Thứ Ba, 25 tháng 9, 2018

QUAN ĐIỂM MỚI VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG BẢY KHÓA XII

Triển khai, thực hiện các quan điểm Đại hội XII của Đảng về chính sách bảo hiểm xã hội; ngày 19-5-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa (XII) đã họp Hội nghị lần thứ bảy về cải cách bảo hiểm xã hội. Nghị quyết lần này, có nhiều điểm mới về mục tiêu về bảo hiểm xã hội so với các nghị quyết trước của Đảng ta. Nghị quyết đề ra 5 quan điểm chỉ đạo:
Một là, là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống Nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
Điểm mới trong quan điểm trên là khẳng định vi trí, vai trò của bảo hiểm xã hôi là môt trụ cột chính của hệ thốg an sinh xã hội, góp phần quan trọng trong thực hiện tiến bộ, công bằng xẵ hội.
Hai là, phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
Ngoài việc khẳng định phải phất triển hệ thông chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, điểm mới trong quan điểm thứ hai là chỉ rõ phải kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bển vững.
Ba là, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội;
Điểm mới trong quan điểm thứ ba là xác định cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách; vừa mang tính lâu dài và xác định nguyên tắc cải cách chính sắch bảo hiểm xã hội.
Bốn là, phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.
Điểm mới trong quan điểm thứ tư là xác định yêu cẩu phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, nhấn mạnh yêu cầu сủng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân.
Năm là, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
Điểm mới trong quan điểm thứ năm là xác định rõ chủ thể thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.

MỤC TIÊU MỚI VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG ĐÔI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN NAY

Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát: Xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nưốc, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đòi sống của người hưỏng lương và gia đình người hưỏng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể theo hai giai đoạn:
(1) Từ năm 2018 đến năm 2020
a) Đối với khu vực công
- Tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương cơ sỏ theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng và phù hợp vổi tốc độ tăng trưỏng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề.
- Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới theo nội dung cải cách chính sách tiền lương, gắn vói lộ trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết của Trung ương.
b) Đối với khu vực doanh nghiệp
- Thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
- Thực hiện thí điểm quản lý lao động, tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước theo các nội dung của Đề án cải cách chính sách tiền lương được phê duyệt.
(2) Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
a) Đối với khu vực công
- Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thông nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lục lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị.
- Năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp.
- Định kỳ thực hiện nâng mức tiền lương phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng, mức tăng trưởng kinh tế và khả năng của ngân sách nhà nước.
- Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng cửa khu vực doanh nghiêp.
- Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
b) Đối với khu vực doanh nghiệp
- Từ năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia. Các doanh nghiệp được thực hiện chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động và đại diện tập thể người lao động; Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
- Thực hiện quản lý lao động, tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước theo phương thức khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến năm 2025 và tiến tới giao khoán nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vào năm 2030.

QUAN ĐIỂM MỚI VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG ĐÔI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

Triển khai, thực hiện các quan điểm Đại hội XII của Đảng về chính sách tiền lương; ngày 19-5-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa (XII) đã họp Hội nghị lần thứ bảy về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Nghị quyết lần này, có nhiều điểm mới về quan điểm về chính sách tiền lương so với các nghị quyết trước của Đảng ta. Nghị quyết đề ra 5 quan điểm chỉ đạo:
Một là, chính sách tiền lương là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia đình người hưởng lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.
Trong quan điểm thứ nhất, có hai điểm mới:
(1) Khẳng định chính sách tiền lương là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội;
(2) Xác định rõ tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia đình người hưởng lương.
Hai là, cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước.
Điểm mới trong quan điểm này là, khẳng định cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thông, đồng bộ; đồng thời đã chỉ rõ cải cách chính sách tiền lương phải tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường.
Ba là, trong khu vực công, Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng theo năng suất lao động, tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Điểm mới trong quan điểm chỉ đạo cải cách chính sách tiền lương trong khu vực công là Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
Bốn là, trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ để thỏa thuận tiền lương và điều tiết thị trường lao động. Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Điểm mới trong quan điểm chỉ đạo cải cách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp khẳng định tiền lương là giá cả sức lao động. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu, từ đó tiền lương hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Năm là, cải cách chính sách tiền lương là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; thúc đẩy cải cách hành chính; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2018

TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

Trong suốt cuộc đời hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ và coi công tác cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,“Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Người đưa ra một hệ thống luận điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. Đó là căn cứ, tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ, theo Người, chính là đạo đức cách mạng. Lấy “Đạo đức là gốc”, người cán bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, mới có thể trở thành người cán bộ chân chính, “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Chỉ khi có phẩm chất đạo đức tốt thì mỗi người cán bộ biết phân biệt giữa “thiện” và “ác”, “chính” và “tà”. Thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ có văn hóa ứng xử chuẩn: Với mình, với người và với công việc.
Cùng với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người còn yêu cầu cán bộ phải có năng lực (tài); chỉ có những cán bộ có đức, có tài mới có đủ năng lực đảm đương công việc dù công việc khó khăn, vất vả đến đâu, trong hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng có thể hoàn thành. Năng lực của cán bộ được thể hiện ở trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc, làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn.
Theo Người, công tác lựa chọn cán bộ, đây là khâu đầu tiên và rất quan trọng đối với Đảng ta. Người dạy: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Việc lựa chọn cán bộ phải phải dựa theo các tiêu chí: “a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh. b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn... Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn. d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.
Hồ Chí Minh luôn xác định, công tác xem xét, đánh giá, bố trí, sử dụng, quy hoạch cán bộ rất quan trọng, nhân tố quyết định công tác lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Theo Người đánh giá cán bộ là việc rất hệ trọng, cho nên tổ chức đảng, chính quyền và lãnh đạo cấp trên, phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, tổng thể về quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách đánh giá đơn giản nhưng rất chính xác: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, … hay công kích người khác, hay tự nâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải là cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó… dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”.
Có thể nói, những luận điểm cơ bản trên trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ được đề cập rất bao quát, toàn diện, kết hợp giữa xây và chống; có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc hiện nay.

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ MỘT GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết nằm trong bản chất của học thuyết đó. Không phủ nhận rằng, một số luận điểm nào đó của Mác, Ăngghen, Lê-in đã bị lịch sử vượt qua hoặc không còn mang giá trị phổ biến nữa, nhưng phương pháp luận của học thuyết này vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng hạn như, quan điểm duy vật biện chứng: sự vận động của sự vật, hiện tượng phải thông qua đấu tranh giữa hai mặt đối lập; mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vai trò tích cực của ý thức đối với sự vận động và phát triển, v.v. Đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử: quan điểm về sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại tất yếu phải trải qua các hình thái kinh tế - xã hội, hoặc mối quan hệ tương tác giữa hạ tầng cơ sở với kiến trúc thượng tầng và ngược lại, v.v. Những giá trị phương pháp luận nói trên vẫn là chìa khóa để chúng ta phân tích, giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Giá trị bền vững của nền tảng tư tưởng đó còn xuất phát từ chính thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta. Lịch sử cho thấy, sự phát triển của mỗi dân tộc có những quỹ đạo riêng, được hình thành trong lịch sử. Quỹ đạo - con đường phát triển của Việt Nam hôm nay là sự tiếp nối những thành quả của các thời kỳ lịch sử đã qua. Nhiều văn kiện của Đảng yêu cầu tổ chức, cán bộ, đảng viên cần quán triệt những bài học lịch sử được tổng kết từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa, ngày nay nhân loại vẫn chưa vượt qua được thời kỳ xã hội còn phân chia giai cấp, các dân tộc vẫn còn khác biệt nhau về lợi ích chính trị và kinh tế, v.v. Để xử lý những vấn đề trên, chúng ta không thể không dựa trên những luận đề, luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những luận giải trên khẳng định, mọi thành quả của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó lần nữa đập tan mọi nỗ lực của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ nghĩa Mác – Lênin do C. Mác, Ph. Ăngghen và V. Lênin sáng lập trên cơ sở kế thừa chọn lọc những thành tựu khoa học, giá trị tư tưởng và văn hoá nhân loại. Lý luận của các ông là một hệ thống các quan điểm và phương pháp luận khoa học dựa trên nghiên cứu lịch sử nhân loại và hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của lý luận đó là giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Giá trị tư tưởng vượt thời đại của Mác - Ăngghen không chỉ là lý luận về cách mạng vô sản mà còn là phương pháp luận duy vật biện chứng và nhận thức từ chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là phương pháp xem xét sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (bao gồm cả lịch sử, xã hội) là phải đặt trong mối quan hệ tương tác và đấu tranh giữa hai mặt đối lập; xem xét mối quan hệ tương tác giữa hạ tầng cơ sở với kiến trúc thượng tầng xã hội. Mối quan hệ này không chỉ bị quy định bởi quy luật khách quan mà còn tùy thuộc vào hoạt động có ý thức chủ quan của con người. Kế thừa tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin đã phát triển toàn diện lý luận cách mạng đó trong thời đại đế quốc chủ nghĩa; làm sâu sắc thêm lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng nhà nước ở một quốc gia chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản. Lênin khẳng định rằng: các dân tộc bị áp bức có thể và cần phải đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,… và “để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản,… thì phải thực hiện sự liên minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới”.
Mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ biện chứng. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin đến với dân tộc ta qua Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã được chính Người viết trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” - “Lúc bấy giờ… tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng cho đồng bào mình… dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người còn ví “chủ nghĩa Mác – Lênin như cái cẩm nang thần kỳ” khi gặp khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Về mặt tư tưởng chính trị, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ biện chứng cả về lý luận và phương pháp luận. Trong bài nói chuyện tại buổi khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc, Người nhấn mạnh: “Việc học tập lý luận không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông… Các đồng chí phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin… để giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Như vậy có thể nói, luận điệu của những kẻ đóng vai người “mác-xít” xem Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người “dân tộc chủ nghĩa” và những kẻ đóng vai “người yêu nước” phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ là những thủ đoạn chính trị thâm độc nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội ta mà thôi.

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BỆNH QUAN LIÊU, XA RỜI QUẦN CHÚNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Trước hết, đối với các tổ chức đảng, trực tiếp là các chi bộ đảng phải thường xuyên nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ đảng viên. Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng hàng đầu. Các tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cơ quan, đơn vị cần tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư cách đạo đức người cán bộ cách mạng, về bổn phận của người cán bộ trước nhân dân. Đồng thời, quán triệt, nhận thức sâu sắc mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
Hai là, thực hiện tốt việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện của bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa trực tiếp quyết định biện pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi cán bộ, đảng viên trong giải quyết mối quan hệ với nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần hiểu sâu sắc và thực hiện tốt việc tự phê bình phải đi đôi với phê bình; phê bình đồng chí, đồng đội để giúp nhau sửa chữa tiến bộ, để bồi bổ tư cách, không che giấu khuyết điểm, không “làm qua quýt cho xong”, “làm chiếu lệ”, hoặc cho rằng “đó là việc nhỏ, không quan trọng” mà phải thực sự mạnh dạn chỉ cho nhau những hạn chế, khuyết điểm trong quan hệ với nhân dân cả khi làm việc ở cơ quan cũng như khi sinh hoạt ở nơi cư trú.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên cần tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nhất là học tập và làm theo phong cách làm việc gần dân, thân dân, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua những công việc cụ thể, hằng ngày gắn với cương vị công tác để xứng đáng là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây là cách khắc phục, sửa chữa “bệnh” quan liêu, xa rời quần chúng hiệu quả và thiết thực nhất. Bởi vì, mỗi công việc của Đảng phải đứng về phía quần chúng, phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Người đảng viên không chỉ lãnh đạo quần chúng, mà còn phải thấu hiểu quần chúng và học hỏi kinh nghiệm của quần chúng; cán bộ, đảng viên không chỉ lo những việc lớn cho dân mà còn phải lo đến “tương, cà, mắm, muối” của nhân dân. Thực tế cho thấy, ở bất cứ cơ quan, đơn vị, địa phương nào mà người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu mà thực sự gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực công tác và hết lòng vì dân thì được nhân dân tôn trọng, yêu mến, nể phục, tin tưởng và noi theo. Từ đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân “hòa vào một”, và như thế, “bệnh” quan liêu, xa rời quần chúng cũng tự mất theo.
Quan liêu, xa rời quần chúng là một “căn bệnh” rất nguy hiểm đang tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên cần phải được “chữa” kịp thời và triệt để. Những biện pháp trên đây là rất cơ bản với mỗi tổ chức cơ sở đảng, nhất là chi bộ, nơi cán bộ, đảng viên trực tiếp sinh hoạt và công tác cần đặc biệt coi trọng việc nâng cao chất lượng quản lý, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, đảng viên; nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình, phê bình, tự rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi người. Đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ với nhân dân để thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

NHẬN DIỆN BỆNH QUAN LIÊU, XA RỜI QUẦN CHÚNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, giải quyết mối quan hệ cốt lõi và mật thiết giữa dân với Đảng. Chính quá trình đó cũng đã xây dựng nên quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân; trong đó, cán bộ, đảng viên của Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Cũng vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người cán bộ, đảng viên là phải giữ mối liên hệ mật thiết, thường xuyên với nhân dân. Chỉ có như vậy, cán bộ, đảng viên mới học hỏi được nhân dân, được nhân dân yêu quý, đùm bọc, giúp đỡ để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình, đảm bảo cho Đảng ta thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Ngược lại, nếu quan liêu, xa rời quần chúng sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường, làm cho cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất, không xứng đáng với vai trò lãnh đạo và càng không làm tròn “sứ mệnh” là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, không hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi giải quyết mối quan hệ này ở không ít cán bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền còn có biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng - một căn bệnh hết sức nguy hiểm trong nội bộ Đảng.
Biểu hiện của “căn bệnh” này được thể hiện ở cả suy nghĩ, thái độ, hành vi và việc làm cụ thể ở một số cán bộ, đảng viên. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đánh giá: thời gian qua, có những cán bộ thiếu kiểm tra, đôn đốc, không sâu sát, nắm chắc tình hình cơ sở, vì thế mắc vào “bệnh” xa quần chúng, bàn giấy,… dẫn đến lý luận suông, xây dựng kế hoạch thực hiện không sát với thực tế. Đó còn là biểu hiện ở cách làm việc quan cách, cửa quyền, hách dịch, thiếu dân chủ, theo kiểu đóng cửa làm kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo, hoặc chỉ biết mệnh lệnh hành chính, không làm cho dân hiểu, dân theo, gây bức xúc, giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, v.v. Điều này diễn ra khá phổ biến ở cách làm việc của cán bộ khi giải quyết các vấn đề về đất đai, đền bù giải tỏa,… dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài ở nhiều địa phương trong thời gian qua. Đó còn là thái độ thờ ơ, vô cảm, tắc trách, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi quyền lợi chính đáng của nhân dân; thấy những việc có hại đến nhân dân vẫn làm ngơ, không giải quyết, hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Thậm chí, những ý kiến đúng, nêu rõ vấn đề thì họ dìm đi, làm cho dân chúng nghi ngờ, thậm chí bất mãn, không ủng hộ,… dẫn đến thất bại.
Căn bệnh nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân; chưa nhận thức và giải quyết thấu đáo quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữa cán bộ, đảng viên và quần chúng. Tuy nhiên, cũng có một số cán bộ, đảng viên, tuy nhận thức đúng vấn đề, thấy rõ những nguy hại của căn bệnh đó, nhưng do thiếu bản lĩnh và sự rèn luyện thường xuyên, sa vào chủ nghĩa cá nhân, dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực ở các cấp còn thiếu chặt chẽ, làm nảy sinh nạn chạy chức, chạy quyền, tham ô, lợi ích nhóm, thậm chí tự cho phép mình cái quyền “làm quan cách mạng”, đứng trên nhân dân,… cũng là một trong những nguyên nhân của bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, cán bộ, đảng viên của Đảng nếu không được giáo dục, tổ chức tốt và không tự tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên thì sẽ dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân. Do vậy, kịp thời phát hiện và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo về sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân đối với cán bộ, đảng viên và sự nghiệp cách mạng của Đảng. Người coi: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”; “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”. Cán bộ, đảng viên, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, khi nhiễm “thứ vi trùng” này thì khó tránh khỏi sa vào hủ hóa, tự cao, tự đại, kiêu ngạo, thu vén lợi ích riêng; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, coi khinh, coi thường quần chúng. Điều đó nguy hại khôn lường, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng.
Để xứng đáng vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta thường xuyên chú trọng xây dựng, chỉnh đốn, chăm lo rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì thế, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Những năm gần đây, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét, nhất là trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, được nhân dân tin tưởng và đồng thuận. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã không đủ sức đề kháng để chống lại chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Viện vào cớ ấy, các thế lực thù địch đã ra sức “khuếch đại”, xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng. Vì vậy, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cần kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng bằng các giải pháp đồng bộ, với tinh thần đấu tranh đến cùng.

CẦN PHẢI PHÂN BIỆT RÕ AI LÀ BẠN, AI LÀ THÙ

Chủ nghĩa Mác – Lênin dạy chúng ta rằng: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bạn, bớt kẻ thù”. Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong “Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận”, Bác nói cuối tháng 8 năm 1962, Báo Nhân dân đăng trên số 3081, ngày 31 tháng 8 năm 1962.
Lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước đã nhắc nhở dân tộc ta phải kiên định thực hiện nhất quán quan điểm “thêm bạn, bớt thù” và được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới với việc đổi mới tư duy từ “bạn và thù” sang “đối tác và đối tượng” - cái mới, bước đột phá khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta trong đổi mới, hội nhập quốc tế. Từ những vấn đề rất cơ bản có tính định hướng về “đối tác, đối tượng”trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991), được bổ sung, phát triển thành quan điểm trong Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh ”. Đây chính là điều kiện, tiền đề quan trọng để Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đạt được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa chiến lược, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục để bộ đội nhận rõ “đối tác, đối tượng”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và làm đúng nghị quyết; có thái độ phân biệt đúng, sai, bạn, thù đúng đắn, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

LỰC LƯỢNG THAM GIA PHÒNG, CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH HIỆN NAY

Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ta về phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình"; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đều xác định, lực lượng tham gia nhiệm vụ trên ở nước ta hiện nay gồm: Một là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; hai là hệ thống các nhà trường trong cả nước; ba là các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn; bốn là hệ thống các cơ quan báo chí của Trung ương, của các địa phương, các cấp, các ngành.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ xây dựng các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch hoạt động, đấu tranh trong hệ thống tổ chức của mình. Đồng thời trực tiếp tuyên truyền, giáo dục cho các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân hiểu rõ về bản chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tác hại của nó đối với xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tính cấp bách và ý nghĩa chính trị-xã hội to lớn của việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Hệ thống nhà trường ở nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trước hết đối với thế hệ trẻ của đất nước. Thực tế cho thấy hiện nay, các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nảy sinh ngay từ thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên. Không ít những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đã thâm nhập trực tiếp vào các nhà trường, vì vậy, các nhà trường phải vừa trang bị tri thức, giáo dục hình thành phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam mới, vừa kết hợp ngăn chặn các nguồn gốc, nguy cơ, tác nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong học sinh, sinh viên.
Các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu các công trình khoa học các cấp, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" nhằm cung cấp những luận cứ khoa học giúp Đảng xác định những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh hiệu quả; đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo lý luận và thực tiễn, biên soạn những chuyên đề chuyên sâu, sách chuyên khảo, tham khảo cho các chủ thể, các tổ chức, các lực lượng trong triển khai phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. 
Với ưu thế mạnh mẽ của mình, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình có tiềm lực to lớn trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy bản thân các cán bộ, phóng viên, biên tập viên của các cơ quan thông tấn, báo chí cần phát huy vai trò, thế mạnh của mình trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua các tác phẩm báo chí về chủ đề này. Các cơ quan báo chí cần huy động các nhà nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia, nhà giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên... để tạo lực lượng rộng rãi, chuyên sâu cùng đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt  Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình, thể hiện bản chất tốt đẹp của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,  phục vụ lợi ích của dân tộc, đã quản lý đất nước, làm tròn trọng trách mà nhân dân giao phó, được lịch sử ghi nhận, nhân dân tin tưởng, thế giới ngưỡng mộ.
Trong thực hiện chức năng đối nội
Trên lĩnh vực kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Việt Nam đạt những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên. Nhờ đó, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi dẫn đến niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố; uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng cao.
Trên lĩnh vực chính trị, Nhà nước ta đã đạt được thành tựu quan trọng về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền con người, nhất là vấn đề quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được xác lập và thực thi trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 khẳng định nhất quán quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đồng thời, thể hiện đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật…
Trên lĩnh vực xã hội, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục…  Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng tôn giáo ngày càng hoàn thiện được bảo đảm trong thực tiễn… Đó là điều đáng mừng. Bởi, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là đúng đắn, bảo đảm sự phát triển bền vững, mang lại công bằng cho người dân.
Trong thực hiện chức năng đối ngoại
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế, đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 nước; trong đó, 3 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện. Đồng thời, tham gia nhiều tổ chức quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới, điển hình như: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO), Diễn đàn hợp tác Á–Âu (ASEM)… Điều đó, không chỉ khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Tuy nhiên, Nhà nước ta cũng thẳng thắn thừa nhận còn nhiều hạn chế trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế, nhất là tình trạng tham nhũng trong một bộ phận cán bộ, công chức, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Những tồn tại đó, hiện đang được Đảng, Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh, khắc phục với quyết tâm chính trị cao và đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Việc điều tra, đưa ra xét xử công khai các vụ án tham nhũng gần đây là một minh chứng. Qua đó, góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn sinh động trên đã khẳng định, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đủ năng lực để quản lý, tổ chức, xây dựng đất nước phát triển; và chỉ có Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc mới đem lại dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cho nhân dân, tất cả vì nhân dân phục vụ, chứ không thể là nhà nước nào khác.

BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA LÀ KHÔNG THAY ĐỔI

Các nhà kinh điển Mác – Lênin chỉ rõ, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và nó chỉ ra đời từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp; giai cấp nào thì nhà nước đó, hay nói cách khác: nhà nước mang bản chất của giai cấp sinh ra nó và phục vụ lợi ích của giai cấp ấy. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị bóc lột lại luôn tìm cách che đậy, xuyên tạc bản chất giai cấp của nhà nước. Trước những biến đổi, thích nghi của nhà nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, các học giả tư sản càng ra sức tuyên truyền quan điểm: nhà nước tư bản hiện đại đã thay đổi bản chất, đã khắc phục được hạn chế của nhà nước “cổ điển” trước đây để trở thành nhà nước phi giai cấp, “siêu giai cấp”, “nhà nước phúc lợi chung”, “nhà nước nhân dân tự do”, … thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của xã hội và bảo đảm được phúc lợi cho mọi người. Những quan điểm đó đã không phản ánh đúng bản chất vốn có của nhà nước tư sản mà còn che đậy, xuyên tạc bản chất đích thực của nhà nước; lừa bịp quần chúng nhân dân, làm chệch hướng mục tiêu đấu tranh giai cấp, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước, giai cấp thống trị.
Tại sao có thể khẳng định như vậy? Vì, trên cơ sở phân tích một cách lô-gic và khoa học, khách quan về tính tất yếu sự ra đời của nhà nước, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, nhà nước mang bản chất của giai cấp sinh ra nó; công cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị, áp bức các giai cấp khác trong xã hội. Ph. Ăngghen viết: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không có nhà nước phi giai cấp, nhà nước chung chung của mọi giai cấp, mà nhà nước luôn mang bản chất, phục vụ cho giai cấp sinh ra nó.
Nhà nước tư bản chủ nghĩa là công cụ duy trì nền thống trị của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao động, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Điển hình như ở Mỹ hiện nay, từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt các chính sách, như: Luật cải cách thuế và quy định hủy bỏ một phần Đạo luật Chăm sóc y tế giá rẻ (Obamacare),… đã làm cho bất công xã hội gia tăng khi chỉ làm lợi cho những người giàu và siêu giàu, còn những người nghèo và trung lưu thì càng nghèo đi. Ngoài ra, với việc đảo ngược hàng trăm văn bản dưới thời kỳ Tổng thống B. Obama về môi trường, năng lượng, các chính sách mới của ông Trump được cho là phục vụ những ông chủ doanh nghiệp giàu có, đặt lợi nhuận lên trên yếu tố môi trường, an toàn cũng như sức khỏe của người dân. Do đó, không chỉ là thu nhập giàu nghèo, văn hóa, ý thức hệ, nước Mỹ còn đang chứng kiến sự chia rẽ về tôn giáo, sắc tộc,… khi tâm lý thù địch, chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, phân biệt chủng tộc,… có xu hướng gia tăng nhiều nơi ngay trên đất Mỹ. Thượng nghị sĩ Bernie Sanders và 18 chính trị gia khác đã công bố thư ngỏ kêu gọi hành động để giảm mức chênh lệch giàu nghèo “đáng tủi hổ” ở nước Mỹ. Các chính trị gia này cũng đồng ý với nhận định của Liên hợp quốc, rằng: 1.500 tỷ USD giảm thuế của chính quyền Trump “hoàn toàn chỉ làm lợi cho người giàu, trong khi đẩy dân nghèo lún sâu vào cảnh khốn cùng”.
Như vậy, dù có che giấu dưới những hình thức tinh vi và bị khúc xạ qua những “lăng kính” như thế nào đi chăng nữa thì bản chất của nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng không hề thay đổi, vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Khẳng định vấn đề này để thống nhất nhận thức rằng: bản chất giai cấp của nhà nước là nhân tố quan trọng, quyết định đến đường lối xây dựng đất nước, mang lại sự công bằng, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, chứ không phải “nhà nước nào, chế độ nào cũng được”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn, đang xây dựng là chế độ ưu việt, hơn hẳn nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dùng để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2018

HÀNH ĐỘNG BIỂU TÌNH TRÁI PHÉP, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG CẦN ĐƯỢC NGHIÊM TRỊ

Sau những hành động kích động biểu tình, gây rối trật tự công cộng, thậm chí là tấn công nhằm vào trụ sở chính quyền của các phần tử quá khích bị tổ chức phản động lôi kéo, xúi giục, tôi nhận thấy những hành động này cần phải nghiêm trị để làm gương, răn đe.
Từ những lời lẽ của những kẻ phản động, chúng ta nhận thấy rõ, đây không chỉ là hành động kêu gọi, xúi giục người dân tụ tập, biểu tình trái phép mà chúng còn hướng dẫn cách chống lại cơ quan chức năng. Rõ ràng, hành động này là gây rối trật tự công cộng và gây ảnh hưởng tới an toàn của xã hội, nhất là vào thời điểm người dân Việt Nam được nghỉ Tết Độc lập.
Hành động gây rối trật tự công cộng vừa xảy ra mới đây tại Bình Thuận chính là minh chứng rõ ràng. Những kẻ phản động đã lôi kéo người dân tham gia biểu tình trái phép và sau đó là tấn công trụ sở bộ máy chính quyền địa phương. Hành động của các phần tử gây rối không chỉ gây nguy hiểm đến tính mạng lực lượng thi hành công vụ mà còn phá hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân. Sau khi lực lượng chức năng vào cuộc, những phần tử cầm đầu, gây rối bị bắt, chúng khai nhận bị xúi giục, dụ dỗ từ các tổ chức phản động ở nước ngoài. Đó là bài học nhãn tiền đối với chúng ta.
Chính vì thế, cơ quan chức năng các cấp cần có chế tài nghiêm khắc hơn để xử lý và ngăn chặn những kẻ phản động lôi kéo, xúi giục nhân dân, đặc biệt trên mạng xã hội. Với những đối tượng cầm đầu, trực tiếp tham gia hoạt động gây rối, bạo loạn, cần xử công khai, thông tin rộng rãi để mọi người dân đều biết. Đó là biện pháp cứng rắn, nhưng cần thiết để đập tan âm mưu của những phần tử phản động và khiến chúng không còn tơ tưởng tới việc sử dụng biểu tình, gây rối để phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam và chống lại chính quyền nhân dân.

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LỜI XÚI GIỤC, KÍCH ĐỘNG CỦA CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG

Trong suốt chiều dài của lịch sử, dân tộc ta đã phải đương đầu với những kẻ thù xâm lược hùng mạnh, nhưng lòng yêu nước nồng nàn đã đưa dân tộc Việt Nam đoàn kết chiến thắng mọi kẻ thù, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ như ngày hôm nay. Đảng, Nhà nước ta luôn ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng lòng yêu nước của lớp trẻ hôm nay. 
Tuy nhiên, thời gian qua, một bộ phận giới trẻ đã thể hiện lòng yêu nước của mình một cách chưa đúng do chưa được trang bị những kiến thức pháp luật cần thiết. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch đã kích động, lôi kéo một bộ phận người trẻ tham gia những việc làm trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc. Qua bài báo “Mọi “kịch bản” biểu tình phi pháp đều thất bại trước khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam" đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 27-8, chúng ta càng hiểu rõ hơn về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam và hiểu rõ hơn vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với việc chống "nhiễm độc" cho bản thân và xã hội... Bởi, lòng yêu nước tích cực chỉ phát huy hiệu quả khi được thể hiện đúng cách, đúng chỗ và đúng pháp luật. 
Thiết nghĩ, yêu nước là phải ra sức thi đua học tập, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn biết đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, chia sẻ và có trách nhiệm với cộng đồng xã hội. Yêu nước không chỉ nói là đủ mà cần hành động, nhưng hành động phải đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cùng với đó, mỗi người dân Việt Nam, nhất là người trẻ tuổi phải luôn giữ vững lập trường trước các vấn đề lớn của đất nước; đồng thời có thái độ kiên quyết, rõ ràng trong đấu tranh với những biểu hiện chống phá của các thế lực thù địch.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN NHỮNG THÀNH TỰU VÀ NỖ LỰC ĐỔI MỚI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM

Có thể nói rằng, việc nhiều người dân cũng như dư luận xã hội quan tâm đến những đổi mới của lĩnh vực giáo dục nói chung, chương trình cải cách giáo dục và sách giáo khoa nói riêng, là điều bình thường, vì sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Người dân lo toan đến giáo dục là lo toan đến vận mệnh đất nước. Thế nhưng, cần tỉnh táo nhận diện, phân biệt đâu là những ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm, vì lợi ích chung; đâu là ý kiến đội danh “phản biện” mà “biện” thì ít, còn “phản” thì nhiều! Mặt khác, khi nhìn nhận, đánh giá về vấn đề giáo dục rất cần có thái độ thận trọng, khách quan và cái nhìn biện chứng, khoa học.
Ví như khi nhận định về tài liệu TV1-CNGD, không nên và cũng không thể chỉ lấy một phương pháp đánh vần mới, không giống cách đánh vần truyền thống, rồi đưa ra hai thái cực, hoặc là phủ nhận hoàn toàn, hoặc là ủng hộ tuyệt đối. Về vấn đề này, đại diện lãnh đạo Bộ GD&ĐT đã khẳng định, tài liệu TV1-CNGD về cơ bản bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) cấp tiểu học. Tài liệu này là một trong những phương án để các địa phương lựa chọn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình GDPT hiện hành, nhất là với học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, sẽ không mở rộng triển khai chương trình để giữ ổn định cho đến khi thực hiện Chương trình GDPT mới được triển khai từ năm học 2019-2020.
Mặc dù cơ quan chức năng đã thông tin chính thức như vậy, nhưng một số người coi việc đánh vần “lạ” theo tài liệu TV1-CNGD như là cái cớ để “xới tung” một vấn đề không mới, nhưng lại ẩn chứa những dụng ý chính trị cũ rích khi cho rằng, giáo dục Việt Nam “rối rắm vì thiếu triết lý”, lại “không cải tiến được vì không có làn gió mới, máu mới vào nền giáo dục”, rồi từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục, xuyên tạc bản chất của nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã được bao thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục bền bỉ vun trồng, bồi đắp suốt 73 năm qua.
Thực tế, nền giáo dục Việt Nam luôn vận động theo sự phát triển của xã hội. Việt Nam đã tiến hành ba lần cải cách giáo dục (các năm 1950, 1956, 1981) cho phù hợp với từng thời kỳ lịch sử và đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đang được triển khai tích cực với những bước đi, giải pháp phù hợp.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia giáo dục, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng từ năm 2013 đến nay, nhiều đổi mới trong ngành giáo dục có tín hiệu khả quan. Việc triển khai chương trình GDPT mới đang đi đúng lộ trình. Theo kế hoạch đề ra đến năm học 2019-2020, chương trình GDPT mới sẽ được triển khai ở bậc tiểu học, bắt đầu từ lớp 1. Đến nay, đã có 24 trường đại học thí điểm tự chủ. Một trong những thành tựu của ngành giáo dục thời gian qua là chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững, nổi bật là các đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic quốc tế hằng năm đều đoạt giải cao...
Theo báo cáo được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 15-3-2018, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. WB gọi Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục. 
Nỗ lực vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục
Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là giáo dục Việt Nam chỉ có những thành tựu, mà cũng đang phải vượt qua những thách thức không nhỏ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đã nhận thấy những bất cập, hạn chế của ngành giáo dục cần phải khắc phục, đó là: Chương trình học có môn còn quá tải; phương pháp dạy học còn thiên về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tính tích cực của người học; việc kiểm tra, thi cử còn nặng về điểm số dẫn tới áp lực cho học sinh; giáo dục đại học chưa đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước…
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực giáo dục, tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GD&ĐT. Từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kỳ họp của Quốc hội đã góp ý, thảo luận sôi nổi về việc sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học hiện hành để sớm thông qua vào kỳ họp gần nhất. Động thái này của Quốc hội cũng không ngoài mục đích tạo ra “cú hích” mới, động lực mới thúc đẩy sự phát triển giáo dục nước nhà trong thời gian tới.
Giáo dục liên quan đến mọi người, mọi nhà và ảnh hưởng mật thiết đến sự ổn định, phát triển của quốc gia. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về giáo dục rất cần phải được xem xét toàn diện, thấu đáo ở mọi khía cạnh, đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa những thành quả đổi mới đã đạt được và những sức ỳ, lực cản trong lộ trình đổi mới cần phải khắc phục. Không nên lấy một vài cái sai đơn lẻ trong hoạt động giáo dục hay những vấn đề đang còn tranh luận để phủ nhận những nỗ lực đổi mới giáo dục cũng như những thành quả giáo dục của Việt Nam trong những năm qua. Vì điều đó làm tổn thương đến tình cảm, niềm tin, tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm cao cả của hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên và hàng vạn cán bộ quản lý giáo dục đang lặng thầm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.

CẢNH GIÁC ÂM MƯU GẮN VẤN ĐỀ GIÁO DỤC VỚI MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ

Nguyên cớ khởi đầu từ một clip đăng trên trang mạng xã hội quay cảnh một người được cho là giáo viên tiểu học đang hướng dẫn phụ huynh cách dạy con lớp 1 đánh vần theo cuốn Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) của một giáo sư. Một câu chuyện giảng dạy theo phương pháp mới tưởng như bình thường, nhưng nó bị đẩy lên quá mức làm “nóng” dư luận. Nhân cơ hội này, một số người vốn có cái nhìn định kiến, cực đoan và những kẻ có tư tưởng cơ hội chính trị, bất mãn, thù hằn với chế độ Việt Nam đã cố tình làm to chuyện, phức tạp hóa vấn đề, thậm chí gắn vấn đề giáo dục với vấn đề chính trị với những toan tính xấu.
Không chỉ đưa ra các nhận định đầy miệt thị, ác ý như: “Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay thất bại vì tư duy tiểu nông, vì bóc ngắn cắn dài”, “Giáo dục Việt Nam trong 30 năm qua không chỉ rối loạn bởi các đề án hoang tưởng tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng mà còn đối diện với cuộc khủng hoảng suy đồi đạo đức nghiêm trọng khiến niềm tin vào những gì được gọi là “cải cách” sụp đổ”; có người còn đưa ra cái gọi là “kiến nghị” rằng: “Nếu không làm được một bộ sách giáo khoa cho ra hồn, giải pháp khả thi là mua một bộ sách giáo khoa của Anh, Mỹ về cho các cháu học, cháu nào học được thì học mà không học được thì dịch ra tiếng Việt mà học”(!). Rồi một số người lại đề xuất cái gọi là “khuyến cáo”: “Những thiên thần vô tội không nên và không thể tiếp tục bị đem ra làm vật hy sinh cho các tranh cãi liên miên về cải cách giáo dục và chương trình-sách giáo khoa hay các thử nghiệm cải cách thi cử”. Họ còn lên tiếng lu loa: “Ý thức hệ giáo điều trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường vẫn gây nên sự ngộ nhận chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cải cách khiến cho mục đích giáo dục thiếu tính thực tế, sai với lẽ tự nhiên”(!)...
Trước đó, lợi dụng những sai phạm xảy ra ở Hội đồng thi Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ba tỉnh: Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình, một số ý kiến cũng tỏ thái độ hằn học khi cho rằng “gian lận thi cử ở Hà Giang là bi kịch từ lỗi hệ thống”; “sự thối nát của nền giáo dục Việt có căn gốc từ thể chế chính trị”(!).
Những lời lẽ trên cần phải phê phán, bác bỏ vì nó đã được nhìn nhận qua “lăng kính màu đen”, đánh đồng hiện tượng với bản chất, lợi dụng vấn đề giáo dục để đan cài mục đích chính trị thiếu lành mạnh.
Về những sai phạm trong kỳ thi THPT quốc gia ở ba tỉnh nêu trên, ngay sau khi xảy ra vụ việc, những người gây ra sai phạm đã bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam vì đã phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ. Những bài thi, thí sinh được nâng điểm thi qua quá trình thẩm định chặt chẽ đã bị hạ điểm thi theo đúng quy chế. Có thể nói rằng, sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương, quyết liệt của các cơ quan chức năng góp phần nhanh chóng làm sáng tỏ vụ việc để dư luận xã hội hiểu đúng tình hình; tin tưởng vào việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia ngày càng được bảo đảm nghiêm túc, chặt chẽ hơn.

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG: "TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ GẶP MAY"


Những kẻ núp bóng ngoại bang như những thành phần cơ hội chính trị trong chính phủ Trần Trọng Kim đều có quan điểm này. Cái gọi là chính phủ này được gọi là thành lập trong thời điểm mà phát xít Nhật đã cơ bản thất bại trên mặt trận Thái Bình Dương. Và những thế lực cơ hội chính trị ở Việt Nam lúc bấy giờ đã phải tháo chạy khỏi Việt Nam nhưng bây giờ thì nhờ CIA bơm thổi, chúng lại bắt đầu quá trình trở cờ nhằm phục hồi thanh thế mà trước đó, chúng cùng với ngụy quyền Sài Gòn đã không thế “giành được trái tim của quần chúng”.
Xét theo sự mô tả lịch sử lúc bấy giờ trong “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng Trường Ba Đình ngày 2-9-1945 rằng “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” thì đó là sự phản ánh đúng thời thế lịch sử khi đó.
Nhưng lực lượng nào đã làm nên cuộc cách mạng đó. Những kẻ chuyên “bám gót thực dân”, “theo voi hít bã mía” thực dân đế quốc luôn tâm niệm trong đấu chúng giá như không có chủ nghĩa phát xít Hitler và nếu không có Liên Xô thì bây giờ chúng đã có “biệt thự” trên… “mặt trăng”. Đây có lẽ là ước mơ cao nhất hiện tại nhưng chưa chắc đã là ước mơ cao nhất của những kẻ đó trong tương lai.
Bọn sử gia cơ hội chính trị theo gót các thế lực phản động thù địch cố gắng che lấp và xuyên tạc quá trình tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời bơm thổi cho các thế lực cơ hội chính trị được các thế lực chính trị nước ngoài bợ đỡ như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt .v.v… .Tuy nhiên, như sự thật lịch sự đã khẳng định. Nhân dân Việt Nam đã chọn con đường theo Đảng, theo Việt Minh. Tại sao vậy?
Tất cả là ở chỗ chính Đảng Cộng sản Việt Nam thánh lập từ năm 1930 đã luôn đứng về phía những người cần lao, cùng khổ, đã luôn đấu tranh để bào vệ cho những người lao động. Trong suốt 15 năm trước Cách mạng tháng Tám, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đấu tranh giành độc lập thật sự cho Tổ Quốc mà không bị bất cứ một thế lực ngoại bang nào chi phối. Điều đó đã được chứng minh từ năm 1945.
Vì thế, những chiêu bài tuyên truyền chính trị thông qua cái gọi là những nghiên cứu lịch sử hòng phục hồi những “thây ma chính trị” như Bảo Đại, Trần Văn Chương (bố vợ Ngô Đình Nhu), Nguyễn Văn Xuân, (sĩ quan người Việt mang quân hàm thiếu tướng quân đội thực dân Pháp ngày 8-10-1947), Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát (anh cả cố giáo sư Phan Huy Lê).
Trên thực tế thì Đảng Cộng sản Việt Nam (có lúc mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã tự mình tiến hành cuộc đấu tranh trường kỳ suốt 15 năm ròng kể từ khi thành lập mà không hề dựa vào bất kỳ một thế lực ngoại bang nào. Trong khí đó thì Quốc dân Đảng Việt Nam vì bảo vệ nội bộ kém nên bị địch chui vào lũng đoạn và kết cục là bị tiêu diệt cả ban lãnh đạo. Những phần tử cơ hôi chính trị của Việt Nam Quốc dân Đảng đã tháo chạy sang Trung Quốc và bị nước ngoài sử dụng như tay sai của mình. Theo gót Việt Nam Quốc dân Đảng, những phần tử cô hội chính trị tự lập ra các đảng phái này nọ cũng nương nhờ vào các thế lực ngoại bang mà tồn tại. Điều đó không hề có ở Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên giành độc lập, chủ quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp. Trong cuộc cách mạng mang tính lịch sử toàn cầu này không có dấu hiệu của bất cứ một thứ Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt nào trong các sự kiện đấu tranh chính trị cũng như đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Nhưng bọn cơ hội chính trị "đục nước béo cò" thì lúc nào cũng có, và việc chúng có mặt đòi chia phần thành quả của Cách mạng Tháng Tám cũng không phải là điều lạ.
Cách mạng Tháng Tám là cả một sự tính toán chiến lược đối với một dân tộc tuy có bề dày lịch sử chống ngoại xâm nhưng thực lực thì còn rất non yếu. Trong điều kiện hoàn cảnh ấy, chỉ có thể dựa vào thời cơ, tranh thủ thời có trong điều kiện “Pháp chạy. Nhật hàng”. Những phần tử phản đông mang danh Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt đừng nên hối tiếc làm gì bởi các ông là những kẻ hèn nhát, ngồi bàn chuyện chính sự salon thì giỏi nhưng cấm dám ló mặt ra trận tiền. Và giờ đây, hậu duệ của các ông cũng có một đám các con cháu “chém gió thành bão” trên Facebook đấy. Hậu duệ của các vị quả là quá "vẻ vang" vì đã dùng “hỏa lực mồm” để có thành tích “đánh giặc mồm”.

XÚC PHẠM LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH LÀ XÚC PHẠM TỚI TÌNH CẢM VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Mới đây, trên trang danlambao, Le Nguyen đã đăng tải bài viết “Giải mã tư tưởng Hồ Chí Minh với ngôn ngữ dân dã đời thường” với nội dung xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Không khác so với hàng loạt bài viết mà hắn đã từng đăng tải trước đó, bài viết bày của Le Nguyên vẫn là một mớ hỗn độn của những thứ ngôn từ thô tục, ngông cuồng, xuyên tạc một cách trắng trợn, thô bỉ về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mỗi chúng ta ai cũng đều biết, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh bắt đầu lấy tên Hồ Chí Minh từ tháng 8/1942 và Người đã sử dụng tên đó cho suốt quãng đời hoạt động cách mạng sau này. Tên của Người mang hàm ý về tình người, ý chí và trí tuệ, đó cũng chính là tâm nguyện, là hành trang mà người mang theo khi dấn thân vào con đường cách mạng. Và sự thật, suốt cả cuộc đời mình, Người đã tận tâm, tận hiến cho nhân dân, cho đất nước, cho dân tộc với một ý chí kiên cường, một trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp và một trái tim nồng ấm tình người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng ngời sáng cho đạo đức, nhân cách của người cộng sản: Dĩ công vi thượng, tuyệt đối không mảy may nghĩ đến lợi ích của bản thân mình. Tấm gương, công lao của Người đã được các thế hệ người dân Việt Nam mãi mãi khắc sâu, ghi nhớ, biết ơn.
Vậy mà, Le Nguyên đã dùng những lời lẽ thô tục và vô liêm sỉ nhất để xuyên tạc về tên và cuộc đời cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Cái thứ mà hắn gọi là ngôn ngữ dân dã đời thường thực chất là cách bẻ chữ, lái chữ một cách hết sức vô học, nhảm nhí. Cả bài viết, Le Nguyen hầu như không có một câu một chữ nào cho ra dáng một người có học thức, lễ độ và lòng tự trọng. Vẫn biết, còn có nhiều kẻ như hắn muốn chống đối Đảng, chống đối sự nghiệp cách mạng mà nhân dân ta xây dựng, muốn hạ bệ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhưng nếu hắn và đồng bọn vẫn còn sử dụng những bài viết nhảm nhí kiểu như thế này thì chỉ giúp cho mỗi chúng ta nhận ra rõ hơn sự dốt nát và bản chất vô đạo đức của chúng mà thôi.
Với mỗi người dân Việt Nam, kẻ nào xúc phạm lãnh tụ Hồ Chí Minh chính là xúc phạm vào tình cảm, vào niềm tin của chính họ. Chính vì thế, nếu không dừng lại ngay những bài viết kiểu như thế này, Le Nguyen sẽ vĩnh viễn đóng lại cánh cửa để quay trở về với đồng bào, với nhân dân, với Tổ quốc mình. Chúng ta sẽ không dung thứ cho sự xuyên tạc, vu khống vô liêm sỉ này thêm một lần nào nữa./.

“PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI” - LUẬN ĐIỂM PHẢN KHOA HỌC, PHẢN ĐỘNG

Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá Việt Nam; chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chuyển hóa về chính trị đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong chiến lược “phá hoại nhiều mặt” hay “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch bao giờ cũng tập trung chống phá quân đội. Sự chống phá của các thế lực thù địch đối với quân đội trên nhiều mặt, với nhiều nội dung, trong đó chống phá về chính trị được đặt lên trước và là một nội dung trọng tâm, trọng điểm.
1. Trong nhiều năm nay, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, cổ súy cho việc chuyển giao quân đội về nhà nước, để nhà nước quản lý quân đội. Thực chất của quan điểm này của chúng là tước bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Các thế lực thù địch đã và đang rêu rao cái gọi là “quân đội của quốc gia”, “quân đội mang tính dân tộc”. Chúng thực hiện việc rao giảng vấn đề này bằng lối triết tự theo cách ngụy biện rằng, tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam đã xác lập danh tính quân đội là của quốc gia Việt Nam, do đó quân đội mang tính dân tộc. Thực chất của quan điểm này là phủ định nguyên lý và làm “lu mờ” bản chất giai cấp của quân đội, xóa bỏ bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta.
 3. “Quân đội nhà nghề” - đó là sự “mong muốn” của các thế lực thù địch đối với quá trình xây dựng, phát triển của Quân đội ta. Ẩn ý đằng sau cổ súy cho quân đội nhà nghề là sự mong muốn của các thế lực thù địch về một quân đội “đứng ngoài chính trị”, “quân đội trung lập”.
Quân đội ra đời gắn với sự ra đời của nhà nước, vì thế không thể có việc quân đội “đứng ngoài chính trị”, “quân đội trung lập”. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản”.
Ý đồ thâm độc của quan điểm “quân đội nhà nghề” là muốn tước bỏ hệ tư tưởng Mác - Lênin, Hồ Chí Minh, phủ nhận mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Quân đội ta. Quan điểm “quân đội nhà nghề”, về thực chất là sự phủ định bản chất giai cấp của quân đội, xóa mờ bản chất giai cấp công nhân, làm lu mờ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội của Quân đội ta. Cần nhận thức rõ rằng, việc cổ súy cho xây dựng “quân đội nhà nghề” là nhằm tạo ra “vỏ bọc” cho việc chuyển hướng xây dựng quân đội mang bản chất giai cấp công nhân sang quân đội mang bản chất giai cấp tư sản. Các thế lực thù địch mượn cớ xây dựng “quân đội nhà nghề” để làm chuyển hóa tính chất chính trị - xã hội của Quân đội ta.
4. Xâu chuỗi quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch cho thấy tính chất phi lý, ngụy biện nhưng vô cùng hiểm độc của chúng. Trong các luận điệu của mình, các thế lực thù địch không trực tiếp bàn về vấn đề lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, về bản chất giai cấp công nhân của quân đội, về việc quân đội đứng ngoài chính trị, quân đội trung lập mà mượn cớ “bàn về đổi mới xây dựng quân đội”, “nghiên cứu học tập mô hình xây dựng quân đội hiện đại” để tạo dựng dư luận xã hội, dư luận quân nhân về những vấn đề cốt lõi trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Chúng mong muốn rằng, dư luận xã hôi, dư luận quân nhân về các vấn đề đó ngày một dâng cao, tạo áp lực xã hội để thay đổi cách thức lãnh đạo, phương thức xây dựng quân đội. Chúng cũng mong muốn rằng, với nội dung, cách thức tuyền truyền “mập mờ trắng đen”, như là những “làn gió thổi qua” sẽ hằng ngày hằng giờ lay động nhận thức, thái độ, niềm tin, tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội, trong quân đội.
Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng. Trong cuộc đấu tranh phòng chống “phi chính trị hóa quân đội” cần có những tổ chức, các phương thức theo dõi, nắm bắt được, nắm bắt trúng các quan điểm, thủ đoạn, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch ở từng thời điểm. Quá trình xây dựng quân đội về chính trị đòi hỏi phải thường xuyên cảnh giác, chủ động và có phương thức khoa học - thực tiễn đập tan mọi quan điểm chống phá mặt chính trị - xã hội đối với Quân đội ta của các thế lực thù địch./.

NHẬN DIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ HỆ LỤY CỦA DI DÂN TỰ DO TRÊN ĐỊA BÀN TÂY BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Hình thành các tụ điểm dân di cư mới, cả trong và ngoài sự quản lý, kiểm soát của hệ thống chính trị ở cơ sở
Di dân dù dưới hình thái nào, theo chủ trương, kế hoạch di dân của Nhà nước, chính quyền địa phương hay di dân tự do, bao giờ cũng phải hình thành, thiết lập nơi cư trú mới ở nơi đến, dù ổn định hay tạm thời. Do đó, việc hình thành các tụ điểm dân di cư mới là một tất yếu.
Di dân tự do sự hình thành các tụ điểm dân cư mới vừa có thể nằm trong sự kiểm soát, vừa có thể nằm ngoài sự kiểm soát của cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành địa phương của các tỉnh Tây Bắc. Sự hình thành các tụ điểm dân di cư tự do chủ yếu là lấn chiếm đất công, bất hợp pháp, bất quy tắc hay cư trú ở các khu tạm bợ. Các tụ điểm dân di cư mới của những hộ/người di cư tự do chưa có hoặc không có sự quản lý của cấp ủy chính quyền các địa phương là nơi rất dễ nảy sinh tiêu cực xã hội, nơi tập trung của các tệ nạn xã hội; tranh chấp đất đai với dân chính cư. Từ đó gây khó khăn cho công tác quản lý tình hình dân cư và các hoạt động nắm bắt tình hình trật tự, trị an, an toàn xã hội của địa phương, ảnh hưởng đến sự củng cố hệ thống chính trị cơ sở, tác động tiêu cực đến hoạt động xây dựng quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Bắc.
2. Sự xáo trộn về dân cư, nảy sinh những vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội mới
Di dân, dù dưới hình thái nào cũng đều tạo nên sự xáo trộn nhất định giữa dân di cư đến và dân sở tại: tăng/giảm số dân của nơi đi và nơi đến; tăng/giảm của cung và cầu lao động, việc làm; chính sách xã hội, an sinh xã hội của địa phương bị ảnh hưởng… Đây chính là sự đa dạng và phức tạp đan xen do di dân tạo nên.
Di dân tự do là nguyên nhân chính gây thiếu đất sản xuất, phá rừng lấy đất trồng trọt, quá tải cơ sở hạ tầng điện, đường, trường trạm, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích, văn hóa, xã hội giữa các cộng đồng dân cư mới đến và các cộng đồng dân cư sở tại và ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh, chính trị trong các dân tộc thiểu số ở nơi sở tại. Công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu của chính quyền các cấp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc thực hiện các chính sách y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội. Tranh chấp đất đai cũng ảnh hưởng đến việc cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất ở cấp xã.
Di dân tự do tác động đến cuộc sống, văn hóa và phong tục truyền thống của cộng đồng một hoặc một số tộc người của cả nơi sở tại và của cả cộng đồng người di cư đến. Một đại diện Ban Dân vận Tỉnh ủy Lai Châu cho biết: “Một bộ phận đồng bào di cư tự do đã tuyên truyền đạo trái pháp luật làm phá vỡ truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc như bỏ nhạc cụ dân tộc, bỏ bàn thờ tổ tiên, đồ trang sức dân tộc,…ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự an toàn, văn hoá xã hội, sản xuất và đời sống của đồng bào sở tại”.
3. Các địa bàn có di dân tự dễ bị lợi dụng gây mất ổn định chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, cùng với những vấn đề di dân tái định cư, di dân tự do trên địa bàn Tây Bắc có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Các dòng di dân tự do thường tập trung ở các bộ phận là đồng bào tộc người thiểu số, điển hình là đồng bào tộc người H’mông. Họ di cư tự do với nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi bật là kinh tế khó khăn, tập quán du canh, du cư và bị lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lôi kéo và bị kích động di cư. 
Các tụ điểm dân di cư tự do tại Tây Bắc thường ở những vùng sâu, vùng xa như: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai. Sự có mặt của người dân di cư tự do ở những vùng này khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia. Công tác quản lý, xây dựng thì những tụ điểm dân cư mới cần được quan tâm tạo địa bàn, thế trận quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên sự hình thành các tụ điểm dân cư do di cư tự do có nhiều hệ lụy xã hội gây khó khăn việc quản lý dân cư và xây dựng quốc phòng, an ninh.
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề xã hội và hệ lụy xã hội của di cư tự do trên địa bàn Tây Bắc góp phần xây dựng chính sách quản lý dân cư nói chung và quản lý di dân tự do nói riêng ở khu vực này là một trong những vấn đề quan trọng, cấp thiết. Việc đảm bảo và ổn định dân cư góp phần vào phát triển bền vững trên vùng Tây Bắc.