cực thì chúng lại có những hành động chống phá, đả kích như vậy. 

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG KẺ "NÉM ĐÁ GIẤU TAY"

Gần đây trên trang Dân Làm Báo VN có đăng tải bài viết "Đừng thờ ơ khi đất nước đang lâm nguy" của Bloger Cánh Dù lộng gió (#Danlambao).
Trong bài viết này, tác giả đã lợi dụng việc qua lại, làm ăn, buôn bán, du lịch giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc để lập luận rằng: "giặc Tầu đã tràn lan khắp quê hương", cho đó là cách thức để người dân quen mắt trước khi sát nhập vào với Trung Quốc vào năm 2020 sắp tới.
Tác giả này còn cho rằng, để trả nợ khi tiền đã lấy VC ngấm ngầm giao 3 đặc khu cho Tầu Cộng (ý muốn nói dự thảo Luật Đặc khu hành chính), tuy Quốc hội Việt Nam chưa thông qua nhưng đây cũng là cách sát nhập từ từ cho đến năm 2020 phải thực hiện cho xong hiệp ước Thành Đô đã ký với Trung Quốc; rằng: Để cho mọi việc được thuận lợi không bị cản trở và chống đối, CSVN đã ký thông qua luật ANM để bịt miệng người dân dám nói lên sự thật và chính kiến của mình cũng như bưng bít thông tin về luật Đặc Khu và việc thực hiện hiệp ước Thành Đô tới đây.
Thật nực cười với những nhận định, lập luận rẻ tiền, đê hèn của những kẻ tự xưng là những người VN máu đỏ da vàng, mang trong người dòng máu Lạc Hồng có truyền thống giữ nước từ thời cha ông để lại qua bao đời.
          Thưa rằng, hoạt động qua – lại các cửa khẩu biên giới đất liền của người không chỉ nhằm mục đích mua bán, trao đổi hàng hóa cư dân biên giới mà còn đáp ứng các yêu cầu hoạt động chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại, văn hóa – xã hội cũng như những lĩnh vực khác của Việt Nam và các nước có chung biên giới. Cùng với tốc độ tăng trưởng của thương mại biên giới, hoạt động xuất nhập cảnh của người liên quan đến thương mại hàng hóa cũng như du lịch, dịch vụ qua – lại các cửa khẩu biên giới đất liền của nước ta cũng tăng về số lượng. Đây là điều hết sức bình thường chứ không phải là tiện cho việc sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Do đó, cần phải có nhận thức đúng và phối hợp quản lý chặt chẽ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân hai nước
Thứ hai, việc xây dựng đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt đã có chủ trương từ những năm 90 của thế kỷ trước, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đi khảo sát ở Bắc Vân Phong, Nha Trang, Khánh Hòa; rồi nghiên cứu học tập kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới. Đây là một phương thức tổ chức nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, thí điểm các cơ chế mới để mở rộng làm kinh tế tốt hơn. Chủ trương này được ghi trong Hiến pháp, trong nghị quyết của Trung ương, nhưng làm thế nào cho hiệu quả, vừa phát huy được sức mạnh trong nước, ngoài nước để phát triển, vừa phải giữ vững độc lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia? Đó là câu hỏi lớn, không thể làm đại khái được. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Vừa rồi chúng ta đã làm rất thận trọng, thảo luận qua mấy kỳ họp, thống nhất tương đối cao và chuẩn bị thông qua tại Kỳ họp này. Nhưng còn có ý kiến khác, Đảng, Nhà nước, Quốc hội thấy cần phải lắng nghe, dân chủ, tiếp thu, bao giờ hoàn thiện tốt thì mới thông qua". Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng còn nhấn mạnh: Đây không phải là bàn giao đất cho nước A, nước B, mà phải xem xét từng dự án, từng chủ đầu tư cụ thể. Đặc khu không dành riêng cho nước nào, với nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền lãnh thổ, quản lý chặt chẽ, chịu ràng buộc bởi luật pháp Việt Nam, không phải ai muốn vào đây làm gì thì làm.
Thứ ba, đến nay, nhiều quốc gia đã xem internet, mạng xã hội là phương thức giao tiếp giữa chính quyền với nhân dân, nhằm phát huy vai trò quản lý, giám sát của nhân dân. Nhà nước Việt Nam đã và đang đi theo xu hướng này, xây dựng chính phủ điện tử từ những lĩnh vực nhạy cảm, ví dụ: Hải quan đến giải quyết những nhu cầu thường nhật của công dân như xác nhận nhân thân, hộ khẩu… Tuy nhiên, internet, mạng xã hội đã từng là phương tiện thông tin chủ yếu của những lực lượng chống chính phủ-kết nối, huy động người dân thực hiện hành vi từ “bất bạo động”, “bất tuân dân sự” đến bạo loạn, lật đổ; kêu gọi nước ngoài can thiệp để “bảo vệ dân thường”, “bảo vệ nhân quyền” khỏi sự đàn áp của chính phủ … Đây là kịch bản của các lực lượng chống chính phủ ở Trung Đông, Bắc Phi trong cái gọi là “cách mạng Hoa nhài” (2010-2011).
Ở Việt Nam, những cuộc gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại tài sản Nhà nước, cản trở người thi hành công vụ xảy ra ở Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh… lấy lý do phản đối dự án luật về đặc khu cho thấy những thế lực chính trị xấu, trong đó có cả nước ngoài đã thông qua internet, mạng xã hội chỉ đạo những phần tử lưu manh, nghiện hút, không công ăn việc làm tìm cách tán phát thông tin xuyên tạc về dự luật này để kích động người dân xuống đường chống chính quyền nhân dân.
Bởi vậy, cần phải có một chế tài nghiêm minh đối với việc sử dụng internet, mạng xã hội nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. Đó là lý do vì sao Luật An ninh mạng được Quốc hội Việt Nam thông qua với sự nhất trí cao.
Như vậy, chân tướng của Bloger Cánh Dù lộng gió và đồng bọn đã rõ, lợi dụng các sự kiện chính trị, xã hội cho rằng đất nước đang bị xâm lấn, mình không thể làm ngơ, kêu gọi tuần hành, biểu tình ôn hoà vì nước, vì dân nhưng thực chất đằng sau đó là cả một kịch bản đã được dàn dựng sẵn nhằm kích động chống phá chính quyền, chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước nhưng được  che đậy dưới cái mác là "Con Lạc, Cháu Hồng"
Trắng đen đã rõ, mong mỗi chúng ta mà đặc biệt là các bạn trẻ hãy luôn cảnh giác trước những chiêu trò mời gọi tham gia biểu tình của lũ dân chủ cuội và thể hiện lòng yêu nước một cách đúng đắn nhất và đừng để lòng yêu nước của mình bị lợi dụng vào những mục đích chính trị chống phá đất nước./.

NHẬN DIỆN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI DO CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG, THOÁI HÓA, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ, BẤT MÃN GÂY RA

Một số đối tượng “lá mặt, lá trái” cơ hội chính trị, số phần tử bất mãn, cực đoan quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng những thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại bí mật cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân. Số đối tượng này tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, móc nối viết bài nói xấu chế độ, chống phá Nhà nước Việt Nam. Những bài viết được tung lên mạng in-tơ-nét có nội dung tán phát những quan điểm phản động, cực đoan chống Đảng, Nhà nước, kích động tụ tập đông người, biểu tình gây áp lực với chính quyền, đòi thả tự do cho số “tù nhân lương tâm”. Họ phản đối việc Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC, phủ nhận sự thành công của Hội nghị, xuyên tạc bài diễn văn của Tổng thống Mỹ hòng gây chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Những biểu hiện cơ hội hữu khuynh ở nước ta hiện nay đã và đang xuất hiện trong bối cảnh đất nước vừa có thời cơ, vận hội lớn, vừa đứng trước nguy cơ, thách thức nghiêm trọng. Tư tưởng cơ hội hữu khuynh đó không chỉ được xây dựng trên một cơ sở lý luận xét lại nào đó, mà còn là sự cóp nhặt hỗn tạp giữa trào lưu triết học, xã hội học tư sản hiện đại, song lại chưa thoát được căn bệnh giáo điều đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và mắc bệnh thực dụng. Điều này thể hiện thái độ và lối sống cơ hội nhằm trục lợi cả chính trị lẫn vật chất. 
Một số quan điểm khác phủ nhận con đường phát triển đất nước theo hướng chủ nghĩa xã hội viện dẫn cơ sở lý luận phương pháp luận mác-xít về quá trình vận động của lịch sử như một dòng chảy lịch sử - tự nhiên. Những người cơ hội trước kia đã từng giáo điều trong việc nhận thức về sự thối nát, giãy chết của chủ nghĩa tư bản, thì bây giờ họ lại ấu trĩ cho rằng thế giới tư bản chủ nghĩa ngày nay toàn những nước tư bản có nền công nghệ phát triển cao, toàn những “con rồng”, “con hổ”; rằng con đường tư bản đưa dân tộc đến tương lai tươi sáng. Họ ngụy biện rằng không nhất thiết phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng chủ nghĩa xã hội, không nhất thiết phải chịu sự lãnh đạo của đảng cộng sản thì đất nước mới phát triển. Từ đó vội vàng đi đến kết luận rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là một lý thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực, nếu có thì chỉ mới có sự chứng thực của sự thất bại và đổ vỡ.
Họ tung ra luận điệu trong Đảng có “phe cải cách” và “phe bảo thủ”, có “nhóm lợi ích” từ lãnh đạo cấp cao và nhóm này chi phối toàn bộ các “nhóm lợi ích” ở cấp dưới. Họ cũng bịa đặt rằng “điều này cho thấy phe bảo thủ đã thành công trong việc đặt nặng sự ổn định chính trị trong nước trước cải cách. Thành phần thủ cựu trong Đảng Cộng sản lo ngại Nhà nước sẽ mất đặc quyền đặc lợi”. Họ tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ của Đảng và Nhà nước, xuất hiện nhiều cuốn nhật ký, hồi ký tài liệu tung ra những chuyện giật gân trong sinh hoạt của các nhà lãnh đạo, đề cao người này, hạ thấp người kia, kích động, chia rẽ lãnh đạo cao cấp của Đảng, gây nghi ngờ hòng mong chia rẽ nhân dân với Đảng.
Các đối tượng phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, công kích đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục phát triển kinh tế quốc doanh với những lý sự, như “kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể hòa nhập được”. “kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa, do thời cuộc và do cuộc sống bắt buộc, chính quyền Việt Nam phải chọn sống chung với con hổ yêu tinh hiện đại này, thể nào sớm hay muộn cũng bị nó ăn thịt”; thực hiện đường lối mở cửa, phát triển kinh tế thị trường là chế độ cộng sản Việt Nam đã uống liều thuốc đắng, kinh tế nhà nước là ung nhọt, là “sân sau” của những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải của đất nước.
Bôi nhọ lịch sử chính là một thủ đoạn mới của các đối tượng phản động nhằm phá hoại về tư tưởng, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Tất cả các mũi tấn công trên đều nhằm vào phát triển mầm mống các nhân tố chống chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sự hình thành “xã hội dân sự” dưới tác động của hàng hóa, nguồn vốn phương Tây, hình thành tâm lý sùng bái đồng đô-la, lôi kéo thêm lực lượng cán bộ, đảng viên có quan điểm sai trái, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân để lấn át kinh tế nhà nước.
Tiếp tục phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, gần đây họ tung lên luận điệu “No Ho” hòng phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc công lao, sự nghiệp vĩ đại của Bác. Thâm độc hơn, họ tung ra luận điệu hòng tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin. Họ ngụy biện rằng, bây giờ học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Từ đó họ lại ám chỉ “Chủ nghĩa Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa dân tộc”. Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, vì như vậy sẽ làm suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh và thực chất là từ phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới phủ định chính ngay tư tưởng Hồ Chí Minh.
Họ còn nói chế độ một đảng là không dân chủ, đòi đảng cộng sản đang cầm quyền phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Một số phần tử cho rằng thích ứng với nền kinh tế đa sở hữu thì nền chính trị không thể nhất nguyên được, không thể duy trì sự lãnh đạo của một đảng duy nhất. Do vậy theo họ, dân chủ phải đi liền với đa nguyên về chính trị. Không ít những lời gièm pha, chỉ trích rằng dân chủ của ta là nửa vời, chưa mở ra đã khép lại... Có người nói cách làm của chúng ta là non gan, yếu bóng vía, không dám mở bung dân chủ hết cỡ, không dám thực hiện dân chủ công khai, không giới hạn.

NHẬN DIỆN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Sau nhiều thập niên thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Khi chúng ta kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 170 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - tác phẩm kiệt xuất của C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà tư tưởng chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội đã tập trung phê phán, đả kích tới tấp vào chủ nghĩa Mác hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta. Họ cho rằng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chỉ là ý tưởng hão huyền, ngông cuồng và cho đến nay càng thấy lạc lõng vì chủ nghĩa tư bản không chỉ tồn tại mà còn bền vững hơn; rằng giai cấp công nhân và những ông chủ tư sản hiện nay đã hòa hợp, trở thành tiền đề cho nhau cùng phát triển; rằng Cách mạng Tháng Mười Nga là “dích dắc” của lịch sử, là cuộc bạo động phản dân chủ, đã hết tác dụng. Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ luận điệu nhằm bác bỏ chủ nghĩa cộng sản, như: du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc. Họ còn cho rằng lý luận Mác - Lênin chỉ giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp, còn tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ giải quyết đấu tranh dân tộc thuần túy, không thể áp đặt mẫu học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Gần đây họ chuyển sang luận điệu “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa, ngay cả Bộ Chính trị”; đồng thời xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu rằng, “đấu tranh giai cấp”, “tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ, không phù hợp với xu thế thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển.
Họ phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm; rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử... Họ xuyên tạc, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được, sự sụp đổ mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu đã được dự báo trước; rằng chủ nghĩa xã hội đặt xã hội lên trên cá nhân chỉ là đề cao một số người đang nắm quyền trong xã hội đó.
Tấn công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng không thể làm trái quy luật bỏ qua chế độ tư bản mà là phát triển chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết các vấn đề xã hội phải làm theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Họ rêu rao rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội. Không ít kẻ đã lớn tiếng rằng chủ nghĩa xã hội chính là bước quá độ từ nghèo nàn, lạc hậu tiến tới chủ nghĩa tư bản, những ước mơ của chủ nghĩa xã hội thì chính chủ nghĩa tư bản đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản những lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề được đặt ra trong đời sống loài người. 
Các thế lực chống cộng tập trung công kích vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ. Bằng việc vu cáo Đảng Cộng sản chiếm quyền của nhân dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”, thực hiện sự chuyên chính của một đảng, sự thống trị quan liêu của giới thượng lưu, chúng đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân. Dựa vào một số “cải cách” ở các nước tư bản và nhất là dựa vào các mô hình xã hội - dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, họ cho rằng từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị mới.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, họ cho rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, “lại được đào luyện trong một logíc chuyên chế bạo ngược”, cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển. Họ lập luận: “... nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “Người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Với những điều kiện như trên, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam...”...
Họ phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phê phán triệt để, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa. Cho rằng “đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thời đại, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích đau đớn hơn, chậm chạp hơn”. Gần đây có luận điệu xảo quyệt, thâm độc hơn như “con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ tư bản chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập với nhau”.
Nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo, họ cho rằng “Đảng đã hoàn thành nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và hiện nay phải để lực lượng khác lãnh đạo đất nước thì đất nước mới phát triển được, cứ để Đảng lãnh đạo thì đất nước còn lạc hậu”.
Mục tiêu của các thế lực thù địch là tập trung hướng vào nội bộ ta, tìm mọi hình thức, tinh vi hoặc trắng trợn, công khai hoặc bí mật, ráo riết làm cho nội bộ không ổn định, luôn luôn gieo rắc ngờ vực, nghi kỵ, giảm sút lòng tin hòng gây chia rẽ, lục đục nội bộ. Các chiến dịch tung tin thường tập trung vào các kỳ đại hội Đảng, kỳ bầu cử Quốc hội nhằm mục đích kích động, chia rẽ nội bộ. Xuất hiện nhiều luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm như “Phe thân Mỹ sẽ thắng và phe thân Trung Quốc sẽ thua”. Hiện nay công tác chống tham nhũng đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện một cách kiên quyết, công khai, minh bạch, được nhân dân hết sức đồng tình và tin tưởng, nhưng các thế lực thù địch lại xuyên tạc, bóp méo, cho đó là cuộc đấu tranh thanh trừ nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích.

Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2018

“VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN” Ở VIỆT NAM - BỔN CŨ SOẠN LẠI

Với luận điệu tuyên truyền cho cái gọi là "ngày nhân quyền tại Việt Nam", trên một số trang mạng xã hội lại tiếp tục điệp khúc "Việt Nam hiện nay hầu như đã vi phạm tất cả các quyền về sự tự do, sự bình đẳng, cũng như được mưu cầu hạnh phúc – như một con người. Từ đó, mình mới biết VN đang trong tình trạng báo động" (?); hoặc: "Nhân quyền ở VN vẫn là "món ăn" xa lạ và "rẻ tiền" đối với nhà cầm quyền VN, bởi còn đảng thì vẫn còn nắm giữ chặt cái ghế quyền lực cai trị. Độc tài bắt buộc dẫn đến vi phạm quyền tự do con người nói chung” (?); "Chính phủ Mỹ nên vận dụng uy tín và giá trị sẵn có của mình để thúc đẩy và cải thiện quyền con người cho Việt Nam trong mọi lãnh vực từ báo chí, tín ngưỡng, chính trị, hội họp vân vân...” (?); "Vận động cho việc đòi quyền tự do phát biểu ý kiến, tự do internet và quyền sở hữu tài sản mà người dân Việt Nam hiện chưa có được cũng là một trong những chủ điểm của Ngày nhân quyền" (?)...
Trước hết, phải khẳng định rằng, những luận điệu cũ rích này hoàn toàn thiếu cơ sở khách quan, cực đoan và mang đầy màu sắc kỳ thị với những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng và Nhân dân ta đang thực hiện. Điều đó không khó để nhận ra đây là luận điệu của những kẻ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, chống phá những thành quả mà Nhân dân ta đang xây dựng.
Một điều khẳng định nữa, đối với Việt Nam hoàn toàn không có “vấn đề nhân quyền”; tức là: Nhân quyền ở Việt Nam không có “vấn đề” như những thế lực thù địch rêu rao. Từ khi thành lập đến nay, Nhà nước Việt Nam luôn bảo đảm quyền con người và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Quyền con người được phát huy là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam những năm qua.
Như vậy, “Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam” hiện nay thực chất nằm ở âm mưu chính trị đen tối của của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Như mọi người đều biết, nhân quyền, hay quyền con người (Human Rights) là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế. Nhân quyền là một trong những thành quả lớn lao của nền văn minh nhân loại, là giá trị mà các quốc gia dân tộc có thể chia sẻ. Quyền con người là quyền của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại, vừa mang tính phổ quát toàn thế giới lại mang tính lịch sử cụ thể. Quyền con người gắn rất chặt với các quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia vì nó là một bộ phận của quá trình phát triển nội tại của từng nước. Do vậy, không có mô hình thực hiện nhân quyền cho mọi quốc gia và không thể sao chép nguyên si mô hình bảo đảm nhân quyền của một nước ở châu Mỹ hay châu Âu vào Việt Nam. Mỗi nước có mô hình riêng, đó là lẽ phải không ai chối cãi được, nó đã trở thành những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực pháp lý quốc tế được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc, trong các bản Tuyên ngôn, các Công ước quốc tế về nhân quyền. Thế nhưng, từ chỗ cho rằng, nội dung, tiêu chuẩn của nhân quyền là tuyệt đối, bất biến, là ý tưởng chính trị duy nhất, một số kẻ đã giải thích nhân quyền như là những tự do không bị cấm đoán, không bị giới hạn. Mục đích của họ là cổ xuý cho một thứ “tự do hoang dã”, vô chính phủ, mà thực chất ở đó chỉ có một thứ “luật rừng” ngự trị; những kẻ mạnh có quyền lực vô biên, những kẻ yếu thì bị tước mất quyền. Đó là thứ tự do phá hoại, tự do dẫn tới huỷ diệt, không phải là tự do chân chính, tự do tạo ra khả năng cho phát triển nhân cách của tất cả mọi người và càng không phải là thứ tự do để thúc đẩy xã hội phát triển tốt đẹp hơn...
Đôi điều nhắn nhủ cho những kẻ đang ầm ĩ cổ xúy cho cái gọi là nhân quyền tư bản cần áp dụng nguyên mẫu vào Việt Nam hãy nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, sẽ thấu hiểu như thế nào là đạo lý, lẽ phải, nhân quyền, từ đó thức tỉnh tinh thần dân tộc, biết sống như thế nào cho đúng lương tâm, danh dự của một người Việt Nam yêu nước. Hãy sống đúng với lương tâm, trách nhiệm của một công dân chân chính, nhìn nhận đúng những thành tựu to lớn mà Đảng, Nhân dân ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước. Hãy đừng đi ngược lợi ích của Nhân dân, của dân tộc Việt Nam.

THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Một là, lợi dụng niềm tin tôn giáo để hướng tín đồ vào các hoạt động chống đối cách mạng. Chúng dương các chiêu bài “tự do tôn giáo”, “vì lợi ích của giáo hội”, “bảo vệ đạo pháp”, “bảo vệ chức sắc” để lôi kéo tín đồ tham gia trực tiếp vào các hoạt động chống đối cách mạng như biểu tình, gây rối, tham gia bạo động chính trị. Đồng thời, biến họ thành những tấm lá chắn để bảo vệ chúng trước sự đấu tranh xử lý của cơ quan chức thực thi pháp luật. Mặt khác, chúng tăng cường sinh hoạt tôn giáo, củng cố đức tin, nắm quần chúng tín đồ, tách họ ra khỏi ảnh hưởng của Đảng, chính quyền địa phương và dần dần làm cho họ trở thành lực lượng chính trị đối lập.
Hai là, lợi dụng tổ chức giáo hội, biến nó trở thành công cụ thực hiện âm mưu và hoạt động chống đối cách mạng. Với các tổ chức giáo hội hợp pháp thì chúng tìm cách thao túng, lũng đoạn, thâu tóm quyền lực và hướng lái nó đi chệch đường lối tiến bộ đã được xác định. Đồng thời, dưới danh nghĩa giáo hội để đấu tranh đòi yêu sách và xúc tiến những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Mặt khác, chúng tìm cách phục hồi tổ chức giáo hội cũ, thành lập tổ chức giáo hội mới đối lập để thực hiện mưu đồ lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Thậm chí chúng cấu kết với nhau để hình thành các tổ chức “liên tôn” nhằm có thể lôi kéo đông đảo chức sắc, quần chúng tín đồ ở nhiều tôn giáo khác nhau vào hoạt động chống đối.
Ba là, lợi dụng quan hệ tôn giáo để móc nối với các thế lực thù địch ở nước ngoài. Sử dụng các mối quan hệ của các tổ chức tôn giáo để tìm kiếm sự viện trợ về kinh tế, hậu thuẫn về tinh thần, thống nhất đường hướng và “quốc tế hoá” hoạt động chống đối của chúng. Khi đó, tính chất nguy hiểm và sức chống phá của chúng sẽ tăng lên gấp bội.
Bốn là, lợi dụng giáo lý, giáo luật, sinh hoạt của các tôn giáo để kích động tín đồ chống lại chính sách của Đảng và Nhà nước. Các tôn giáo đều có giáo luật, giáo lý, các qui định cụ thể về việc tín đồ đến các cơ sở thờ tự của tôn giáo mình theo để hành lễ, nghe giảng về kinh kệ, về đạo pháp… Các linh mục, mục sư thay Chúa Trời giảng Kinh Thánh trong các ngày hành lễ; các Hòa thượng, thượng tọa, tăng ni thay mặt Đức Phật giảng về kinh kệ, Phật pháp… Đó là những điều cơ bản về giáo lý, giáo luật của tôn giáo, các thế lực thù địch hiểu rất rõ điều đó, chúng ra sức lợi dụng vấn đề này để dễ bề kích động, chống phá, lôi kéo các chức sắc, tín đồ tôn giáo chống đối chính quyền.
Năm là, lợi dụng những sơ hở thiếu sót của chính quyền trong việc thực hiện chính sách tôn giáo để chống đối. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc về đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để kích động tư tưởng bất mãn, chống đối chính quyền. Đẩy mạnh hoạt động tôn giáo trái pháp luật và bành trướng phát triển lực lượng. Đồng thời, thu thập cung cấp cho các thế lực thù địch nước ngoài để lấy đó làm bằng chứng nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước ta.
Quá trình thực hiện, các thế lực thù địch đã móc nối, liên kết chặt chẽ giữa đối tượng ở trong nước với những đối tượng ở nước ngoài. Trong đó, đối tượng nước ngoài, thường giữ vai trò chủ mưu, chỉ đạo, tài trợ và hậu thuẫn cho đối tượng ở trong nước. Đối tượng cốt cán ở trong nước chủ yếu là các chức sắc có âm mưu và hoạt động chống đối cách mạng, trực tiếp triển khai, thực hiện âm mưu, ý đồ lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch ở nước ngoài.
Âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống cách mạng nước ta của các thế lực thù địch vô cùng thâm độc, tác động lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, dễ làm cho quần chúng nhân dân dao động, mất cảnh giác, không nhận diện được sự chống phá của địch. Điều đó, làm cho việc đấu tranh ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta càng trở nên khó khăn, phức tạp. Vì vậy,  phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh trên mọi mặt trận, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Một là, lợi dụng niềm tin tôn giáo để hướng tín đồ vào các hoạt động chống đối cách mạng. Chúng dương các chiêu bài “tự do tôn giáo”, “vì lợi ích của giáo hội”, “bảo vệ đạo pháp”, “bảo vệ chức sắc” để lôi kéo tín đồ tham gia trực tiếp vào các hoạt động chống đối cách mạng như biểu tình, gây rối, tham gia bạo động chính trị. Đồng thời, biến họ thành những tấm lá chắn để bảo vệ chúng trước sự đấu tranh xử lý của cơ quan chức thực thi pháp luật. Mặt khác, chúng tăng cường sinh hoạt tôn giáo, củng cố đức tin, nắm quần chúng tín đồ, tách họ ra khỏi ảnh hưởng của Đảng, chính quyền địa phương và dần dần làm cho họ trở thành lực lượng chính trị đối lập.
Hai là, lợi dụng tổ chức giáo hội, biến nó trở thành công cụ thực hiện âm mưu và hoạt động chống đối cách mạng. Với các tổ chức giáo hội hợp pháp thì chúng tìm cách thao túng, lũng đoạn, thâu tóm quyền lực và hướng lái nó đi chệch đường lối tiến bộ đã được xác định. Đồng thời, dưới danh nghĩa giáo hội để đấu tranh đòi yêu sách và xúc tiến những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Mặt khác, chúng tìm cách phục hồi tổ chức giáo hội cũ, thành lập tổ chức giáo hội mới đối lập để thực hiện mưu đồ lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Thậm chí chúng cấu kết với nhau để hình thành các tổ chức “liên tôn” nhằm có thể lôi kéo đông đảo chức sắc, quần chúng tín đồ ở nhiều tôn giáo khác nhau vào hoạt động chống đối.
Ba là, lợi dụng quan hệ tôn giáo để móc nối với các thế lực thù địch ở nước ngoài. Sử dụng các mối quan hệ của các tổ chức tôn giáo để tìm kiếm sự viện trợ về kinh tế, hậu thuẫn về tinh thần, thống nhất đường hướng và “quốc tế hoá” hoạt động chống đối của chúng. Khi đó, tính chất nguy hiểm và sức chống phá của chúng sẽ tăng lên gấp bội.
Bốn là, lợi dụng giáo lý, giáo luật, sinh hoạt của các tôn giáo để kích động tín đồ chống lại chính sách của Đảng và Nhà nước. Các tôn giáo đều có giáo luật, giáo lý, các qui định cụ thể về việc tín đồ đến các cơ sở thờ tự của tôn giáo mình theo để hành lễ, nghe giảng về kinh kệ, về đạo pháp… Các linh mục, mục sư thay Chúa Trời giảng Kinh Thánh trong các ngày hành lễ; các Hòa thượng, thượng tọa, tăng ni thay mặt Đức Phật giảng về kinh kệ, Phật pháp… Đó là những điều cơ bản về giáo lý, giáo luật của tôn giáo, các thế lực thù địch hiểu rất rõ điều đó, chúng ra sức lợi dụng vấn đề này để dễ bề kích động, chống phá, lôi kéo các chức sắc, tín đồ tôn giáo chống đối chính quyền.
Năm là, lợi dụng những sơ hở thiếu sót của chính quyền trong việc thực hiện chính sách tôn giáo để chống đối. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc về đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để kích động tư tưởng bất mãn, chống đối chính quyền. Đẩy mạnh hoạt động tôn giáo trái pháp luật và bành trướng phát triển lực lượng. Đồng thời, thu thập cung cấp cho các thế lực thù địch nước ngoài để lấy đó làm bằng chứng nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước ta.
Quá trình thực hiện, các thế lực thù địch đã móc nối, liên kết chặt chẽ giữa đối tượng ở trong nước với những đối tượng ở nước ngoài. Trong đó, đối tượng nước ngoài, thường giữ vai trò chủ mưu, chỉ đạo, tài trợ và hậu thuẫn cho đối tượng ở trong nước. Đối tượng cốt cán ở trong nước chủ yếu là các chức sắc có âm mưu và hoạt động chống đối cách mạng, trực tiếp triển khai, thực hiện âm mưu, ý đồ lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch ở nước ngoài.
Âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống cách mạng nước ta của các thế lực thù địch vô cùng thâm độc, tác động lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, dễ làm cho quần chúng nhân dân dao động, mất cảnh giác, không nhận diện được sự chống phá của địch. Điều đó, làm cho việc đấu tranh ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta càng trở nên khó khăn, phức tạp. Vì vậy,  phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh trên mọi mặt trận, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG: "TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ GẶP MAY

Những kẻ núp bóng ngoại bang như những thành phần cơ hội chính trị trong chính phủ Trần Trọng Kim đều có quan điểm này. Cái gọi là chính phủ này được gọi là thành lập trong thời điểm mà phát xít Nhật đã cơ bản thất bại trên mặt trận Thái Bình Dương. Và những thế lực cơ hội chính trị ở Việt Nam lúc bấy giờ đã phải tháo chạy khỏi Việt Nam nhưng bây giờ thì nhờ CIA bơm thổi, chúng lại bắt đầu quá trình trở cờ nhằm phục hồi thanh thế mà trước đó, chúng cùng với ngụy quyền Sài Gòn đã không thế “giành được trái tim của quần chúng”.
Xét theo sự mô tả lịch sử lúc bấy giờ trong “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng Trường Ba Đình ngày 2-9-1945 rằng “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” thì đó là sự phản ánh đúng thời thế lịch sử khi đó.
Nhưng lực lượng nào đã làm nên cuộc cách mạng đó. Những kẻ chuyên “bám gót thực dân”, “theo voi hít bã mía” thực dân đế quốc luôn tâm niệm trong đấu chúng giá như không có chủ nghĩa phát xít Hitler và nếu không có Liên Xô thì bây giờ chúng đã có “biệt thự” trên… “mặt trăng”. Đây có lẽ là ước mơ cao nhất hiện tại nhưng chưa chắc đã là ước mơ cao nhất của những kẻ đó trong tương lai.
Bọn sử gia cơ hội chính trị theo gót các thế lực phản động thù địch cố gắng che lấp và xuyên tạc quá trình tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời bơm thổi cho các thế lực cơ hội chính trị được các thế lực chính trị nước ngoài bợ đỡ như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt .v.v… .Tuy nhiên, như sự thật lịch sự đã khẳng định. Nhân dân Việt Nam đã chọn con đường theo Đảng, theo Việt Minh. Tại sao vậy?
Tất cả là ở chỗ chính Đảng Cộng sản Việt Nam thánh lập từ năm 1930 đã luôn đứng về phía những người cần lao, cùng khổ, đã luôn đấu tranh để bào vệ cho những người lao động. Trong suốt 15 năm trước Cách mạng tháng Tám, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đấu tranh giành độc lập thật sự cho Tổ Quốc mà không bị bất cứ một thế lực ngoại bang nào chi phối. Điều đó đã được chứng minh từ năm 1945.
Vì thế, những chiêu bài tuyên truyền chính trị thông qua cái gọi là những nghiên cứu lịch sử hòng phục hồi những “thây ma chính trị” như Bảo Đại, Trần Văn Chương (bố vợ Ngô Đình Nhu), Nguyễn Văn Xuân, (sĩ quan người Việt mang quân hàm thiếu tướng quân đội thực dân Pháp ngày 8-10-1947), Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát (anh cả cố giáo sư Phan Huy Lê).
Trên thực tế thì Đảng Cộng sản Việt Nam (có lúc mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã tự mình tiến hành cuộc đấu tranh trường kỳ suốt 15 năm ròng kể từ khi thành lập mà không hề dựa vào bất kỳ một thế lực ngoại bang nào. Trong khí đó thì Quốc dân Đảng Việt Nam vì bảo vệ nội bộ kém nên bị địch chui vào lũng đoạn và kết cục là bị tiêu diệt cả ban lãnh đạo. Những phần tử cơ hôi chính trị của Việt Nam Quốc dân Đảng đã tháo chạy sang Trung Quốc và bị nước ngoài sử dụng như tay sai của mình. Theo gót Việt Nam Quốc dân Đảng, những phần tử cô hội chính trị tự lập ra các đảng phái này nọ cũng nương nhờ vào các thế lực ngoại bang mà tồn tại. Điều đó không hề có ở Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên giành độc lập, chủ quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp. Trong cuộc cách mạng mang tính lịch sử toàn cầu này không có dấu hiệu của bất cứ một thứ Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt nào trong các sự kiện đấu tranh chính trị cũng như đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Nhưng bọn cơ hội chính trị "đục nước béo cò" thì lúc nào cũng có, và việc chúng có mặt đòi chia phần thành quả của Cách mạng Tháng Tám cũng không phải là điều lạ.
Cách mạng Tháng Tám là cả một sự tính toán chiến lược đối với một dân tộc tuy có bề dày lịch sử chống ngoại xâm nhưng thực lực thì còn rất non yếu. Trong điều kiện hoàn cảnh ấy, chỉ có thể dựa vào thời cơ, tranh thủ thời có trong điều kiện “Pháp chạy. Nhật hàng”. Những phần tử phản động mang danh Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt đừng nên hối tiếc làm gì bởi các ông là những kẻ hèn nhát, ngồi bàn chuyện chính sự salon thì giỏi nhưng cấm dám ló mặt ra trận tiền. Và giờ đây, hậu duệ của các ông cũng có một đám các con cháu “chém gió thành bão” trên Facebook đấy. Hậu duệ của các vị quả là quá "vẻ vang" vì đã dùng “hỏa lực mồm” để có thành tích “đánh giặc mồm”.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC THẮNG LỢI CỦA CHIẾN DỊCH TỔNG TẤN CÔNG MÙA XUÂN 1972

Chiến dịch Tổng tấn công mùa Xuân 1972 với Chiến dịch Trị Thiên Huế, trận Thành cổ Quảng Trị và sự kết thúc thắng lợi với Hiệp định Paris.
Cũng với phương cách tương tự, một nhúm người tự phong mình là “sử gia” của chế độ ngụy Sài Gòn sau khi di tản sang Mỹ đã viết về trận chiến ở Thành cổ Quảng Trị với những sự cắt xén, xuyên tạc đến trơ tráo. Chúng không hề nhắc đến chuyện cả một trung đoàn 56 (thuộc Sư đoàn 3) quân ngụy Sài Gòn do các trung tá Phạm Văn Đính và Vĩnh Phong chỉ huy đã đầu hàng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Và đến ngày 2-5-1972 thì Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, đẩy quân ngụy Sài Gòn về phía Nam sông Mỹ Chánh.
Trong những ngày mùa hè bỏng cháy năm 1972, chỉ có không quân và hải quân Mỹ mới có thể cứu được Quân đoàn 1 (Quân khu I) ngụy Sài Gòn tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn. Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia tại Mặt trân B5 (Trị Thiên Huế) đã tổn thất khá nhiều về người, vũ khí, trang bị mà phần lớn những tổn thất đó là do không quân Mỹ (bao gồm cả máy bay ném bom chiến lược B-52) và các chiến hạm của Mỹ đậu gần bờ biển pháo kích vào.
Ngày 28-6-1972, sau khi được tăng viện Sư đoàn Thủy quân lục chiến và Sư đoàn Dù từ Quân đoàn 3 ra, quân ngụy Sài Gòn bắt đầu cuộc phản công mang mật danh “Lam Sơn 72” do tên tướng ba sao Ngô Quang Trưởng chỉ huy. Mặc dù nắm trong tay binh lực của các sư đoàn 1, 3 (thiếu), Dù, Thủy quân lục chiến và 5 liên đoàn biệt động quân (mỗi liên đoàn tương đương một lữ đoàn) để đối phó với 3 sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổn thất trong 3 giai đoạn “Bão táp” của Chiến dịch Trị Thiên Huế nhưng phải đến ngày 16-9-1972, quân ngụy Sài Gòn mới có thể chiếm lại được Thành cổ Quảng Trị và chịu dừng bước ở bờ Nam các con sông Thạch Hãn và Vĩnh Định. Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vững thị xã Đông Hà và 3 huyện phía Bắc tỉnh Quảng Trị, (không kể huyện Vĩnh Linh nằm phía Bắc sông Bến Hải).
Cũng trong mùa Xuân năm 1972, các đòn tấn công chiến lược tiếp theo của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Mặt trận B2 (Đông Nam Bộ), Mặt trận B3 (Bắc Tây Nguyên) và các mặt trận phối hợp tại Liên khu V và Khu 8 đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân đội ngụy Sài Gòn. Tại Đông Nam Bộ, mặc dù không chiếm được thị xã Bình Long (An Lộc) nhưng ba sư đoàn 5, 7, 9 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Bắc Tây Ninh qua Bắc Bình Long đến Bắc Phước Long. Tại Bắc Tây Nguyên, dù chưa chiếm được thị xã Kon Tum nhưng các sư đoàn 2, 320A và 4 trung đoàn bộ binh của mặt trận B3 với quân số ít hơn đã đánh bại 3 sư đoàn quân ngụy Sài Gòn có hơn 10.000 phi vụ B-52 yểm hộ; giải phóng địa bàn các huyện Đắc Tô, Tân Cảnh, sau này trở thành bàn đạp quan trọng cho Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975.
Tính chung trong toàn bộ chiến cục tấn công chiến lược năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 213.000 tên địch, trong đó có 4.408 lính Mỹ, bắt tù binh 13.200 lính ngụy Sài Gòn.
Chuỗi chiến dịch tấn công chiến lược năm 1972 đã đạt kết quả to lớn chưa từng có. Đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đàng hoàng ra mắt tại vùng giải phóng Đông Hà. Đế quốc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris 1973, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt mọi hành động can thiệp quân sự vào Đông Dương cũng như có trách nhiệm tài thiết Việt Nam sau chiến tranh.
Nhưng chiến cục với kết quả to lớn ấy lại không hề được những kẻ “lật sử” nhắc đến. Chúng xoáy vào trận đánh tại Thành cổ Quảng Trị và tách nó ra khỏi toàn bộ Chiến cục năm 1972. Và chúng cũng làm như vậy đối với các trận đánh tại An Lộc và Kontum. Hành động có chủ đích đó một mặt nhằm “lên giây cót” cho những “con rối” tàn dư, hậu duệ của chế độ ngụy Sài Gòn đang lưu vong ở nước ngoài, mặt khác, đánh vào tâm lý đau xót do mất mát trong chiến tranh. Và cuối cùng, những kẻ “lật sử” đó tiếp tục dựa vào sự cắt xén lịch sử ấy để tung ra những luận điệu sai trái, biến cuộc Kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của quân và dân Việt Nam thành một cuộc nội chiến. Qua đó, núp dưới chiêu bài hòa hợp dân tộc để đổi trắng thay đen, phải trái, biến chiến tranh chính nghĩa thành chiến tranh phi nghĩa và ngược lại.

CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC

Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ Quốc Việt Nam diễn ra từ ngày 17-2-1979 đến năm 1991 mới chấm dứt. Trong 12 năm ròng rã ấy đã diễn ra hàng nghìn trận đánh lớn nhỏ mà đỉnh điểm là mùa xuân năm 1979 và mùa hè năm 1984. Vào mùa xuân năm 1979, với binh lực thua kém đối phương nhiều lần nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh lui 600.000 quân Trung Quốc khỏi lãnh thổ Việt Nam, tiêu diệt và bắt sống 62.000 sĩ quan và binh lính Trung Quốc, phá hủy hàng nghìn xe tăng và xe bọc thép. Vào mùa hè năm 1984, tại mặt trận Vị Xuyên, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 11 tiểu đoàn, tiêu diệt 7.500 sĩ quan và binh lính Trung Quốc, ngoài ra còn có 5.500 sĩ quan và binh lính Trung Quốc bị thương. Tổn thất ấy lớn đến mức tướng Lưu Á Châu, Giám đốc Học viện quân sự cao cấp Trung Quốc đã phải thốt lên: “Lính chết la liệt nhưng không có ai chịu trách nhiệm cả!”. Trong khi đó thì tổn thất của Quân đội Nhân dân Việt Nam là hơn 2.000 người hy sinh và bị thương.
Thế nhưng những kẻ lật sử một lần nữa lại chia tách các trận đánh ở Vị Xuyên mà đặc biệt là ở các cao điểm 1509 Núi Đất (Trung Quốc gọi là Lão Sơn), 772, 233 1030 và 1200 (Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn) ra khỏi toàn bộ quá trình xung đột vũ trang trên biên giới Việt Trung từ năm 1979 đến năm 1991 để phủ nhận chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong hàng loạt các bài báo lớn nhỏ hầu như không đề cập đến việc Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc giữ vững tuyến biên giới phía Bắc của Tổ Quốc mà nhằm vào hai việc:
- Một là, tô đậm tổn thất của ta để khơi dậy tâm lý thất bại, đồng thời lấy cớ đó vu cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam bắt tay với cái mà họ gọi là “giặc Tàu”.
- Hai là, từ những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật để kích động tâm lý bài Trung, thoát Hán; đương nhiên đến bước sau là “cắm biển chỉ đường” cho Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ và cuối cùng là xóa bỏ chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam.
Đó là những ý đồ cực kỳ xấu xa, mang màu sắc của động cơ lưu manh chính trị, là lợi dụng sự hy sinh xương máu của các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam cho những chiêu trò cơ hội chính trị bẩn thỉu.

CUỘC CHIẾN ĐẤU 10 NĂM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VÀ TRẬN CHIẾN GẠC MA 1988

Vẫn theo cách thức chia cắt các sự kiện lịch sử, sự kiện Gạc Ma ngày 14-3-1988 cũng bị các thế lực phản động thù địch chia cắt khỏi toàn bộ quá trình chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam để bảo vệ biên giới của Tổ Quốc với ý đồ vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam bán biển, bản đảo cho Trung Quốc, phủ nhận toàn bộ sự hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ ta trong 12 năm chiến đấu ròng rã để bảo vệ chủ quyền, độc lập và lãnh thổ quốc gia, đồng thời “rửa mặt” cho chế độ ngụy Sài Gòn tuân lệnh chủ Mỹ đã tạo ra một cuộc “hải chiến cuội” ở Hoàng Sa nhưng thực chất là Hoàng Sa đã bị Mỹ “chuyển giao” bất hợp pháp cho Trung Quốc sau thỏa thuận ngầm ở Thượng Hải tháng 2-1972.
Sau 9 năm đàm phán ròng rã, (1991-1999), năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền. Năm 2000, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Nguy cơ chiến tranh hay xung đột vũ trang trên biên giới Việt Trung và Vịnh bắc Bộ hầu như đã bị loại trừ. Cùng với đó, những cái cớ để chống phá Việt Nam dựa vào xung đột biên giới cũng bị gỡ bỏ. Bọn phản động tức tối liền xoáy vào những vấn đề còn đàm phán tiếp (và thực ra thì hiện nay đã đàm phán xong, phân định xong) như Thác Bản Giốc, Cửa sông Bắc Luân, khu vực Ma Lỳ Sán (Hà Giang) để tiếp tục nhai lại những luận điệu Việt Nam để mất đất cho Trung Quốc. Việc tiến hành cắm mốc phân định biên giới Việt - Trung trên thực địa (có gắn thiết bị định vị vệ tinh GMS) đã hoàn thành đầy đủ vào năm 2013. Thực tế đã hoàn toàn chống lại nhưng luận điệu xuyên tạc đểu giả ấy.

BẢN CHẤT THẬT CỦA NHỮNG KẺ BỊA ĐẶT RA CÂU CHUYỆN THẢM SÁT CỦA CỘNG SẢN THÀNH PHỐ HUẾ NĂM 1968

Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 với Trận chiến 25 ngày đêm tại Huế cũng như Sự khởi đầu của Hội nghị Paris đã đi vào lịch sử và trở thành bài học về kết hợp giữa các biện pháp đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại giao (đó là chưa kể đến binh vận cũng khá hữu hiệu).
Thế những có những kẻ dựa vào sự bịa đặt của các nhân viên CIA đội lốt nhà báo này, phóng viên kia để dựng lên câu chuyện bịa đặt vô liêm sỉ về thảm sát ở Huế năm 1968. Nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Noam Chomsky bằng những cứ liệu thuyết phục đã vạch trần sự giả dối của chính quyền ngụy Sài Gòn khi chúng thưa kiện với cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc khi đó. Các thành viên của tổ chức Tòa án quốc tế Bertrand Rusell (do nhà hoạt động nhân quyền Bertrand Arthur William Russell, Bá tước Russell III sáng lập) đã phủ nhận những chứng cứ giả mạo mà chính quyền ngụy Sài Gòn đưa ra. Đồng thời, họ đã chất vấn ngược lại người Mỹ về việc không quân Mỹ ném bom phá hủy các đê điều chống lũ lụt ở Việt Nam mà các đê điều đó chắc chắn không bao giờ là các công trình quân sự.
Sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm cùng với Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh nằm trong Chiến lược Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã buộc Nhà Trắng và Lầu năm góc phải nhận ra rằng Mỹ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh này trước một dân tộc thà hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập chủ quyền của mình. Và một kết quả tất yếu của Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đám phán ở Hội nghị Paris để tìm kiếm con đường rút khỏi cuộc Chiến tranh Việt Nam trong danh dự.
Sau cuộc chiến, đoàn chuyên gia của Hội đồng hòa bình Liên Hợp Quốc do giáo sư Noam Chomsky dẫn đầu đã xác nhận rằng chính quyền ngụy Sài Gòn đã chôn chung các chiến sĩ Quân giải phóng miền Nam bị hy sinh trong cuộc chiến với những người dân thiệt mạng vì “tên bay đạn lạc” và bịa đặt ra câu chuyện thảm sát của cộng sản ở thành phố Huế năm 1968. Cho đến nay, các thế lực phản động vẫn sử dụng chiêu bài này để chống phá Việt Nam cho dù sự kiện đã cách đây tới 50 năm và được thế giới kết luận cách đây hơn 40 năm.
Thế nhưng điều đáng phẫn nộ là một số nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện nay lại “lao theo” những sự bịa đặt này hòng “đánh bóng” tên tuổi mình bằng những cái gọi là “sự phát hiện chấn động”. Than ôi! Đến như những nhà sử học tiền bối như Ngô Sỹ Liên, Phan Phu Tiên còn chỉ mong chép sử sao cho đúng, cho chuẩn thôi mà một số vị sử học đời nay còn đòi làm những chuyện “phát kiến chấn động” thì đó quả là một sự châm biếm không thể lớn hơn đối với chính các vị ấy.

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2018

VIỆT NAM PHẢI LIÊN MINH QUÂN SỰ VỚI MỘT CƯỜNG QUỐC THÌ MỚI GIỮ ĐƯỢC CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

Trước tình hình Biển Đông thời gian qua có nhiều diễn biến phức tạp. Bên cạnh những hoạt động đấu tranh đầy trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để giữ vững và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, thì cũng có không ít lợi dụng “đục nước béo cò” đã có nhiều quan điểm sai trái nhằm mục đích gây nhiễu loạn thông tin, khoét sâu mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác. Trong đó đặc biệt có quan điểm cho rằng Việt Nam phải liên minh quân sự với một cường quốc (Mỹ) thì mới giữ được chủ quyền biển đảo.
Với quan điểm trên có thể nói người bình thường cũng nhận ra được đây là quan điểm sai trái đi ngược lại với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đi ngược lại với “Sách Trắng quốc phòng” Việt Nam.Mục đích của quan điểm này không gì khác là nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác. Nghiên cứu tình hình Biển Đông ta thấy, những bất đồng, tranh chấp ở Biển Đông hiện nay không chỉ liên quan đến 5 nước, 6 bên có yêu sách chủ quyền mà còn trực tiếp liên quan đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông và khu vực. Đây là vấn đề phức tạp, lâu dài không thể giải quyết ngay trong ngày một ngày hai và cũng không thể giải quyết được bằng vũ lực, vì sẽ gây tổn hại đến hòa bình, ổn định phát triển.
Bảo vệ hủ quyền lãnh thổ nói chung, chủ quyền biển đảo nói riêng hiện nay phải bằng sức mạnh tổng hợp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nội lực và ngoại lực, bằng cả sức mạnh trong nước và sức mạnh của cộng đồng quốc tế, chứ không thể chỉ dựa vào việc liên minh quân sự với một cường quốc, một nước phát triển. Trong điều kiện các nước đều đề cao lợi ích, dân tộc thì hiếm có quốc gia một “nước phát triển”, một “cường quốc” nào lại đi bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc cho quốc gia, dân tộc khác một cách vô tư, không tính toán. Do đó, dự vào một nước nào đó thì không những không giải quyết được vấn đề mà thậm chí còn làm trầm trọng, căng thẳng và phức tạp thêm tình hình.
“Liên minh” với một nước nào đó để chống nước khác tức là chúng ta đã tự tạo cho mình them một kẻ thù. Càng tai hại hơn nếu đó là một quốc gia có địa chính trị ngay bên cạnh chúng ta. Lịch sử đã khắc ghi nhiều bài học sâu sắc cho việc tồn tại độc lập bên cạnh một láng giềng luôn tìm cách “đồng hóa” chúng ta, đó không chỉ là nhờ vào những chiến công hiển hách như lời hiệu triệu  các bảm Tuyên ngôn “Hịch tướng sỹ” hay “Đại cáo bình Ngô”… mà còn nhờ vào chính sách ngoại giao mềm dẻo ngay sau mỗi chiến thắng của các tướng anh minh vì dân, vì nước. “Bán an hem xa, mua láng giềng gần”, “nước xa không cứu được lửa gần”,… những câu dặn dò cử cha ông xưa vẫn còn nguyên giá trị.
Quan điểm dựa vào nước này, liên minh với nước khác để bảo vệ chủ quyền… là thể hiện tư tưởng yếu hèn, nhược tiểu. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với truyền thống của dân tộc ta và trái với xu thế vận động khách quan của thế giới đương đại.Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, dựa vào nước khác không những không bảo vệ, không đòi được chủ quyền, thậm chí còn mất luôn cả quyền độc lập về chính trị, quyền tự quyết của dân tộc. Do đó ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ của nước khác, dựa vào nước khác để bảo vệ độc lập, chủ quyền thì không xứng đáng được hưởng tự do, độc lập. Sự phụ thuộc của một số quốc gia trên thế giới hiện nay càng khẳng định thêm tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta./.

VIỆT NAM HIỆN NAY CÓ NHẤT THIẾT PHẢI THỰC HIỆN ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP?

Hiện nay trước việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng, đặc biệt là cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân của Đảng và nhân dân ta, các thế lực phản động, thù địch cho rằng chế độ một đảng là độc đoán, chuyên quyền nên dẫn đến tham nhũng, lãng phí… Vì vậy, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có dân chủ, thì đất nước mới phát triển.
Đây là quan điểm hoàn toàn sai trái phản động vì: Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của toàn thể nhân dân. Đảng Cộng sản Việt nam ra đời vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam, giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu XX, cả nước ta chìm trong lầm than nô lệ của thực dân Pháp. Nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện tuy thể hiện được ý chí quật cưường xả thân vì độc lập dân tộc, nhưng đều rơi vào bế tắc về đường lối. Trong bối cảnh đó dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin Đảng ta được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh tổ chức rèn luyện và lãnh đạo đã lãnh đạo cách mạng việt Nam tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ và đã giành được độc lập dân tộc bằng cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp theo đó là lãnh đạo cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thu giang sơn về một mối. Trong những năm tháng gian khổ đó của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tuyệt nhiên không có một đảng phái chính trị nào chia sẻ những khó khăn gian khổ với Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ sức đảng đương và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bước vào thời kỳ hòa bình hàn gắn vết thương chiến tranh ổn định và khôi phục đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn sau chiến tranh, hăng say lao động sản xuất hàn gắn lại những vết thương do chiến tranh để lại để từng bước phát triển đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Trong những giai đoạn khó khăn đó cũng tuyệt nhiên không có một đảng phái chính trị nào gánh vác trách nhiệm cùng Đảng Cộng sản việt Nam trên con đường khôi phục đất nước.
Trong điều kiện hiện nay trước xu thế hội nhập, mở cửa để phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời thực hiện đường lối đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đường lối đó đã phát huy tốt hiệu quả, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã dần thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển vươn lên một cách ngoạn mục. Đời sống nhân dân từ chỗ đói ăn nay đã vươn lên có cuộc sống khá giả, tình hình chính trị – xã hội luôn ổn định, vị thế đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường thì mặt trái của nó cũng tác động không nhỏ đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó tác động tiêu cực đến cả một bộ phân cán bộ đảng viên dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về mặt chính trị, tư tưởng, một số cán bộ đảng viên đã tự diến biến, tự chuyển hóa. Đây chính là cơ hội để các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chống phá, là lý do để chúng đưa ra quan điểm Việt Nam phải thực hiện đan nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhận thức rõ những thách thức đó, Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm và đưa ra các biện pháp đấu tranh rất quyết liệt để đẩy lùi nghững nguy cơ đó. Thực tế qua việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và các nghị quyết khác của Đảng kết quả thu được là rất to lớn, tình trạng suy thoái tự diến biến, tự chuyển hóa cùng tình trạng tham nhũng lãng phí đã dần được khắc phục. Dưới sự lãnh đạo cương quyết đúng đắn của Đảng đất nước tiếp tục có bước phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, nòng tin của nhân dân đối với Đảng được nâng cao.
Những kết quả đạt được đó cho thấy chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay mới đủ sức, đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả mọi quan điểm cho rằng Việt Nam cần thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập đều là sai lầm và đều dẫn dắt dân tộc ta đi vào con đường rối rắm, tan rã như một số nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay./.

"TAM QUYỀN PHÂN LẬP" KHÔNG THỂ LOẠI TRỪ ĐƯỢC NGUỒN GỐC, NGUYÊN NHÂN XẢY RA THAM NHŨNG

Lợi dụng việc Đảng ta đang thực hiện cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí, lấy danh nghĩa góp ý, kiến nghị có nhiều quan điểm cho rằng Việt Nam phải thực hiện "tam quyền phân lập" mới loại trừ được tham nhũng, lãng phí. Có thể khẳng định đây là quan điểm sai trái không có căn cứ khoa học, thực chất của quan điểm này là muốn lái thể chế chính trị của ta theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Tham nhũng xảy ra ở nơi những tổ chức, cá nhân có chức, có quyền khi hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, chế độ chưa đủ, chưa kín kẽ, chưa chặt chẽ, thiếu công khai, minh bạch, sự kiểm tra, kiểm soát, giám sát, điều tra chưa duy trì thường xuyên và với các phương pháp, phương tiện tiên tiến, hiện đại, dư luận xã hội và vai trò của quần chúng nhân dân, của báo chí truyền thông chưa được phát huy đầy đủ, xử phạt chưa nghiêm minh, tội phạm tham nhũng chưa bị trừng trị đích đáng.
Vậy thì làm sao mà chỉ có thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” với sự phân quyền giữa ba nhánh quyền lực có thể xóa bỏ được tham nhũng khi nó không xóa bỏ được nguồn gốc, nguyên nhân nảy sinh tham nhũng.
Thực tế cho thấy, tham nhũng là vấn đề toàn cầu, là tệ nạn xảy ra với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, thể chế quyền lực, hình thức nhà nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Theo bảng dữ liệu về tham nhũng năm 2017 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố xếp hạng nạn tham nhũng của 176 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có đại đa số các quốc gia theo thể chế “tam quyền phân lập” với các biến thể khác nhau, Đa số các nước Bắc Âu xếp vào các nước tham nhũng ít. Các quốc gia khác, tiêu biểu về “tam quyền phân lập” vẫn cáo thứ hạng tham nhũng cao như Ôxtrâylia xếp thứ 13, Anh xếp thứ 10, Nhật Bản xếp thứ 20, Pháp xếp thứ 23, Mỹ xếp thứ 18.
Ở Đông Nam Á, trừ Singapore thuộc TOP 10 nước ít tham nhũng, còn các nước khác như Malaixia xếp thứ 55, Thái Lan xếp thứ 101, Việt Nam xếp thứ 113, Philippin xếp thứ 114, Campuchia xếp thứ 156…
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là tệ nạn nhức nhối, xảy ra nghiêm trọng với 2/3 quốc gia trên thế giới trong số đó, đa số là những nước thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”. Điều đó đủ thấy quan điểm chỉ có thực hiện "tam quyền phân lập" mới chống tham nhũng" là thiếu cơ sở khoa học và phiến diện, cực đoan./.

PHẢI CHĂNG HIỆN NAY VIỆT NAM KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ CAO

Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận chống lại các quan điểm sai trái bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng ta hiện nay đang diễn ra hết sức gay gắt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó đặc biệt là đường lối quốc phòng an ninh bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tìm mọi cách làm suy yếu và phá vỡ nền tảng chính trị, tư tưởng ở nước ta, đặc biệt chúng thường xuyên chĩa mũi nhọn vào chống phá đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Chúng cho rằng hiện nay trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao với những lợi vũ khí thông minh, hiện đại, Việt Nam lại thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là hoàn toàn sai lầm và sẽ bị thất bại.
Có thể khẳng định rằng quan điểm này nhằm mục đích rất rõ ràng là nhằm gây hoang mang và mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào đường lối bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Đây chính là những thủ đoạn lừa gạt, tạo ra sự ngộ nhận và đề cao quá mức sức mạnh của vũ khí công nghệ cao, dẫn tới mù quáng không nhận ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta mà không loại vũ khí hiện đại nào, không một kẻ xâm lược nào có thể khuất phục được.
Nghiên cứu kỹ ta có thể thấy, vũ khí công nghệ cao tuy có sức mạnh, nhưng không phải là vạn năng, nó cũng là những sản phẩm được nghiên cứu, thiết kế dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại của con người. Tuy nó có sức mạnh hủy diệt lớn, độ chính xác cao, đồng thời làm thay đổi các phương thức chiến tranh. Nhưng dù hiện đại đến đâu, vũ khí công nghệ cao không làm thay đổi bản chất của các hoạt động quân sự như: thu thập, xử lý tin tức tình báo, chỉ huy tác chiến, cơ động lực lượng, cơ động hỏa lực, tác chiến tiến công, phản công, phòng ngự, các yếu tố liên quan đến tác chiến của lực lượng vũ trang như bí mật, bất ngờ, yếu tố chính trị, tinh thần và các mặt bảo đảm cho chiến đấu.
Đặc điểm của vũ khí công nghệ cao là tính hệ thống, hoàn chỉnh, tính liên kết chặt chẽ trong một cơ cấu thống nhất, chỉ cần hỏng môt khâu nào đó sẽ kéo theo sự ngưng trên của cả hệ thống. Ngày nay để chống lại vũ khí công nghệ cao của đối phương chúng ta cũng có thể tạo ra các loại mục tiêu giả như thật để đánh lừa chúng, tạo ra nhiều loại bẫy kỹ thuật, nguồn số liệu đầu vào giả làm rối loạn các thiết bị điều kiển vũ khí công nghệ cao. Nước ta có lợi thế về mặt địa hình, thời tiết đây là điều kiện thuận lợi cho việc phòng thủ của ta và cũng là những yếu tố gây bất lợi cho các loại vũ khí điều khiển chính xác của địch.
Các thế lực xâm lược khi tiến hành cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao phải tổ chức quân đôi theo quy mô đồ sộ, cồng kềnh, phụ thuộc nặng nề vào công nghệ, các thành phần của quân đội lại phụ thuộc chặt chẽ với nhau, do đó sẽ kém linh hoạt, đặc biệt khi phải đối phó với kiểu chiến tranh nhỏ chiến tranh du kích của ta.Chiến tranh công nghệ cao cần lực lượng bảo đảm cho tác chiến (không trực tiếp chiến đấu) rất lớn.Hệ thống bảo đảm tác chiến rất phức tạp, phải liên kết hàng trăm căn cứ chiến đấu ở khắp nơi trên thế giới… sẽ tạo ra sự thiếu bền vững của công tác bảo đảm.
Về phương thức tiến hành chiến tranh, yếu tố quyết định cho thắng lợi cuối cùngtrên chiến trường vẫn là sự hiện diện của bộ binh, tuy nhiên vũ khí công nghệ cao chỉ phát huy được sức mạnh của hỏa lực chứ không thay thế được xung lực, vì vậy sẽ khó cho việc giải quyết triệt để thắng lợi của cuộc chiến tranh.
Đối với chúng ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân chính là đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, phát huy được tất cả các lợi thế có sẵn để đáp ứng và giành thắng lợi khi chúng ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh công nghệ cao khi xảy ra. Đây là con đường duy nhất đúng để bảo vệ Tổ quốc, xác định đúng đắn vấn đề này chúng ta có đủ tự tin để sẵn sàng đương đầu và đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực khi chúng tiến hành bằng chiến tranh công nghệ cao. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các quan điểm trên là sai trái, phản động, Đồng thời khẳng định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta hiện nay./.

PHẢI CHĂNG MUỐN CÓ DÂN CHỦ CHO NGƯỜI DÂN VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI PHẢI THỰC HIỆN "ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG"?

Lợi dụng tình hình đất nước trong thời gian vừa qua có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình khiếu kiện tập thể của một bộ phận nhân dân chưa được giải quyết, các thế lực phản động, thù địch đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng chính trị nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Một trong những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chúng là thường xuyên tuyên truyền quan điểm đòi đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập. Chúng cho rằng: muốn có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
Cần thấy rằng “đa nguyên, đa đảng” là sản phẩm của nhà nước tư sản nhằm duy trì bản chất của giai cấp tư sản.Mục đích chính trị của đa nguyên, đa đảng là nhằm thủ tiêu chế độ công hữu, duy trì chế độ tư hữu. Do đó, nhà nước tư sản mặc dù là kiểu nhà nước tiến bộ trong lịch sử, song do giai cấp tư sản nắm địa vị thống trị nên vẫn là kiểu nhà nước của thiểu số bóc lột đa số.
Nhà nước tư sản ra đời từ sau thắng lợi của cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến.để thích ứng với sự phát triển của kinh tế, đa số nhà nước tư sản đều xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ, thực hiện nguyên tắc tam quyền phân lập và đa đảng cạnh tranh. Trong nhà nước tư sản, bầu cử được xem là một biện pháp dân chủ để thong qua đó người dân cử người đại diện cho mình tham gia công việc của nhà nước. Tuy nhiên thực tiễn ở nhà nước tư sản việc bầu cử các đại biểu đại diện cho đa sống nhân dân lao động trong xã hội lại rất khó chúng cử, hoặc không thể chiếm đa số trong nghị viện. Các chính sách phát triển cho đa số người lao động, người nghèo lại khó được nghị viện thông qua. Thực tiễn đó cho thấy các đảng phái chúng cử đó không phải là những người đại diện cho số đông quần chúng lao động mà họ là những người đại diện cho thiểu số giai cấp tư sản và như vậy đại đa số nhân dân lao động không có quyền được làm chủ.
Nhue vậy, đa nguyên, đa đảng không phải là phương thức để mang đến dân chủ thực sự với ý nghĩa dân chủ là giá trị cốt lõi để người dân được trực tiếp, gián tiếp tham gia các hoạt động nắm giữ quyền lực công. Đây chính là lý do để thấy rằng trong các nhà nước tư sản đang tồn tại chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì vẫn phải đối mặt với chính trị bất ổn, kinh tế suy thoái, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân không được bảo đảm.
Trong khi đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời sau thắng lợi của cách mạng vô sản, là kiểu nhà nước chưa từng có trong lịch sử và là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử ra đời với sứ mệnh bảo vệ bản chất giai cấp của nhà nước vô sản, do nhân dân lao động nắm quyền, bảo vệ quyền lợi cho đông đảo người dân trong xã hội, không có áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Xét về lý luận, kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước có nền dân chủ ưu việt hơn dân chủ tư sản.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đưa người dân từ giai cấp bị trị, bóc lột lên vị trí nắm quyền quản lý và điều hành đất nước.
Như vậy có thể trả lời ngay rằng, căn cứ vào lý luận nhà nước và hình thức chính thể, quan điểm “muốn có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện đa nguyên, đa đảng” là không có căn cứ khoa học. Việt Nam đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế để chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp vĩ đại đó chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ sức lãnh đạo để đi đến thắng lợi cuối cùng. Mọi quan điểm đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, về thực chất đều là âm mưu phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta, chứ không vì đem lại quyền dân chủ cho nhân dân và sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ điều đó chúng ta phải kiên quyết bác bỏ và đấu tranh làm thất bại âm mưu thâm độc đó./.