Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG TÁM KHÓA XII CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÒI HỎI CỦA THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ SỰ KỲ VỌNG CỦA NHÂN DÂN

Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá, từ ngày 02/10 đến ngày 06/10/2018, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII họp Hội nghị lần thứ tám để thảo luận, cho ý kiến về: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2018, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội lần thứ XIII của Đảng; xem xét một số vấn đề về công tác cán bộ và một số vấn đề quan trọng khác.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ và trách nhiệm, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Các nội dung được thông qua tại Hội nghị đã cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng ta trong việc tiếp tục củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng của đất nước; phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển; xây dựng bộ máy Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh với việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đây cũng là những vấn đề nóng bỏng của đất nước, được cử tri và nhân dân cả nước đặc biệt quan tâm.
Những nội dung nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ tám khóa XII đã đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và những kỳ vọng của nhân dân về mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nguồn lực của biển. Đặc biệt là sự kỳ vọng của nhân dân về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ, đảng viên cấp Trung ương đến người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền cấp cơ sở, lực lượng vũ trang. Đây là nghị quyết được đông đảo nhân quan tâm và đặt nhiều niềm tin vào quyết tâm chính trị của Đảng trong xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, đề cao trách nhiệm, thực sự là “công bộc” của nhân dân.




Thứ Năm, 18 tháng 10, 2018

SỰ THẬT VỀ TIN LÀNH VÀNG CHỨ Ở TÂY BẮC

Lợi dụng tín ngưỡng để thúc đẩy các hoạt động chống phá lôi kéo trong đồng bào các dân tộc gây chia rẽ các dân tộc thiểu số với đồng bào HMông, phá hoại đoàn kết dân tộc. Thực chất Tin Lành Vàng Chứ trong dân tộc HMông là sản phẩm của sự truyền đạo trái phép trong đồng bào dân tộc Mông, là vấn đề chính trị do các thế lực thù địch tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch, nằm trong tổng thể chiến lược “diễn biến hoà bình”, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng nước ta của chúng. Đây vừa là vấn đề tôn giáo, lại vừa là vấn đề dân tộc cùng đồng thời diễn ra. Hay nói cách khác, đây là vấn đề tôn giáo diễn ra trong một dân tộc thiểu số có những đặc thù về lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán; lại vừa là sự kích động, lôi kéo đồng bào một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam được núp dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Mục đích chính trị của các thế lực thù địch trong vấn đề Tin Lành Vàng Chứ là rất thâm độc: nhằm tách đồng bào dân tộc HMông ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam, thành lập “Vương quốc người HMông”, phá hoại khối đoàn kết thống nhất dân tộc, tạo điều kiện lãnh thổ - điạ lý và chính trị - xã hội cho chúng thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.

CHÍNH SÁCH TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Ngay từ khi Đảng mới ra đời, “Chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” do chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước”[1]. Trong công cuộc đổi mới đất nước, kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” đã đưa ra 3 luận điểm mới: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài”; “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” và “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”[2]. Các luận điểm này đánh dấu bước đột phá trong nhận thức về tôn giáo, xác lập luận cứ khoa học vững chắc cho việc đổi mới chính sách tôn giáo, khơi dậy tính tích cực của quần chúng có đạo trong công cuộc đổi mới đất nước.
 Sau Nghị quyết 24, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị thể hiện sự phát triển tư duy đổi mới về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 2-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”[3]. Rõ ràng, Chỉ thị 37 không chỉ thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo mà còn khẳng định tôn trọng, khuyến khích phát huy “các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp” của tôn giáo. Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII một lần nữa Đảng ta khẳng định quan điểm tôn trọng và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo đồng thời đưa ra quan điểm “thực hiện chính sách văn hóa đối với tôn giáo” với nội dung cốt lõi là “khuyến khích ý tưởng, công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo, đồng thời khắc phục mê tín dị đoan, chống lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu”. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta đã ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, trong đó khẳng định rõ quan điểm, chính sách tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: không chỉ “tôn trọng” mà còn “bảo đảm” các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tự do theo đạo và không theo đạo, … trong khuôn khổ pháp luật. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”[4].  Điều đó, tiếp tục được Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định và chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”[5].
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện trên thực tế. Nhà nước ta đã từng bước thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, tập trung hoàn thiện pháp luật về tôn giáo theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền và phù hợp với luật pháp quốc tế. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện như: Hiến pháp năm 1992 (điều 70); Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 8/11/2012, của Chính phủ “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ... Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, những quan điểm, tư tưởng của Đảng về tôn giáo đã thể chế hóa, tạo sự đồng thuận, đồng tình của đồng bào các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận, có quyền hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Đặc biệt, trên cơ sở kế thừa, phát triển các bản hiến pháp trước đó, Điều 24, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với các nội dung chủ yếu sau:
Một là, Hiến pháp ghi nhận: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. So với Hiến pháp 1992, Điều 24 Hiến pháp 2013 đã có sự tiến bộ hơn khi đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản không phải chỉ của “công dân” mà là của “Mọi người”. Sự thay đổi này bảo đảm thực hiện quyền con người đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp ghi nhận “mọi người” sẽ bao trùm rộng hơn so với “công dân” vì trong thực tế không phải ai cũng có quyền công dân.
Hiến pháp quy định, tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là quyền theo tôn giáo mà còn có cả quyền không theo tôn giáo. Quy định như vậy một mặt là sự mở rộng hơn, làm sâu sắc thêm quyền đó, mặt khác, là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của những người không có đạo, phòng ngừa trường hợp có người vì những lý do nào đó, bị ép buộc theo một tôn giáo nào đó.
 Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, phản ánh khá rõ nét về tính dân chủ của xã hội nước ta. Việt Nam có nhiều tôn giáo khác nhau, tồn tại đan xen, tất cả đều phải bình đẳng trong mối quan hệ với Nhà nước. Hơn thế, quy định về sự bình đẳng trước pháp luật của các tôn giáo ở nước ta là một yếu tố góp phần bảo đảm sự đoàn kết giữa các đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, góp phần vào sự nghiệp đoàn kết chung của dân tộc. 
Hai là, Hiến pháp ghi nhận: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”. Điều này cho thấy thái độ cũng như chính sách dân chủ của Nhà nước ta đối với quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Coi đó là một nhu cầu và là một quyền tất yếu của người dân, Nhà nước cần phải tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện tốt nhất quyền của mình. 
Ba là, Hiến pháp quy định: Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Đây là một quy định thể hiện trách nhiệm tôn trọng quyền này đối với mọi người.  Bởi vì, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ được bảo đảm thực hiện khi mọi người trong xã hội, dù có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều không được làm phương hại đến nó. Đồng thời, quy định nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, truyền thống văn hóa dân tộc.



[1]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, H.2003, tr.45.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, H.2003, tr.46
[3] Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (tái bản có bổ sung), Nxb Tôn giáo, H.2008, tr.326
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb CTQG, H. 2011, tr.81.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016,  tr. 165.

TÔN TRỌNG VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hiện nay, ở Việt Nam quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm cả sự thừa nhận quyền tự do lựa chọn tôn giáo để theo của mọi người cũng như sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật được thừa nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, sự tự do tín ngưỡng, tự do lựa chọn tôn giáo không được cản trở đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., đến sự phát triển của đất nước, đến lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo kiểu vô chính phủ chắc chắn sẽ dẫn đến kết cục là không được tự do. Đảng và Nhà nước tôn trọng quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tuy nhiên tất cả mọi người, mọi tổ chức không phân biệt có hay không có đạo phải tôn trọng pháp luật. Các chức sắc, tín đồ tôn giáo cũng là công dân Việt Nam, phải có nghĩa vụ chấp hành luật pháp Việt Nam. Bất cứ công dân Việt Nam nào kể cả cán bộ, đảng viên, hay chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo nếu có hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm minh như mọi công dân.

TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hiện nay, “ở Việt Nam có gần 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó, có 13 tôn giáo với 37 tổ chức giáo hội được Nhà nước công nhận, cấp đăng ký hoạt động; có khoảng 24 triệu tín đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Số lượng chức sắc, nhà tu hành khoảng 83 nghìn người; ngoài ra còn có 250 nghìn chức việc trông coi việc đạo ở khoảng 25 nghìn cơ sở thờ tự”. Hàng loạt tổ chức tôn giáo được công nhận, nhiều hoạt động tôn giáo được phục hồi, hàng loạt cơ sở thờ tự tôn giáo được trùng tu, sửa chữa, xây dựng mới khang trang, hàng loạt kinh sách được xuất bản, nhiều trường đào tạo chức sắc tôn giáo được mở,... Đại bộ phận tín đồ các tôn giáo phần khởi, tin tưởng vào chính sách tôn giáo, ra sức lao động sản xuất, góp phần làm giàu cho quê hương đất nước. Đến nay, Nhà nước đã công nhận 37 tổ chức tôn giáo đủ tư cách pháp nhân hoạt động. Hơn 100.000 chức sắc và nhà tu hành đang hoạt động tại hơn 24.000 cơ sở thờ tự trên cả nước. Cả nước có 4 Học viện Phật giáo, 4 trường cao đẳng và 30 trường trung cấp Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các tu sĩ đi học tập, một số người đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về tôn giáo.
Nhiều cơ sở thờ tự của các tôn giáo được các cấp chính quyền tạo điều kiện cho xây dựng, tu sửa khang trang. Cả nước hiện nay có 14.321 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường; hàng nghìn nhà thờ, nhà Nguyện (Công giáo, Tin lành), thánh thất (Cao Đài); hàng trăm chùa, hội quán (Phật giáo Hòa Hảo), hàng chục thánh đường (Hồi giáo); hàng nghìn điểm sinh hoạt tôn giáo của đạo Tin lành được đăng ký. Số lượng chức sắc, nhà tu hành và những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp đông đảo. Số lượng chức sắc trong Quốc hội Việt Nam, khóa XIII, có 8 đại biểu; hàng nghìn chức sắc tôn giáo là Hội đồng nhân dân các cấp. Các sinh hoạt tôn giáo được tổ chức trang nghiêm, rất sôi động. Các lễ trọng, đại hội nhiệm kỳ của các tổ chức tôn giáo được tổ chức trọng thể, trang nghiêm, an toàn, với quy mô ngày càng lớn hơn. Nhiều lễ hội tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng, như Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Nôen của Công giáo và Tin Lành...  Việc xuất bản kinh sách luôn được Nhà nước ta quan tâm, hỗ trợ. Các cơ quan chức năng đã hoàn thành in 30.000 cuốn Kinh thánh bằng các tiếng Bana, Êđê, Giarai; cấp phép, xuất bản hàng nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn giáo, in Kinh thánh bằng tiếng Mông, in Kinh sách Phật giáo bằng tiếng Khơme.  

NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Các mâu thuẫn cơ bản vẫn tồn tại dưới những hình thức và mức độ khác nhau, có mặt sâu sắc hơn; đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt; những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động ly khai, can thiệp lật đổ, khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo tiếp tục diễn ra với tính chất ngày càng phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải giải quyết trong bảo vệ độc lập, chủ quyền. Trong khi đó, ở trong nước, Đảng ta chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có diễn biến phức tạp như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đe dọa sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta bằng thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm; tranh chấp trên Biển Đông diễn biến gay gắt, phức tạp, gây ra nhiều khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.

Trước những thách thức đó, cần phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện được điều đó, cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp để biến truyền thống, bản lĩnh, khí phách và trí tuệ của con người Việt Nam thành sức mạnh to lớn nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong điều kiện mới.


SỨC MẠNH TO LỚN CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC


Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc ở nước ta đã sớm đoàn kết, cố kết để chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố và phát huy nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, sức mạnh to lớn ấy, đã và đang trở thành nhân tố trực tiếp quyết định mọi thắng lợi của dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh giành và giữ độc lập, tự do, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Từ hàng nghìn năm trước, dân tộc ta đất không rộng, người không đông, nhưng luôn phải đấu tranh chống lại sự xâm lược của các thế lực hùng mạnh. Trong công cuộc dựng nước và giữ nước, tổ tiên ta đã sớm chung sức, đồng lòng, đoàn kết chặt chẽ, tạo sức mạnh to lớn để đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm lược. Đặc biệt, trong công cuộc giữ nước, đoàn kết dân tộc “cử quốc nghênh địch”, “bách tính giai binh” đã trở thành sức mạnh vô địch để chống lại kẻ thù xâm lược. Tổng kết lịch sử nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[i]. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, phát triển thêm quan hệ đoàn kết quốc tế, đem lại những chiến công hiển hách, giành và giữ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định sức mạnh vô địch quần chúng nhân dân, của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam, khi được Đảng khơi dậy, tổ chức tập hợp với tinh thần tự lực, tự cường. Và để bảo vệ thành quả cách mạng vĩ đại ấy, “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Với tinh thần ấy, sau khi giành được độc lập, toàn dân tộc ta, triệu người như một đã tiếp tục đứng lên đánh bại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi oanh liệt đó do nhiều nguyên nhân, nhưng suy đến cùng là do ý chí, sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Nhờ đó, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: kinh tế - xã hội có bước phát triển; đời sống mọi mặt của nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt; chính trị xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; thế và lực của đất nước ngày càng được nâng cao…Những thành tựu đó, tạo nền tảng để bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc.





[i] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, tr. 216, 217.

NHẬN DIỆN LỐI SỐNG THỰC DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Lối sống thực dụng là phương thức hoạt động sống của một nhóm người trong xã hội, luôn theo đuổi những lợi ích cá nhân ích kỷ, cục bộ, không thấy lợi ích chung, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài, tìm mọi cách để thu lợi cho mình bất chấp mọi thủ đoạn. Lối sống thực dụng có thể tồn tại trong một người, một nhóm người, biểu hiện ở những hành động lặp đi lặp lại nhằm vào lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt. Nó đối lập với lối sống, đạo đức cách mạng, là “kẻ thù bên trong” gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành động của mỗi người. Trong mỗi môi trường, mỗi mối quan hệ xã hội, lối sống thực dụng lại có những biến dạng khác nhau.

Hiện nay, ở nước ta, do tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhất là tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, lối sống thực dụng đã được hình thành, phát triển và từng bước len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại nhiều giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp. Có thể nhận dạng lối sống thực dụng ở nước ta qua hai đặc trưng:
Một là, chạy theo, tuyệt đối hóa cái lợi cá nhân cả vật chất và tinh thần bằng mọi thủ đoạn. Lợi ích cá nhân là yếu tố hàng đầu để thực hiện mọi hành động sống; nhưng tuyệt đối hóa nó, chà đạp lên lợi ích người khác thì đó là lề thói thực dụng. Và để đạt được lợi ích cá nhân vụ lợi, người có lề thói thực dụng không từ thủ đoạn, cách thức nào để đạt được vụ lợi đó. Do bị lợi ích cá nhân chi phối nên những người có đầu óc thực dụng thường có thói ích kỷ, dễ với mình, khó với người, hay thành kiến thù ghét với những người trung thực, đố kỵ với trí tuệ và tài năng của người khác. Họ thường xem những người thẳng thắn, cương trực là những vật cản trong việc thực hiện động cơ cá nhân ích kỷ của họ. Vì lợi ích cá nhân, họ luôn tìm cách cản trở, chèn ép, kìm hãm sự tiến bộ của người khác nhất là với những người trung thực. Với tư tưởng hẹp hòi cá nhân chủ nghĩa họ luôn gây chia rẽ, bè phái, kéo bè kéo cánh hình thành các “dây”, “ê kíp” theo mục đích riêng của họ. Vì lợi ích cá nhân cục bộ họ kích động người này chống lại người kia, nhổm này chống lại nhổm khác bằng những hành vi nhỏ nhen, xì xào, bàn tán, thêu dệt đến bịa dại kích động, nói xấu. Chính vì vậy, họ biến các quan hệ tốt đẹp giữa người và người thành quan hệ theo kiểu “tiền trao, cháo múc, “chạy”, “quan hệ”, “mua” vì lợi ích cá nhân vị kỷ mà họ sẵn sàng chà đạp lên lợi ích người khác.
Hai là, chỉ quan tâm tới lợi ích trước mắt không quan tâm tới lợi ích lâu dài. Vấn đề quan tâm của người có thói quen sống thực dụng là hiệu quả trước mắt, mọi hành vi phải cho ra kết quả cụ thể, họ sẽ được gì và mất gì. Do đó, làm gì có lợi ngay tức thì, đạt kết quả cụ thể thì họ sẽ thực hiện mà không cần quan tâm đến hậu quả lâu dài. Trong công việc luôn luôn chú ý đến mối lợi thực tế, tính toán thiệt - hơn, mất - được trong quá trình công tác....
Lối sống thực dụng hàm chứa cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Một mặt, lối sống thực dụng làm cho con người chủ động, tích cực, sáng tạo, tìm mọi cách để đạt mục đích, nhờ đó, con người trở nên linh hoạt, thực tế trong cuộc sống. Mặt khác, vì lợi ích cá nhân, con người sẽ bất chấp tất cả, sẵn sàng làm mọi việc để đạt mục đích, do đó, có thể làm cho con người trở nên bất chấp tất cả vì lợi ích của cá nhân.

CON NGƯỜI LÀ MỤC TIÊU CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, Người luôn chú ý đến mức độ mục tiêu đạt được trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Từ mục tiêu tổng quát của cách mạng là, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, phải đặc biệt quan tâm đến các mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn. Trước khi giành được chính quyền thì mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Sau khi giành được chính quyền, ngày 10-1-1946, tại cuộc họp của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”. Khi miền Bắc đi vào khôi phục nền kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào việc phải “nâng cao dần mức sống của nhân dân… đồng thời giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân”. Trong bối cảnh tập trung đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam, tại Hội nghị của Bộ Chính trị, ngày 30-7-1962, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng, để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả là do con người… Làm cho quần chúng hiểu chủ nghĩa xã hội đúng hơn. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt, thì mục tiêu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” lại ở bậc cao của thang giá trị dân tộc. Mục tiêu con người gắn chặt với chủ quyền dân tộc. Tại kỳ họp Quốc hội khóa III, ngày 10-4-1965, Hồ Chí Minh kêu gọi: Lúc này, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Ngay trong thời điểm lịch sử vô cùng khó khăn đó, phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 12, khóa III Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 12-1965, Hồ Chí Minh lưu ý: “Chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của các gia đình thương binh, liệt sỹ, đời sống của nhân dân ở các vùng bị bắn phá nhiều… những gia đình thu nhập thấp, đông con”. Và nếu tờ báo Người cùng khổ, số 1, nêu mục tiêu là giải phóng con người thì sau này bản Di chúc của Người cũng nêu công việc đầu tiên là đối với con người. Điều đó cho thấy, cái “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất cả vì con người để ứng với cái “vạn biến” của lịch sử đặt ra. Mục đích chung là giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, được sống sung sướng tự do, nhưng phải tùy theo điều kiện để tiến dần từng bước.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI

 Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một cách sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Người không dùng thuật ngữ “nhân tố con người” mà thường dùng các từ như “sức dân”, “sức người”, “tài dân”, “lực lượng của dân”… nhưng về thực chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò nhân tố con người trong cách mạng Việt Nam. Người đề cập đến nhân tố con người ở ba cấp độ là: Nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, cán bộ và mỗi một con người cụ thể – tức là nhân dân lao động (trừ bọn Việt gian, phản động). Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người sáng tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải “vài ba cá nhân anh hùng nào”. Theo Người, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, nhân dân luôn luôn đặt vào địa vị cao nhất, địa vị làm chủ trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội.Dân vừa là chủ nhưng dân vừa thực hiện công việc làm chủ, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là lực lượng, động lực vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn con người, từ việc phát huy nhân tố con người. Theo Người, một lẽ rất đơn giản dễ hiểu là vô luận việc gì, đều do người làm ra, “Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn phát triển”. Người giải thích cơ sở khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: “Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng… dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Con người đóng vai trò là động lực to lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng “dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả” “Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong” cho thấy, trong tư tưởng của Người, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của mọi nguồn lực.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhân tố con người là vốn quý nhất, là động lực vĩ đại, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả, nên phải bắt đầu từ nhân tố con người, vì con người, cho con người và trở về với con người.

GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Muốn phát huy nhân tố con người đòi hỏi Đảng, Chính quyền, mỗi cá nhân nhân phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của nhân tố con người; phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, ý chí đấu tranh để giải phóng con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”. Theo Người, người đời không phải Thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm nên phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ. Sự thông cảm, tha thứ, độ lượng, khoan dung... đã hình thành nên bao dung Hồ Chí Minh mà điều bao dung lớn nhất có thể là sự lắng nghe, tôn trọng chính kiến, tư tưởng người khác, không lấy ý kiến của mình, tư tưởng của mình để áp đặt, bác bỏ, loại trừ chính kiến, tư tưởng người khác. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên “trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận”, từ việc làm, lời nói đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu. Thương yêu vô hạn, cảm thông, tin tưởng tuyết đối vào con người, quyết tâm phấn đấu giải phóng con người trở thành tiền đề đầu tiên để có thể phát huy, huy động được nhân tố con người.
Để phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh cùng tập thể Đảng, Chính phủ đã hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội. Trong kinh tế, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến chính sách phát triển sản xuất và tiền lương phải hợp lí.Về mặt xã hội, cần thi hành một hệ thống chính sách xã hội hướng tới con người, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung.
Muốn hình thành những động cơ, mục đích đúng đắn cho con người trong hoạt động, cần đề cao chính sách vận động, tuyên truyền, giáo dục. Hồ Chí Minh khẳng định: Để cho dân tin, dân theo, dân ủng hộ, để nhân tố con người được phát huy thì phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quyền lợi của con người phải được bảo vệ mà tiền đề quan trọng nhất để những quyền lợi ấy được bảo vệ là ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật. Có hiến pháp, pháp luật nhưng điều cơ bản theo Hồ Chí Minh là phải hiện thực hoá nó qua những cuộc vận động, các phong trào cách mạng để đảm bảo quyền dân chủ, vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”, có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Hồ Chí Minh nhắc nhở: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải được quan tâm đến trước hết trong sự nghiệp trồng người bởi vì “Cán bộ là gốc của công việc”. Bên cạnh đó, Người quan tâm thường xuyên đến giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, người chủ tương lai của nước nhà.
Trong toàn bộ di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại, tư tưởng về phát huy nhân tố con người là một bộ phận đặc biệt quan trọng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Theo Người, dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả, nên phải bắt đầu từ nhân tố con người, vì con người, cho con người và trở về với con người. Vì vậy, theo Người cần đề ra hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công trong bài toán phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

TƯ TƯỞNG “DÙNG NGƯỜI” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề con người là một mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được toả sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Người. Tuy không có một tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng tư tưởng về phát huy nhân tố con người lại được thể hiện một cách đa dạng, phong phú, trở thành một tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hiện tư tưởng của Người, sự nghiệp cách mạng ở nước ta nói chung, quá trình đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc nói riêng đã và đang phát huy cao độ nhân tố con người, qua đó, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và sức mạnh của con người Việt Nam.
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của mình, trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ bản về dùng người, sử dụng và phát huy nhân tố con người với tinh thần thực sự cách mạng và khoa học. Trong những năm đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh viết một loạt bài “về việc tiếp chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”; “Thiếu óc tổ chức - một khuyết điểm lớn trong các uỷ ban nhân dân”, “Nhân tài và kiến quốc”,Sửa đổi lối làm việc”Trong bài “Tìm người tài đức” ngày 20-11-1946, với những lời lẽ rất chân thành, kính trọng, Người viết: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc chắn không thiếu người có tài có đức. Vì chính phủ nghe không thấy, thiếu không đắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân…Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng”. Theo Người, dùng người thực chất là phát huy mọi tiềm năng của nhân tố con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho khối đại đoàn kết dân tộc để giải quyết những nhiệm vụ cách mạng. Mục tiêu của dùng người là đạt tới “Nhân hoà”. Cho nên dùng người không bó hẹp ở phạm vi giai cấp, đoàn thể nhất định mà là tất cả mọi người: đàn ông, đàn bà, người già, trẻ, gái, trai, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Không chỉ người trong Đảng, của Việt Minh mà còn rất nhiều người tài đức ở ngoài, thậm chí dùng cả những người “không kháng chiến, những người “dinh tê” cũng không khinh rẻ họ, mà phải giúp đỡ cho họ tiến bộ, để họ cùng ta làm việc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương, phát huy nhân tố con người trên nền tảng dùng người tài. Người tài hay nhân tài được hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài nhỏ”; “người có danh vọng”, “người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân dân”, “người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay, người giỏi” nhưng có chung mục đích “vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào”. Đặc biệt, theo Người, dùng người phải cho đúng và khéo; giữa đúng và khéo có quan hệ chặt chẽ với nhau, đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn chế. Khéo mà không đúng thì nhất định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả “người”. Đúng là yêu cầu cơ bản đầu tiên, vì có đúng thì sẽ thể hiện khéo, chọn đúng người là thực chất của việc dùng người, là một khoa học. Khéo phải đảm bảo dẫn đến cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ thuật. Người cũng nhấn mạnh đến việc sử dụng những nhân tài ngoài Đảng; khéo kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già, thưởng phạt công minh, phải biết sử dụng đội ngũ những người có khả năng làm việc vì lợi ích chung, chứ không phải bè cánh, tụ tập quanh mình những kẻ nịnh hót, cơ hội.

SỰ CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA TƯ TƯỞNG

Sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng xây dựng  nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng trên thực tế nhiều sinh hoạt văn hóa đã trở nên đơn điệu, khuôn mẫu, nhàm chán, thiếu sức sống, thiếu sức hấp dẫn, không thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Phong trào văn hóa ở nhiều địa phương chưa đi vào thực chất, còn nặng tính hình thức. Giá trị văn hóa truyền thống trong không ít lễ hội bị hiểu sai lệch, dẫn đến những biến tướng, lệch chuẩn về văn hóa, không đúng và không phù hợp với tinh thần, bản chất giá trị truyền thống. Về nguồn lực, còn nặng về đầu tư của Nhà nước mà chưa phát huy sức mạnh kinh tế của văn hóa, chưa có những chủ trương thực sự mạnh mẽ để xã hội hóa văn hóa. Lợi dụng những tồn tại, hạn chế này, các thế lực thù địch đã thực hiện các hoạt động hợp tác, liên kết trên mọi lĩnh vực để tích cực đẩy mạnh chiến lược “ diễn biến hoà bình”, với nhiều âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm phá hoại đời sống văn hoá - tinh thần, tư tưởng của dân tộc ta. Chúng lợi dụng những sai lầm trong quản lý xã hội để kích động, thổi phồng gây mâu thuẫn trong các tầng lớp nhân dân, thực hiện truyền đạo trái phép, tạo hiềm khích gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc… Mặt khác, với các chiêu bài cam kết hợp tác đầu tư về kinh tế, các nước tư bản phát triển đang đặt điều kiện, áp đặt các chuẩn mực giá trị phương Tây vào nước ta, làm mờ đi những giá trị truyền thống và  bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Thâm độc và nham hiểm hơn, lợi dụng những hạn chế về trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn; sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức lối sống, lợi dụng các phương tiện thông tin hiện đại để ra sức tuyên truyền, thổi phồng hiện tượng tham nhũng nhằm kích động, gây mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, dùng mọi thủ đoạn tinh vi, ra sức mua chuộc, lôi kéo, tạo lực lượng đối lập ngay trong nội bộ, khoét sâu những sai lầm bên trong làm cho chúng ta “tự diễn biến”tiếp tay cho hoạt động phá hoại thực hiện mục tiêu của chúng là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… Đó là những thủ đoạn hết sức nguy hiểm của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, cần đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, ngăn chặn kịp thời.

BÁO ĐỘNG NGUY CƠ BỊ ĐỒNG HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC RẤT ÍT NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 Những năm qua, nhiều luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội các dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến văn hoá các dân tộc, nhiều giá trị văn hóa đặc sắc bị mai một, thậm chí có dân tộc ngay cả tiếng nói, chữ viết, trang phục đang đứng trước nguy cơ bị mất hẳn. Đặc biệt, đối với các dân tộc rất ít người, việc sử dụng, vay mượn ngôn ngữ của dân tộc khác đang diễn ra ở hầu hết cộng đồng. Một bộ phận lớn người dân, đặc biệt là lớp trẻ có xu hướng ngày càng ít sử dụng tiếng mẹ đẻ, thay vào đó là sử dụng ngôn ngữ của dân tộc Kinh hay các dân tộc khác trên địa bàn (tiếng H’mông, tiếng Tày, Nùng, Thái…). Nhiều dân tộc thiểu số hiện nay không còn dùng tiếng mẹ đẻ như: Người Tu Dí ở Lào Cai đã không còn nhớ tiếng mẹ đẻ và chuyển sang nói tiếng Quan Hỏa; người Bố Y ở Hà Giang lại dùng tiếng Giáy và tiếng Tày; Người Pu Là đã chuyển sang sử dụng tiếng Quan Hỏa. Việc không còn nói được tiếng mẹ đẻ cũng diễn ra với người Cờ Lao đỏ, La Ha, Xinh Mun… Trong sinh hoạt văn hóa, các dân tộc như người Mảng, Hà Nhì, người Pù Lá... đều có nhạc cụ cổ truyền đặc trưng riêng của mình, nhưng ngày nay còn rất ít. Nhiều giá trị văn hóa, văn nghệ, làn điệu dân ca, dân vũ truyền thống của từng dân tộc theo thời gian bị mai một bởi văn hóa của các dân tộc khác hoặc bị thất truyền, lãng quên ở các cộng đồng có số dân rất ít như Brâu, Rơ Măm, Ơ đu… Các nghề truyền thống như dệt vải, thổ cẩm, đan lát… còn rất ít hoặc đã mất hẳn. Các lễ hội tiêu biểu, đặc sắc của các dân tộc ngày càng ít được tổ chức và bị mai một dần. Cộng đồng các dân tộc rất ít người tại các thôn, bản không còn lưu giữ được các lễ hội truyền thống của dân tộc mình; ở nhiều nơi, các dân tộc rất ít người chịu ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, lễ hội của các dân tộc khác sống trên địa bàn.
Kiến trúc của các dân tộc này cũng bị mai một nghiêm trọng. Người Kháng, La Ha, Xinh Mun, Mảng đang bị người Thái chi phối về văn hóa vật chất. Do ảnh hưởng của người Thái, kết hợp với ảnh hưởng của người Kinh, nên một số di sản văn hóa còn sót lại của các dân tộc ít người đang tiếp tục bị bào mòn. Ngoài ra, ở vùng biên giới Việt - Trung, yếu tố “Hán hóa” cũng thâm nhập vào các bản làng của người Phù Lá, Bố Y, Cờ Lao, Pu Péo. Đồng thời, đồng bào ngày càng ít sử dụng trang phục truyền thống, nhất là nam giới; chỉ có một số ít nữ giới sử dụng trang phục truyền thống hàng ngày, số còn lại chuyển sang mặc theo trang phục của các dân tộc có số dân đông trên địa bàn, hầu hết các hộ gia đình chuyển sang sử dụng trang phục của người Kinh, nhất là lớp trẻ. Sự giao thoa, đồng hoá về văn hoá đang diễn ra ngày càng sâu sắc trên các phương diện văn hóa vật thể (nhà ở, ăn uống….) và phi vật thể (ngôn ngữ, trang phục, lễ hội…). Thậm chí, có dân tộc (như người Ơ Đu) ít tìm được các nét văn hóa đặc trưng.

TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY

Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp bảo vệ và  xây dựng  Tổ quốc. Cũng chính trong quá trình đó, nền văn hóa nước ta đã và đang có nhiều biến đổi lớn theo cả chiều hướng tích cực:
Thời kỳ hội nhập quốc tế tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa các nền văn hoá, tiếp biến các giá trị văn hóa mới, trực tiếp bổ sung, làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta từng bước tiếp cận nền văn minh thế giới với trình độ và công nghệ hiện đại, tạo cơ sở tiền đề cho sáng tạo những giá trị mới, tự khẳng định mình trên trường quốc tế. Qua tiếp xúc, giao lưu, học hỏi sẽ làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần phát triển đất nước lên một tầm cao mới, nâng vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Những giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại được kế thừa phát triển sẽ tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tiếp cận với nền văn minh trí tuệ, làm giàu tri thức, tích cực lao động, cống hiến làm giàu cho bản thân, cho cộng đồng và xã hội. Mỗi con người Việt Nam hiện nay đang có khát vọng làm giàu, xoá nghèo nàn lạc hậu, đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội, phấn đấu đưa nước ta phát triển, sánh vai các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được nâng lên tầm cao hơn, hiệu quả, thiết thực vì lợi ích và phẩm giá con người; gắn chặt yêu nước với yêu quí lao động chân chính, hiệu quả, tích cực làm giàu cho bản thân, quê hương và xã hội.
Hội nhập quốc tế giúp nâng cao trí tuệ, tâm hồn và lương tri con người Việt Nam, trực tiếp góp phần phát triển nguồn lực con người. Thông qua quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế đã phát huy tính năng động, sáng tạo và bản lĩnh con người Việt Nam trên trường quốc tế. Trên nhiều lĩnh vực, văn hóa Việt Nam đã có nhiều tìm tòi, đổi mới về nội dung phản ánh, thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức biêu đạt mới. Nhiều loại hình văn hoá và tác phẩm nghệ thuật mới đã ra đời. Những giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên, thể thao, một số loại hình văn hoá nghệ thuật và những lĩnh vực khác… càng khẳng định và chứng tỏ tiềm năng, trí tuệ của con người Việt Nam, của thế hệ trẻ, càng tăng thêm niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Một thành tựu văn hóa rất đáng kể trong thời kỳ hội nhập quốc tế là chúng ta không chỉ chú trọng bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, mà còn tiếp thu có chọn lọc nhiều loại hình, sinh hoạt văn hóa có xuất xứ từ nước ngoài. Bên cạnh tăng cường nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước ngoài như phim, ảnh, sách, băng đĩa ca nhạc và đón hàng trăm đoàn, nhóm ca sĩ, nghệ sĩ của các nước đến Việt Nam tham gia biểu diễn và giao lưu với công chúng, chúng ta cũng chứng kiến sự “bùng nổ” của rất nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa mới như các cuộc thi sắc đẹp, khiêu vũ, nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn... Nhiều lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam cũng được giới trẻ nhiệt tình đón nhận như: Ngày lễ Tình yêu (Valentine 14-2), Lễ hội hóa trang Halloween (31-10), Ngày lễ Giáng sinh (Noel 25-12)... Những hình thức văn hóa mới này làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa tiến bộ, nhân văn cả ở trong nước và nước ngoài.
Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế, những giá trị văn hóa đặc sắc được giữ vững, bảo tồn phát huy, những cái không phù hợp được cải tạo, cái lạc hậu bị thải loại. Các giá trị cốt lõi trong bản sắc văn hóa dân tộc đều được hình thành, hun đúc qua thực tiễn lịch sử, đến ngày nay nó tiếp tục được kiểm nghiệm, được nâng tầm trong điều kiện mới. Trong những năm qua, hàng loạt những hoạt động văn hoá truyền thống dân tộc được phục hồi và có bước phát triển mới. Những lễ hội dân gian của các làng quê, của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam được khôi phục và tổ chức thường xuyên, một mặt thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyên truyền giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, qua đó sáng tạo, bổ sung, phát triển nâng tầm giá trị bản sắc văn hoá, tăng cường tinh thần đoàn kết, ý thức gắn bó cộng đồng. Đặc biệt, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 10/3 (âm lịch) làm Quốc giỗ, ngày 19/4 là “Ngày văn hoá các dân tộc Việt Nam” và khôi phục việc tổ chức thường xuyên 17 lễ hội của đồng bào các dân tộc trên cả nước. Thông qua việc tổ chức các lễ hội đã góp phần giáo dục và nâng cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm cao về việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá  dân tộc, củng cố tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã tồn tại lâu đời đã từng bước được cải tạo phù hợp với nếp sống văn minh, tiến bộ. Đồng thời, nhiều phong tục tập quán lạc hậu nhất là một số tập tục của đồng bào dân tộc thiểu số được loại bỏ.  
Đặc biệt, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho văn hoá Việt Nam lan toả, nâng cao vị thế ra khu vực và thế giới, hiện đại hoá các phương tiện văn hoá thông tin trong toàn xã hội. Trong những năm qua, việc trao đổi sản phẩm văn hóa nghệ thuật với nước ngoài được đẩy mạnh, chẳng hạn thông qua các Festival quốc tế; tham gia các cuộc thi âm nhạc quốc tế; những ngày văn hóa Việt Nam tại các nước hay những ngày văn hóa nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam đã phối hợp với một số nước để tạo ra một số sản phẩm văn hóa nghệ thuật chung, thí dụ các vở kịch chung giữa nghệ sĩ Việt Nam với nghệ sĩ Mỹ, Pháp;… tác phẩm điện ảnh chung giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật,… Đặc biệt, việc khai thác một số loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc, như rối nước, đã mang lại giá trị giao lưu văn hóa và kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển, nâng cao hệ thống thiết chế văn hoá mới, góp phần xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, lưu giữ giá trị văn hoá, quảng bá  bản sắc văn hoá dân tộc với thế giới, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới làm giàu  bản sắc văn hoá dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong  hội nhập quốc tế. Hội nhập với thế giới cũng tạo điều kiện cho hình ảnh văn hóa Việt Nam tỏa sáng trên bầu trời nhân loại. Kể từ năm 1993, sau khi quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, đến nay, Việt Nam đã có 20 di sản được vinh danh. Điều đáng nói là, trong số 20 di sản văn hóa thế giới của Việt Nam được UNESCO vinh danh trong hơn hai thập niên qua, chỉ có 2 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp, còn lại là 17 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Văn hóa không chỉ là diện mạo, hình ảnh của quốc gia, mà còn là sức sống bền bỉ và sức mạnh to lớn của cộng đồng dân tộc. Các di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận đã khẳng định vị thế của Việt Nam trong làng văn hóa thế giới, làm phong phú thêm bức tranh đa sắc, những giá trị tảng nền, chiều sâu của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia và đang nỗ lực để xác lập vị trí mới trên bản đồ văn hóa khu vực, thế giới.
Không có một dân tộc nào trong tiến trình lịch sử lại không thường xuyên giao lưu, hội nhập văn hoá để làm giàu và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Mặt khác, cũng hiếm thấy nền văn hoá dân tộc nào tồn tại và phát triển chỉ nhờ “nhập khẩu” văn hoá của các nước khác mà phải có văn hoá gốc, phải từ nội lực của chính mình. Đó là vấn đề mang tính qui luật, là xu thế tất yếu khách quan quá trình phát triển văn hoá dân tộc.

PHÒNG CHỐNG SỰ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Thông qua hội nhập mở cửa, hợp tác, ký kết hợp đồng làm ăn với nước ngoài, đội ngũ cán bộ với chức trách được giao phó, thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân có trọng trách quan trọng trong nắm giữ, quyết định số lượng tài sản rất lớn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu ý chí, bản lĩnh, không đủ tỉnh táo, bị mua chuộc, tư túi cá nhân và xa rời phẩm chất đạo đức cách mạng sa ngã, gây thất thoát và thiệt hại tài sản quốc gia. Hơn nữa trong xu thế hội nhập, mở cửa việc quan hệ hợp tác làm ăn không chỉ đơn thuần về kinh tế, mà đằng sau nó là một loạt các vấn đề về chính trị, văn hoá, xã hội, nếu không có bản lĩnh vững vàng dễ mắc mưu của các thế lực thù địch. Thông qua việc ký kết hợp đồng làm ăn mà chúng đặt điều kiện, mua chuộc dụ dỗ, từ đó thổi phồng, kích động gây bè phái mâu thuẫn, mất đoàn kết trong nội bộ, qua đó hạ thấp, đi đến làm mất uy tín của Đảng trước nhân dân. Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận ngày 27-5-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong khi ở nhiều nơi, đời sống nhân dân còn khó khăn, nhiều yêu cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm, thì có những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, ăn uống chè chén bê tha; thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vén của cải của Nhà nước, của tập thể trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội”. Đây là một thực trạng gây bức xúc, bất bình trong nhân dân, một nguy cơ thực sự không nhỏ đối với sự tồn vong của dân tộc trong  hội nhập quốc tế hiện nay. Hệ quả là, trong xã hội có nhiều biểu hiện suy thoái nghiêm trọng, lệch chuẩn về nhân cách, đạo đức, lối sống. Nhiều giá trị đạo đức, quan hệ xã hội rường cột, di sản văn hóa truyền thống của gia đình, cộng đồng bị xói mòn, xóa bỏ. Đó là những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia.

CẦN LOẠI BỎ NHỮNG “LUỒNG GIÓ ĐỘC” DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

Khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, bên cạnh những “luồng gió mát”, cũng có không ít “luồng gió độc” tràn vào nước ta, cản trở sự phát triển. Lối sống, cách sống xa lạ, trái với những giá trị chuẩn mực tốt đẹp của xã hội, bất chấp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã và đang xâm nhập vào đời sống xã hội. Nhiều sản phẩm văn hoá ra đời vội vã, chạy theo lợi nhuận và hiệu quả thương mại hoặc chiều theo thị hiếu tầm thường, quay lưng lại với những giá trị tinh thần cao đẹp, tạo ra những chướng ngại cho việc nâng cao mặt bằng dân trí. Văn hoá hình chiếm lĩnh hết cả không gian và thời gian, uy hiếp văn hoá đọc, văn hoá chữ, tạo cho thanh thiếu niên sức ỳ và sự lười biếng. Nhiều người bị trói chặt vào màn hình, màn số, mải mê với thú vui ẩm thực, nhạc mới, thời trang…mà quên đi những lĩnh vực tinh thần phong phú và đa dạng có chiều sâu văn hoá. Hậu quả của những tác động tiêu cực đó dẫn tới một bộ phận trong các tầng lớp, thành phần xã hội thiên về mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên những khuôn mẫu, những giá trị đạo đức đích thực của xã hội. Không ít người trong lớp trẻ hiện nay có tâm lý học đòi cách sống thực dụng, buông thả, sùng bái đồng tiền, tiêu dùng phương Tây, quay lưng lại với văn hoá, đạo đức truyền thống. Những phong tục tập quán được coi là thuần phong mỹ tục, nay được thế hệ trẻ coi là “cổ hủ”, lỗi thời. Sự thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng và những tiêu cực khác, đã và đang ảnh hưởng, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, chủ động  hội nhập quốc tế nhưng cũng phải chủ động đấu tranh với những biểu hiện sai trái như những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc, khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Kiên quyết đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, trên cơ sở giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp bảo vệ và  xây dựng Tổ quốc. Các giá trị cốt lõi trong bản sắc văn hóa dân tộc tiếp tục được kiểm nghiệm, khẳng định giá trị bền vững và được nâng tầm trong điều kiện mới. Tuy nhiên, cũng chính trong quá trình đó, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đang bị mai một, biến dạng. Những giá trị cốt lõi, nổi trội và đặc sắc nhất trong bản sắc văn hóa dân tộc như lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, nhân ái cao cả, thương người… có vai trò và ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với lịch sử trường tồn, ổn định và phát triển bền vững của dân tộc đã và đang có dấu hiệu phai nhạt. Hiện nay, đã xuất hiện những biểu hiện về cách sống, lối sống xa lạ, trái với giá trị chuẩn mực xã hội, mưu lợi ích cá nhân, đề cao các giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần, chà đạp lên khuôn mẫu, giá trị văn hóa đích thực ở một bộ phận trong các tầng lớp, các thành phần xã hội. Đó là một trong những tác nhân dễ làm suy thoái, xói mòn giá trị cốt lõi trong bản sắc văn hóa dân tộc, dễ làm hạ thấp và đánh mất ưu thế giá trị con người Việt Nam. Hội nhập quốc tế dễ tạo ra những tác nhân làm suy giảm hệ giá trị cốt lõi trong bản sắc văn hóa dân tộc, dễ dẫn tới nguy cơ đánh mất cả một thế hệ, gây hậu quả khôn lường đối với sự tồn vong của cả một dân tộc.  Đặc biệt, là văn hóa của các dân tộc rất ít người đã và đang bị đồng hóa, ở nhiều địa bàn cư trú chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số như Trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ… nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhiều giá trị văn hóa độc đáo đang dần bị lãng quên, hoặc bị biến dạng. Thực tiễn trên là đáng báo động, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

VỀ CÁI GỌI LÀ "CHỦ NGHĨA CHIA RẼ VÀ CỰC ĐOAN THỂ HIỆN DƯỚI HÌNH THỨC CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN"

Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của Hồ Chí Minh”. Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lênin một cách vô căn cứ, vu khống, bịa đặt. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của  chủ nghĩa Mác - Lênin mà đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu huynh... Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên chia rẽ và cực đoan, phiến diện, không thể đồng nhất, lẫnlộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên thực tế, như chúng ta biết, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Về sau này Lênin bổ sung thêm: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, Mác, Ăngghen, Lênin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã đúc rút bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.

CÓ PHẢI HIỆN NAY SỨ MỆNH LỊCH SỬ THUỘC VỀ TẦNG LỚP TRÍ THỨC?

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nền kinh tế tri thức ra đời, vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng tăng. Vì vậy, có quan điểm cho rằng giai cấp công nhân hiện nay không còn sứ mệnh lịch sử nữa, mà sứ mệnh lịch sử đó đã thuộc về những người trí thức. Vậy có phải tầng lớp trí thức là giai cấp có sứ mệnh lịch sử trong thời đại hiện nay?

Chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của tầng lớp tri thức đối với đối với sự phát triển của xã hội. Họ là những người đi đầu trong việc tạo ra các phát minh khoa học, có vai trò to lớn đối với việc truyền bá tri thức cho nhân loại. Thế nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình, tầng lớp trí thức không bao giờ có thể trở thành một giai cấp trong xã hội. Họ mãi chỉ là một tầng lớp đặc biệt mà địa vị kinh tế - xã hội phụ thuộc vào giai cấp thống trị. Họ không có hệ tư tưởng độc lập và không có lợi ích đối kháng với giai cấp tư sản cho nên họ không thể dựng nên một chính đảng cách mạng và ngọn cờ cách mạng tiên phong để tập hợp quần chúng lao động để đấu tranh chống áp bức, bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng một chế độ xã hội mang lại sự tư do, bình đẳng cho tất cả mọi người.

Do đó, dù vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình họ không thể thay thế giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử trong thời đại hiện nay.