Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

Không thể xuyên tạc được sự thật


Cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khiến chính quyền Giôn-xơn phải chấm dứt ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh”, đặt ra cho quân đội viễn chinh Mỹ “một cuộc chiến tranh kéo dài không bao giờ dứt”. Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, tuyên bố “phi Mỹ hóa” chiến tranh, tức thừa nhận thất bại của “chiến tranh cục bộ”, chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Với nhóm người Việt ở nước ngoài và vài nhà văn, ký giả nước ngoài tập trung xuyên tạc về cái gọi là “Thảm cảnh tắm máu dân thường” của “bàn tay Việt Cộng”. Họ cũng đăng “tiểu thuyết” và “truyện ngắn” trên một vài tờ báo văn nghệ in giấy hoặc điện tử với thủ đoạn thường là dựa vào các “hồi ký”  hoặc sự “kẻ lại” của các tướng lĩnh ngụy quyền hay một vài chính khách trong xã hội cũ, hoặc quá khứ của chính mình. Ngoài mục tiêu chính là “tái hiện” cảnh “chết chóc thảm thương” của dân thường và “phía bên kia” (Việt Cộng), nhóm này quyết liệt phủ nhận sự thắng lợi của “Cộng sản”, coi sự kiện Mậu Thân là một “thảm bại Việt Cộng” còn ngày 30/4/1975 là “Quốc hận”, Cộng sản chỉ tạm chiếm “Sài gòn” do Tổng thống Thiệu sai lầm về sách lược… cái thâm hiểm ở chỗ văn thì hư cấu với các chi tiết, tình tiết lâm ly giả mạo nhưng lại kèm theo hình minh họa như thật nên dễ đánh lừa cảm giác người đọc: đây là sự thật! Thực tế, có “tác phẩm” được dịch ra tiếng Anh khá ầm ĩ, song chất lượng dở lại đậm tính chính trị cơ hội nên bị phản đối và nhạt dần nhưng vẫn dai dẳng sống, thậm chí lại bùng lên khi có cơ hội rồi lại tắt. Sự xuyên tạc chủ yếu tiếp nữa là khuếch đại sự sai lầm của quân ta, từ mất đoàn kết nội bộ cấp cao nhất đến sai lầm tiếp cận mục tiêu của từng trận đánh. Với nhóm người ngoài nước sự xuyên tạc lại nhằm vào sự “say máu” của “Việt Cộng”, miêu tả quân đối phương” chỉ là những “khẩu súng” biết bắn và “tàn sát”, ý đồ chung chỉ là xuyên tạc để hạ bệ uy tín những đồng chí lãnh đạo cao nhất, cũng là cách hạ bệ uy tín của Đảng và chế độ ta.
Bất kỳ ai cũng có quyền nhận thức lại một sự kiện lịch sử nào đó nhưng phải trên cơ sở tôn trọng tối đa sự thật và vì mục đích “ôn cố tri tân”, hiểu xưa để biết nay sâu sắc hơn, hiểu lịch sử để làm cho hiện tại và tương lai là một trtốt đẹp hơn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một trong những trang sử bằng vàng khắc nghi những chiến công chói lọi của quân và dân ta, những ai cố tình phủ nhận điều ấy sẽ chỉ là đường viền mờ để làm sáng thêm, nổi bật thêm hình ảnh lộng lẫy của nội dung bức tranh ấy mà thôi.

ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI


Để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, cần tập trung thực hiện một số vấn đề cơ bản như:
Phải làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, đồng thời không để cho các hệ tư tưởng thù địch, các trào lưu cơ hội, phản động, các quan điểm sai trái chi phối đến nhận thức, tư tưởng, đời sống văn hoá, tinh thần của bộ đội. Sự mơ hồ về nhận thức chính trị, dao động về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, khủng hoảng về niềm tin... đều nảy sinh, phát triển từ sự hẫng hụt về tư tưởng, từ những “khoảng trống” về ý thức hệ trong xã hội và trong quân đội. Bất luận khi nào xem nhẹ, buông lỏng công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội đều dẫn đến những hậu quả khó lường.
Thường xuyên giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách mạng, lập trường giai cấp công nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước, quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội cho bộ đội. Trong tình hình hiện nay, cần làm cho cán bộ, chiến sĩ thấu triệt, có ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Phát huy dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật trong xây dựng Quân đội. Dân chủ và kỷ luật tự giác nghiêm minh là một đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất cách mạng và là một nhân tố tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội ta. Quá trình phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển ý thức tự giác chấp hành kỷ luật của quân nhân, làm cho mọi quân nhân có niềm tin khoa học vào bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao tính tự giác chấp hành kỷ luật quân đội; trung thành với lời thề quân nhân, sẵn sàng xả thân chiến đấu, hy sinh để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ; tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; có ý chí quyết tâm cao, bền bỉ chịu đựng khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt trong chiến đấu, lao động và công tác. 
Xây dựng, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân. Đây không những là một nguyên tắc, một nhiệm vụ chính trị cơ bản, thường xuyên trong xây dựng Quân đội về chính trị, mà còn là một trong những phẩm chất cơ bản trong bản chất cách mạng của Quân đội. Muốn vậy, phải hết sức coi trọng việc giáo dục, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa đa dạng hóa các hoạt động giáo dục với việc đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức cơ bản của công tác dân vận: kết nghĩa, hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, thành lập tổ đội công tác xây dựng cơ sở, cử cán bộ tăng cường cho cơ sở.
Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.     Thực tiễn xây dựng quân đội các nước xã hội chủ nghĩa cho thấy: nếu buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì quân đội vô sản sẽ mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mất phương hướng giai cấp, dao động về chính trị, tạo khoảng trống về hệ tư tưởng, giảm sút niềm tin, nhanh chóng suy giảm sức mạnh chiến đấu và tất yếu bản chất cách mạng sẽ bị suy giảm, biến chất. Do đó, chúng ta phải đặc biệt quan tâm giáo dục cho bộ đội nhận thức rõ nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; không bao giờ, không khi nào được lơ là, sao nhãng việc củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội.

Phê phán quan điểm thực hiện thể chế tam quyền phân lập mới chống được tham nhũng


Tham nhũng đang là tệ nạn nhức nhối của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tham nhũng là sự bất công xã hội lớn, gây vô vàn tác hại cho đất nước và nhân dân, là ung nhọt cần loại bỏ.
Lợi dụng cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng còn những hạn chế, nhất là tâm trạng bức xúc của nhân dân trước nạn tham nhũng, một số người đưa ra quan niệm cho rằng “chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”. Tôi không cho là như vậy, vì đó là sự khẳng định vì đó là sự khẳng định có tính tuyệt đối hóa và cực đoan, thiếu cơ sở khoa học thực tiễn. Vì:
Thể chế “tam quyền phân lập” không ngăn ngừa được sự nảy sinh nạn tham nhũng. Trên thế giới hiện nay, các nước tư bản hầu hết vận dụng thuyết “tam quyền phân lập” trong xây dựng, tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước với nhiều biến thể khác nhau như cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, quân chủ lập hiến… Trong nhà nước tư sản hiện đại, thể chế “tam quyền phân lập” đi liền với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nên tính hình thức của phân quyền này lại che đậy được phần nào, để gây nên những ảo tưởng rằng các nhánh quyền lực này đối trọng nhau. Chẳng qua, sự đối trọng đó là sự đối trọng của các nhóm lợi ích về thực thi quyền lực nhà nước tư bản mà đại diện là các đảng chính trị tư sản, chứ không phải đối trọng về lợi ích và quyền lực thống trị của giai cấp tư sản.
Thể chế “tam quyền phân lập” không loại trừ được nguồn gốc, nguyên nhân xảy ra tham nhũng, dù nó có kiềm chế được phần nào.
Thể chế “tam quyền phân lập” không chỉ không có khả năng ngăn chặn tham nhũng xảy ra mà còn không thể là phương thức và giải pháp duy nhất để đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Thể chế “tam quyền phân lập tự thân nó không xóa bỏ được cơ cấu quyền lực, không xóa bỏ được chức vị, quyền lực của tổ chức, ca nhân trong cơ cấu quyền lực mà còn tăng thêm quyền lực cho tổ chức, cá nhân khi trao cho quyền độc lập cao hơn. Điều này tác động tiêu cực đến đấu tranh chống tham nhũng như trì hoãn, né tránh, phủ quyết các hoạt động đấu tranh chống tham nhũng khi các hoạt động đó không phù hợp với lợi ích của nhóm mình.
Cho nên, thể chế “tam quyền phân lập” không thể là cẩm nang thần kỳ mà khi thực hiện thể chế đó mới chống được tham nhũng như ai đó đã cổ súy, rêu rao.

Phê phán quan điểm sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam


Hiện nay, các thế lực thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó thủ đoạn nham hiểm, xảo quyết của chúng là tập trung vào việc xuyên tạc, chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Chính vì vậy, việc nhận biết âm mưu, thủ đoạn để chủ động đấu tranh làm thất bại “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, trọng yếu của mọi cán bộ, đảng viên của Đảng.
Bằng việc vu cáo Đảng Cộng sản “chiếm” quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị,” thực hiện sự chuyên chính của một đảng, sự thống trị quan liêu của giới thượng lưu, chúng đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân. Từ đó đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bằng luận điệu: “từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ.” Bên cạnh vấn đề “dân chủ”, chiêu bài “nhân quyền” cũng được các thế lực phản động sử dụng để tấn công vào Đảng ta. 
Đáng chú ý là, bên cạnh các thế lực thù địch từ bên ngoài, các phần tử cực đoan, một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn và một số ít cán bộ, đảng viên thoái hóa ở trong nước bị chúng “móc nối”, lợi dụng. Dù có cố tình che đậy, “nguỵ trang” tinh vi, nhưng mục đích, mưu đồ của các thế lực thù địch vẫn không hề thay đổi là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng: Công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua vẫn giữ nguyên chế độ độc đảng, kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Vì vậy, cần thay đổi Cương lĩnh của Đảng, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị “độc đảng” sang dân chủ.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường và tác động đến nước ta; tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông tiếp tục diễn ra; công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu sẽ càng làm nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp; những khó khăn, yếu kém của nền kinh tế do điểm xuất phát thấp cộng với lạm phát, suy giảm kinh tế không thể khắc phục được một sớm một chiều; sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị nhằm chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chắc chắn sẽ còn diễn ra quyết liệt. Vì vậy, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, mọi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, xác định nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi cán bộ, đảng viên chân chính.
Phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không dao động trong bất cứ tình huống nào; kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
Làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; không để xảy ra những thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý kinh tế - xã hội mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng công kích, chống phá. Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chủ động, tính thuyết phục, tính hiệu quả của công cuộc đấu tranh. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.

Phê Phán quan điểm phủ nhận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Có quan điểm cho rằng, luận điểm của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trước đây có thể đúng nhưng không còn đúng trong thời đại ngày nay. Theo họ, thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của “kinh tế tri thức”, do đó trí thức mới là lực lượng tiền phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng!
Đúng là trí thức có vai trò quan trọng trong mọi thời đại. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song, trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ: Trong xã hội, trí thức chỉ là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Nó không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do đó, trí thức không có hệ tư tưởng riêng. Nó phải phục tùng và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp nào thống trị xã hội. Do địa vị kinh tế - xã hội của nó, trí thức không thể là người lãnh đạo cách mạng; mặc dù tất cả các giai cấp thống trị trong lịch sử đều cần đến trí thức và đào tạo ra một đội ngũ trí thức của mình để thực hiện vai trò của nó đối với xã hội. Mặt khác, trí thức không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, trí thức cũng là người làm thuê và bị bóc lột, nhưng lại là tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng và có một bộ phận được chế độ tư bản ưu đãi. Trí thức không phải là tầng lớp xã hội có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Thực tế lịch sử cho thấy chưa bao giờ có một tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp để lãnh đạo một cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ này bằng một chế độ xã hội khác. Trí thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thường là của giai cấp thống trị xã hội.
Cần nhắc lại luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, mà nó còn tạo ra nhũng người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản. Luận điểm nổi tiếng đó càng trở nên có ý nghĩa trong điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh là đang làm cái việc rèn giũa vũ khí sẽ giết mình thêm sắc nhọn hơn; những người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản - giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân sẽ ngày càng nhận thức rõ hơn sứ mệnh lịch sử của mình là loại bỏ chủ nghĩa tư bản ra khỏi đời sống xã hội, xây dựng chủ nghĩa cộng sản văn minh; xác định rõ hơn con đường, biện pháp để thực hiện sứ mệnh lịch sử vĩ đại đó.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông  Âu đối với những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên thế giới quả là một thực tế nghiệt ngã và đau xót. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội bị “tiêu vong”, giai cấp công nhân đã “mất vai trò lich sử”; cũng không làm mất đi ý chí phấn đấu và niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, giai cấp công nhân có thêm những bài học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về “cách mạng phải biết tự bảo vệ”, càng nhận thức rõ hơn tính chất quyết liệt, gay go của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời đại ngày nay, càng hiểu rõ hơn những bước thăng trầm, những khúc quanh trên con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

Phê phán quan điểm: Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới giàu có và phù hợp với xu thế của thời đại


Trong thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến sự ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Mặc dù gặp phải sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, song chủ nghĩa xã hội hiện thực đã vượt lên trên những khó khăn, thử thách và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực; đồng thời đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đã làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào khủng hoảng và tạm thời thoái trào; song những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đạt được trên thực tế là không thể phủ nhận.
Kể từ đó đến nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực luôn bị các thế lực thù địch, phản động và chủ nghĩa cơ hội - xét lại ra sức công kích, xuyên tạc. Đáng chú ý là không chỉ các lực lượng đối lập mà ngay trong hàng ngũ những người cộng sản cũng có không ít người muốn phủ định học thuyết Mác-Lênin trên các vấn đề thời đại hiện nay, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ... Những biến cố to lớn của lịch sử cũn đã tác động đến tiến trình cách mạng Việt Nam, làm cho một số người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên bi quan, giao động và cho rằng: “Đi theo chủ nghĩa tư bản, Việt Nam mới giàu có và phù hợp với xu thế của thời đại”. Vậy, đây là một cách nhìn thực tế, hay chỉ là sự mơ hồ, thiển cận về lý luận và ảo tưởng trước những hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản hiện đại?
Để không rơi vào trạng thái mập mờ, bấp bênh về tư tưởng, lý luận và đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm phản động, sai trái của các thế lực thù địch về các vấn đề trên, cần phải nắm vững một số nội dung cơ bản là: Phải luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu trong hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn.
Việc giành cho được độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng một nước Việt Nam theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” luôn là khát vọng và hành động cách mạng của mọi người dân Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua. Kể từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng đến nay, những khát vọng ấy đã từng bước được hiện thực hóa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, với thái độ khách quan, nhìn thẳng vào thực tế, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong xã hội hiện nay còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, thu vén cho gia đình, dòng họ, địa phương, bạn bè thân hữu… Trong khi đó, đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nếu không khắc phục kịp thời những vấn đề trên thì tất yếu sẽ dẫn đến nhiều cái nhìn lệch lạc, tiêu cực, thiếu thiện chí về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước.

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI

Trong các thủ đoạn chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, trong đó tập trung phổ biến, tuyên truyền nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng chính trị, không còn lý tưởng và mục tiêu chiến đấu mà thực chất là nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội với tư cách là công cụ bạo lực của Đảng, Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 
Hiện nay, quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là sự lừa bịp, giả dối. Các học giả tư sản đang cố gắng nặn ra nhiều loại lý luận xuyên tạc, cố tình đánh bóng cho quân đội tư sản từ  “nhân dân mà ra” để “ngụy trang” cho quân đội tư sản trung lập với chính trị, không liên hệ gì với các đảng phái chính trị hòng chứng minh “tính đúng đắn’’ cho những cái nghịch lý mà họ đưa ra để lừa bịp con người. Nhưng cho dù bất cứ hình thức nào đi chăng nữa, thì không bao giờ và không thể có một quân đội lại trung dung, đứng ngoài chính trị. Quân đội và giai cấp luôn có mối quan hệ khăng khít, ràng buộc, quy định lẫn nhau không thể tách rời.  Chính trong tim những người đang hô vang khẩu hiệu đòi “ phi chính trị hóa” quân đội, lại là những kẻ mang đầy “dòng máu chính trị”, tham vọng nắm toàn quyền chi phối quân đội, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. 
Đối với âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch tìm mọi cách hạ thấp, hòng đi đến xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng; xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị, cùng hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan chính trị. Bên cạnh đó, họ ra sức xuyên tạc, bôi nhọ bản chất, truyền thống của Quân đội, gây mất ổn định chính trị nội bộ; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có ý nghĩa chính trị trọng đại của đất nước có lực lượng quân đội tham gia, nhằm làm mất uy tín, vị thế, vai trò của Quân đội trước nhân dân, trong xã hội và trên trường quốc tế. Mặt khác, lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đang được đẩy mạnh trong xã hội ta, các thế lực thù địch tìm cách khoét sâu các mặt tồn tại, yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước, những khó khăn về đời sống và một vài vụ, việc vi phạm kỷ luật đơn lẻ của một số cán bộ, chiến sĩ, đơn vị Quân đội để khuyến khích Quân đội từ bỏ trách nhiệm bảo vệ Nhà nước và chế độ, đồng thời vu cáo Quân đội không còn mang bản chất giai cấp công nhân. Thâm độc hơn, họ còn thực hiện các thủ đoạn tạo mối nghi ngờ, hiềm khích, gây ly gián Quân đội với các cơ quan đảng, nhà nước.
Âm mưu, thủ đoạn nhằm “phi chính trị hóa” quân đội ta hiện nay càng đặc biệt nguy hiểm. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, blog cá nhân... để tán phát, truyền bá quan điểm sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, những luận điệu này được một số hãng truyền thông phương Tây, như VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những phần tử cơ hội chính trị, cả tin, mơ hồ về chính trị tung hô, cổ súy. Mọi hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tựu trung đều nhằm vô hiệu hóa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội; làm cho Quân đội bị biến chất, mất phương hướng chính trị, suy giảm sức chiến đấu, không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa

“Diễn biến hòa bình” là một thủ đoạn phi quân sự, chú trọng chiến tranh tâm lý, đặc biệt nhấn mạnh sức mạnh của tư tưởng - ý thức hệ, trong đó chủ yếu là “mặt trận tư tưởng - văn hóa”. Chúng xác định, xâm nhập được tư tưởng - văn hóa của đối phương sẽ thu được hiệu quả phi thường. Xâm nhập tư tưởng - văn hóa, trên thực tế là mở cuộc tấn công ý thức hệ vào nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng gọi đó là “tấn công vào lòng người” để làm sụp đổ tinh thần chiến đấu của đối phương làm tan rã đối phương về nội tâm, tinh thần và tư tưởng, gây hỗn loạn về tư tưởng, gây tâm lý sợ hãi; kích động tâm trạng bất mãn, thù địch với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; truyền bá mô thức chính trị, mô thức kinh tế, quan niệm giá trị và lối sống của chủ nghĩa tư bản, khuyến khích đa phương hóa và thị trường hóa nền kinh tế.
Tác động của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay được thể hiện trên những phương diện chủ yếu sau: Tác động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sử dụng “vấn đề nhân quyền” để gây sức ép, chống phá Việt Nam. Tác động, chống phá về văn hóa. Tất cả những mũi tấn công trên nhằm thẩm thấu và phát triển các nhân tố chống chủ nghĩa xã hội trong lòng xã hội ta. Đã xuất hiện tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở một số cán bộ, đảng viên. Yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang tăng lên, đó là một nguy cơ đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta không thể xem thường.
Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản. Cuộc đấu tranh này ơt nước ta diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định với bản chất phản động, hiếu chiến đã, đang và sẽ dùng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó chống phá trên lĩnh vự tư tưởng - văn hóa ngày càng quyết liệt. Trong hàng loạt mục tiêu kẻ địch chống phá trên lĩnh vực này, thì mục tiêu chính trị, tư tưởng được xác định là khâu then chốt và là mũi nhọn tấn công chủ yếu của chúng hiện nay nhằm phá vỡ ý thức xã hội chủ nghĩa - cốt lõi của sức mạnh tinh thần, vật chất của nhân dân ta. Sự suy thoái về đạo đức, tư tưởng, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niểm tin của nhân dân.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM


Sự chủ động, tích cực trong đường lối đối ngoại ncủa Việt Nam được dư luận thế giới đồng tình và đánh giá cao. Ấy vậy mà đây đó vẫn xuất hiện những giọng điệu lạc lõng cho rằng, tư duy ngoại giao của Việt Nam đã lỗi thời và khuyến cáo rằng, đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi chính sách đối ngoại nếu không muốn bị cô lập... Thực chất của chiêu trò này không gì khác vẫn là xuyên tạc sự thật hòng làm cho thế giới nghi kỵ với Việt Nam, chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam với các nước, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ta.
Những giọng điệu ấy dù có xảo quyệt, tinh vi đến đâu đi chăng nữa cũng không thể xuyên tạc được sự thật lịch sử, không thể đánh lừa được dư luận. Thực tiễn lịch sử từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời (2-9-1945) cho đến nay, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 
Như vậy có thể thấy rõ đường lối đối ngoại rộng mở đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã được Đảng ta bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả của đường lối đó đã được minh chứng bằng thành tựu rực rỡ của công tác đối ngoại qua các nhiệm kỳ đại hội. Đường lối đó đã góp phần quan trọng tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, điều kiện thuận lợi và tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển KT, XH, tăng cường QP, AN, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đúng đắn đó, Việt Nam đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu. Đường lối đó đã khẳng định vị thế và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Sự thật rất rõ ràng vậy mà người ta vẫn cố tình xuyên tạc. Hành động xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam mà những kẻ phản động đang tiến hành là hết sức nguy hiểm. Đặc biệt giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì những hành động ấy dễ làm nhiễu thông tin, gây phân tâm, gây hiểu lầm trong quan hệ của các nước với Việt Nam, tác động tiêu cực tới niềm tin của nhân dân vào đường lối đối ngoại của Đảng. 
Sự phát triển trong tư duy ngoại giao, tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả trong đường lối đối ngoại của Đảng ta là lời tuyên bố bác bỏ mọi giọng điệu xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động, những phần tử cơ hội và bất mãn chính trị. Vấn đề đặt ra với mỗi người Việt Nam chân chính ở cả trong và ngoài nước là cùng với quán triệt, nâng cao nhận thức về đường lối đối ngoại của Đảng, phải chủ động phát hiện và đấu tranh mạnh mẽ phản bác mọi thông tin sai sự thật, những luận điệu xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển KT, XH, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới.

KHÔNG THỂ "NHẤT BÊN TRỌNG, NHẤT BÊN KHINH" TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIỂN, ĐẢO

Trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông, thời gian qua trên các trang mạng trong và ngoài nước, nhiều người đã phân tích, "thuyết phục" Đảng ta rằng, Việt Nam muốn bảo vệ được chủ quyền, an ninh biển, đảo phải thay đổi chính sách đối ngoại; phải "bài Trung", "thoát Trung"; Trung Quốc đang dùng sức mạnh "cơ bắp" để lấn lướt các nước nhỏ thì chúng ta phải liên minh với Mỹ để gia tăng sức mạnh làm "đối trọng" với Trung Quốc …
Thực chất, đây là những quan điểm thù địch, sai trái, ngộ nhận về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, chúng ta cần phải đấu tranh bác bỏ
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược quan trọng hàng đầu trên thế giới, nhất là về tài nguyên và giao thông hàng hải, hàng không đi qua khu vực này. Đổng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn. Các khái niệm "lợi ích cốt lõi", "xoay trục", "tái cân bằng" lực lượng của các nước lớn... đã phản ánh tính quyết liệt trong cuộc cạnh tranh của nhiều quốc gia, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực đó, đường lối đối ngoại của Việt Nam nói chung, chiên lược đối với Trung Quốc và Mỹ nói riêng, một mặt mở rộng tối ta quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, mặt khác cân bằng lợi ích giữa những nước lớn đặc biệt là Trung Quốc, Mỹ, Nga. Không thể "nhất bên trọng, nhất bên khinh" như một số người nghĩ.
Về chính trị trong quan hệ hợp tác, đối với các nước nhỏ, yếu (trong đó có Việt Nam) chỉ có thể lựa chọn chiến lược "duy trì môi trường hòa bình"; phản đối "sử dụng vũ lực" và "đe dọa sử dụng vũ lực"; "giải quyết các bất đng bằng biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế" (nhất Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982); "hợp tác, hữu nghị" với tất cả các nước không phân biệt ý thức hệ, chế độ chính trị-xã hội.
Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chúng ta đã giữ vững được ổn định chính trị và môi trường hoà bình để xây dựng đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia – dân tộc … Tiềm lực, vị thế đất nước được nâng cao, cho đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam là đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp; là đối tác toàn diện với Mỹ. Ngoài các quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam còn có quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác như: Ấn Độ (năm 2007), Nhật Bản (năm 2006); Hàn Quốc, Tây Ban Nha (năm 2009), Đức (năm 2011), Italia, Thái Lan, Inđônêxia, Xingapo; đi tác toàn diện với Ôxtrâylia (năm 2009); Niu Dilan (năm 2010)...
Hiện nay, Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường … Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. …Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp.
Trước bối cảnh trên, Văn kiện Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đây chính là cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để Đảng ta lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại, bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình mới; đồng thời là cơ sở khoa học để chúng ta đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch như đã dẫn luận ở trên

Giá trị trường tồn của chủ nghĩa xã hội khoa học


Bước vào những thập niên 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu - thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga sụp đổ. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Chúng cho rằng, sự sụp đổ là tất yếu bởi chế độ xã hội đó được xây dựng trên một hệ thống lý luận không tưởng, cảm tính, chủ quan, phi hiện thực. Từ đó, họ cho rằng, mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là một sai lầm, sự “ngoan cố” của những người cộng sản, là “trái với quá trình lịch sử - tự nhiên” và kết cục sẽ thất bại.
Chúng ta cần xem xét nguyên nhân thực sự dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Điểm lại sự kiện chúng ta thấy, bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu và đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Nguyên nhân sâu xa là do những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xô Viết. Sau khi V.I. Lênin qua đời, ở Liên Xô chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang mô hình kế hoạch hóa tập trung cao độ, từ bỏ kinh tế hàng hóa, phủ nhận kinh tế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính năng động, sáng tạo của người lao động. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế và hệ thống quản lý nền sản xuất xã hội dẫn đến sự thua kém trên nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng.
Như vậy, sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không phải xuất phát từ những khuyết tật do bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa sinh ra mà do những quan niệm giáo điều, ấu trĩ, tả khuynh về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, xét nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ, là do những sai lầm nghiêm trọng trong nội bộ Đảng và sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động. Trong quá trình cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự hữu khuynh, cơ hội và xét lại trong Ban lãnh đạo, mà trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất của Đảng. Từ chủ trương cải tổ về kinh tế lan sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc, tạo điều kiện cho sự bùng phát tư tưởng xét lại chủ nghĩa Mác, đào bới, xuyên tạc lịch sử, dấy lên làn sóng công khai công kích, phủ nhận những thành quả của cách mạng, loại bỏ những người cộng sản kiên trung trong bộ máy. Đây là sự phản bội chủ nghĩa Mác, sự chống phá Đảng có chủ đích từ bên trong của những người lãnh đạo cấp cao, không phải do sự lạc hậu của chủ nghĩa xã hội khoa học mang lại.

BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG LÀ “PHẢI BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ XA”


Hiện nay, trước sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tạm thời lầm vào thoài trào; chủ nghĩa tư bản và các thế lực phản động đã và đang tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đối với các nước xã hội chủ nghĩa trong đóViệt Nam là một trọng điểm chống phá. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay cần phải có sự nhận thức mới trong tư duy và hành động. Bài học kinh nghiệp từ Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa to lớn cho Đảng ta vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay.
Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã đề ra nhiều kế sách, phương thức, phương châm, một trong những phương thức, phương châm mang tính nguyên tắc được đút kết ra qua quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; tổng kết qua 30 năm đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đây là một quá trình nhận thức và hành động của Đảng qua tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh tình hình đất nước, thế giới và khu vực có nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức phức tạp và khó lường.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là sự kế thừa tư tưởng giữ nước truyền thống của dân tộc “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới,  đồng thời thể hiện tư duy, nhận thức mới của Đảng về phương thức, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, về không gian là bảo vệ từ bên ngoài biên giới lãnh thổ; về thời gian là bảo vệ, phong ngừa, chủ động từ trước, chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ trước là chủ yếu, theo phương châm không cần tiến hành chiến tranh là thượng sách.
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”… Trong bối cảnh đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quán triệt thấu suốt phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa của Đảng trong thời gian tới cần phải: Làm tốt công tác nắm, dự báo chính xác tình hình quốc tế, trong nước, nhất là những động thái mới về quốc phòng, an ninh và xu hướng phát triển của nó tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nắm vững phương châm, phương thức tiến hành bảo vệ Tổ quốc hiện nay; Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM

Người xưa có nói: “Giặc ngoài dễ chống, giặc trong khó phòng”. Chống tham nhũng là công việc khó khăn muôn phần vì đụng chạm tới lợi ích, đến quyền lực, có sự câu kết, tiếp tay, che đậy hết sức tinh vi, phức tạp. Phải thẳng thắn nhìn nhận, có những giai đoạn, chúng ta chống tham nhũng chưa như mong muốn, hiệu quả còn thấp. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, chưa khi nào, công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta được thực hiện ráo riết, quyết liệt như hiện nay. Chống tham nhũng không có “vùng cấm”, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, bất luận là ai, kể cả những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng hay can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chúng ta tiến hành chống tham nhũng toàn diện, gắn liền với tăng cường chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán và đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp, tổ chức đảng vi phạm, trong đó có cả các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng; kỷ luật cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ trang; làm nghiêm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài... Lần đầu trong lịch sử tố tụng Việt Nam, một người từng là Ủy viên Bộ Chính trị đã bị cơ quan tiến hành tố tụng truy tố và đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là việc chưa từng có trước đây. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; số vụ án lớn được đưa ra xử lý, số cán bộ trung, cao cấp bị xử lý trong 2 năm vừa qua nhiều gấp 3 lần trong 20 năm trước đó; số tiền thu lại được trong 2 năm qua nhiều gấp 40 lần trong 20 năm trước đó. Đây là những con số, minh chứng cho thấy Đảng ta “quyết tâm làm đến cùng” trong cuộc chiến chống tham nhũng, đập tan những luận điệu xuyên tạc rằng ta làm “nửa vời” hay “vẫn còn vùng cấm”. 
Chống tham nhũng cũng không hề làm thối chí hay rã đám tinh thần như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Ngược lại, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” đang được Đảng ta đẩy mạnh, vì lương tâm và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, vì sự trong sạch và thanh danh của Đảng, đang thực sự truyền cảm hứng mạnh mẽ và làm nức lòng cán bộ, đảng viên, nhân dân. Khi những tiêu cực bị đẩy lùi, chính nghĩa và sự thanh liêm được bảo vệ, sẽ thực sự dấy lên niềm tin và khí thế mới trong cả hệ thống chính trị, chuyển biến thành những kết quả tích cực trong công tác xây dựng Đảng và những tín hiệu tích cực của nền kinh tế đất nước. GDP 6 tháng đầu năm 2018 tăng 7,08%, cao nhất từ 7 năm qua... Chống tham nhũng đang thực sự là một động lực mới cho sự phát triển của đất nước. 
Rõ ràng, cam kết danh dự và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng ta, cùng những kết quả phòng, chống tham nhũng quan trọng đạt được trong thực tiễn tự nó là những minh chứng sống động và đầy sức thuyết phục đanh thép bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội.

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC CHIẾN NỬA VỜI!

Các thế lực thù địch tung thông tin trên không gian mạng hòng lung lạc niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta, với những rêu rao rằng, chống tham nhũng ở nước ta như “con thuyền không bến”, là “cuộc chiến nửa vời”, vẫn còn “nhiều vùng cấm”; và rằng, càng kỷ luật, xử lý nhiều cán bộ tham nhũng thì càng làm nhụt đi ý chí của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thủ đoạn này nhằm cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả hết sức tích cực, mang tính bước ngoặt từ công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng ta vừa qua, reo rắc tâm trạng hoài nghi, bi quan, nhất là sự thiếu tin tưởng trong dư luận xã hội, âm mưu chặt đứt cơ sở quan trọng bậc nhất để cuộc đấu tranh chống tham nhũng thành công, đó là niềm tin, sự ủng hộ và cùng vào cuộc của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. 

CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC THANH TRỪNG!

Thời gian qua, các thế lực thù địch xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội rằng, cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất chỉ là cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ giữa các phe nhóm tranh giành lợi ích, là chính “ta đánh ta”. Chúng vu cáo Đảng ta chống tham nhũng vượt trên pháp luật; kích động sự trừng phạt, trừng trị, chúng cố tình lấp liếm đi tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. 
Chống tham nhũng là công việc được Đảng ta coi trọng và thực hiện thường xuyên, nhất là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, không có đảng đối lập, không có nghĩa Đảng có thể tự bằng lòng, chủ quan, duy ý chí, chuyên quyền, độc đoán, không có khả năng nhận ra và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của mình... Ngược lại, chiến thắng chính bản thân mình bao giờ cũng là cuộc chiến khó khăn nhất! Và, một đảng “ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(3), nên Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính mình, đặc biệt tránh tha hóa về quyền lực bởi quan liêu, tham nhũng - một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Nếu dung túng những cán bộ, đảng viên, dù là cán bộ cấp cao, nhưng suy thoái về đạo đức, biến chất, tham ô, tham nhũng thì sẽ làm Đảng suy yếu từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Năm 1950, khi chuẩn y tử hình Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, do biển thủ, ăn chặn của công, dù hết sức đau xót, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”. Do đó, Đảng ta chống tham nhũng là để thanh lọc, sàng lọc cán bộ, làm trong sạch bộ máy, góp phần giữ sự xác tín chính trị, tính chính đáng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình, tuyệt nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ”, càng không phải là “cuộc đấu đá phe phái”, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, Đảng ta là một khối thống nhất ý chí và hành động. Hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất thống nhất không có đối trọng, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng - đại biểu trung thành cho ý chí và lợi ích thống nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi quyết sách của Đảng, trong đó có việc chống tham nhũng, đều vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Càng tuyệt nhiên không có các “phe nhóm” hay “phe phái” bên trong, bên ngoài Đảng hay trong hệ thống chính trị của ta, có lợi ích khác đối trọng, kìm hãm, phong tỏa hay cạnh tranh lẫn nhau, làm xé lẻ hay phân rã quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, từ đó loại trừ hoàn toàn nguy cơ xung đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu như ở các nước tư bản. Do đó, luận điệu cho rằng, tham nhũng là “chất xúc tác” làm xung đột giữa các phe phái, làm đảo lộn trật tự quyền lực và chống tham nhũng chỉ vì lợi ích của riêng Đảng, chặn xu hướng ly khai khỏi quyền lực hệ thống, quyền lực trung tâm của Đảng, là hoàn toàn phi lý và vô căn cứ, chỉ là sản phẩm của “trí tưởng tượng phong phú” của những kẻ mang thâm thù với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công bằng, khách quan theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn pháp luật, nhưng kỷ luật của Đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật. Quan điểm lấy kỷ luật đảng thay pháp luật là sự sai lệch và làm tổn thương uy tín của Đảng. “Bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng được tổ chức vào ngày 25-6-2018. Do đó, không thể có các quy định chống tham nhũng của Đảng đứng trên pháp luật, “có sự can thiệp chính trị”, “xử ép” hay “vi phạm nhân quyền”, “vi hiến” và càng không thể mượn cớ chống tham nhũng để xảo biện phải có cái gọi là “luật về đảng”(?!), vì mọi hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội đều đã được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đạo luật gốc có hiệu lực pháp lý tối cao.
Ở góc độ khác, công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tiêu cực, tham nhũng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể hiện tính nghiêm minh và tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Nó không phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, truy tìm bằng được khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị, mà là “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi dậy sự tự giác là chính. “Thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt”, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, xử lý một người để cứu muôn người, nên công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ta thể hiện bản chất nhân văn cao độ. 

BẢN CHẤT CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG PHẢI LÀ THAM NHŨNG!

Hiện nay, các thế lực thù địch xảo biện và quy chụp tham nhũng chỉ tồn tại và “nở rộ” ở chế độ một đảng cầm quyền như tại Việt Nam. Chúng cho rằng, đây là vấn đề thuộc về “bản chất thể chế”, không thể thay đổi được hoặc dù tham nhũng có ở các thể chế chính trị khác, nhưng nghiêm trọng hơn ở chế độ một đảng. Rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiệu quả thấp do thiếu vắng sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực như cơ chế “tam quyền phân lập” (?!).
Rõ ràng, mớ xảo biện hổ lốn ngụy tuyên truyền trên của các thế lực thù địch chẳng có gì khác ngoài chiêu trò lợi dụng và mượn “con bài” chống tham nhũng để chuyển sang chống phá về tư tưởng và chính trị! 
Đảng ta lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn bị để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, với những bước đi chắc chắn, bài bản và lâu dài. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, tính tối cao của pháp luật trong hoạt động của nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, sự kiểm soát quyền lực... Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hài hòa hóa nguyên tắc tập quyền và phân công, phân cấp, vừa tập trung quyền lực để quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất, vừa có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hạn chế sự lạm quyền và tha hóa quyền lực. Dùng kỷ luật đảng, sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sự giám sát xã hội, phản biện xã hội và sức mạnh của dư luận rộng rãi để đấu tranh chống tham nhũng.
Nhà nước ngày càng tiến hóa và văn minh hơn nên cơ chế phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tham nhũng ngày càng hiệu quả hơn. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền chính là thành quả của văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và là một phương thức quan trọng chống nạn tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước pháp quyền cũng có những thất bại của nó, cho nên không thể ảo tưởng rằng chỉ xây dựng nhà nước pháp quyền thì tự nhiên tham nhũng bị đẩy lùi hay xóa bỏ. 
Đương nhiên, tham nhũng không phải là một hiện tượng tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. C. Mác cho rằng, đích cuối của lịch sử nhân loại là chủ nghĩa cộng sản, cùng với sự thiết lập xã hội không giai cấp, nhà nước “tự tiêu vong”, theo đó là sự tiêu vong của tham nhũng. Đó là lý tưởng cao đẹp chủ nghĩa cộng sản hướng đến. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng xã hội mới theo lý tưởng cộng sản, phải trải qua những bước quá độ, nhất là trong điều kiện phải sử dụng một số yếu tố tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, nên tất yếu khiến cho quá trình khắc phục hiện tượng tham nhũng còn là một cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, cam go, phức tạp.


CÓ PHẢI CƠ CHẾ “TAM QUYỀN PHÂN LẬP” LÀ PHƯƠNG THUỐC CHỐNG THAM NHŨNG?

Hiện nay, trên các phương tiện truyền thông, nhiều kẻ vẫn lu loa luận điệu rằng, chỉ ở chế độ chính trị một đảng mới có tham nhũng. Chúng lớn tiếng ca ngợi sự mẫu mực của các nước tư bản trong chống tham nhũng và cho rằng, chỉ nhà nước pháp quyền tư bản và cơ chế “tam quyền phân lập” mới chống tham nhũng hiệu quả từ gốc hay thể chế dân chủ tư sản đã là một cơ chế tự thân để phòng và chống tham nhũng. Thực tiễn chính trường và xã hội tư bản vẫn đầy rẫy những vụ, việc tham nhũng đình đám, không khó để điểm mặt chỉ tên những vụ, việc này ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức..., dù chúng biến tướng ngày càng phức tạp, được chính giới và tài phiệt tư bản cấu kết che đậy hết sức tinh vi. Tham nhũng là “khối u ác tính” không thể cắt bỏ trong xã hội tư bản và nó đẩy các mâu thuẫn bản chất không thể hóa giải trong xã hội tư bản lên càng cao, dù rằng nhà nước tư bản có gắng gượng cải tổ đến đâu. Tại Hàn Quốc, đất nước tiêu biểu cho chế độ đa đảng và “tam quyền phân lập”, tình trạng tham nhũng hiện nay vẫn diễn ra hết sức nhức nhối. Theo Ủy ban Phòng, chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc (ACRC), trong vòng 10 năm (từ năm 2008 đến 2017), ACRC đã tiếp nhận tới 32.306 tố cáo tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra, thẩm tra 1.615 vụ. Tháng 3-2017, bà Park Geun Hye trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của Hàn Quốc bị phế truất vì cáo buộc tham nhũng 55,2 triệu USD liên quan tới các tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này, như Samsung, Lotte... và đang phải thụ mức án 24 năm tù. Rõ ràng, cơ chế “tam quyền phân lập” không phải là phương thuốc thần diệu kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng được triệt để! 

THAM NHŨNG TỒN TẠI CÙNG VỚI CHẾ ĐỘ TƯ HỮU

Tham nhũng là khuyết tật “bẩm sinh” của quyền lực, một hiện tượng xã hội gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của nhà nước. Nó là căn bệnh đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị. Khi còn nhà nước và quyền lực chính trị thì tất yếu còn tham nhũng. Thể chế chính trị khác hay giống nhau không thể là lằn ranh ngăn cản sự xuất hiện của tham nhũng hay quyết định tham nhũng nhiều hay ít. Tham nhũng xuất hiện và tồn tại được nhờ môi sinh là chế độ tư hữu. C. Mác viết, chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa (tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844) và ở đó, giai cấp tư sản với “lòng tham vô đáy” công nhiên tư lợi, biến mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội tư bản thành một mối quan hệ duy nhất là lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” (tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản), nơi nhà tư bản sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ, thậm chí không còn tội ác nào là nó không dám phạm (tác phẩm Tư bản). Chế độ tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, từ trong bản chất của nó, chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất là môi trường lý tưởng hơn hết để tham nhũng xuất hiện và phát triển.





SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ VỚI “CON ĐƯỜNG THỨ BA”

- Về triết học và chính trị: Những người xã hội dân chủ (XHCNDC) tán thành các nguyên tắc phát triển không dựa trên quan niệm duy vật mà “để ngỏ về thế giới quan". Họ phủ nhận quan niệm phát triển biện chứng và theo đuổi quan niệm phát triển cải lương với sự lựa chọn chính trị đa nguyên do sự đa dạng của các quan hệ sở hữu, cơ cấu xã hội và quan hệ kiến trúc thượng tầng. 
Còn "con đường thứ ba" thì cho rằng, cùng với việc số lượng giai cấp công nhân giảm sút nhanh chóng và thế giới hai cực mất dần; việc phân chia địa vị nổi bật của chính trị theo quan điểm giai cấp và truyền thống tả - hữu đã yếu đi. Trong tình hình đó, về chính trị "con đường thứ ba" chủ trương, một mặt, phải phê phán quan niệm chính trị đối lập hai cực tả và hữu trong xã hội tư bản, coi giai cấp là cơ sở đoàn kết, để chuyển sang quan niệm lấy lực lượng trung gian làm hạt nhân. Mặt khác, phải thực hiện cải cách nền chính trị của các chính đảng, làm cho nền chính trị thoát khỏi truyền thống chỉ phục vụ một số lực lượng chính trị nào đó; từ đó hình thành trung tâm chính trị có thể đoàn kết các lực lượng chính trị, các tổ chức xã hội. 
Vì thế, "con đường thứ ba" tán thành tính độc lập tự chủ các hiệp hội, đảng phái chính trị trong một nhà nước pháp quyền tự do. Xã hội dân sự, theo họ, có quan hệ song không đồng nhất với nhà nước; do đó dân chủ xã hội cũng không đồng nhất với dân chủ chính trị, quyền công dân không đồng nhất với quyền con người; các đảng chính trị không đại diện lợi ích giai cấp, mà đại diện lợi ích của các tầng lớp, nhóm phái, vùng lãnh thổ trong xã hội dân sự. 
- Về hệ tư tưởng: những người XHCNDC nhấn mạnh "phi ý thức hệ" để hướng vào hoàn thiện đạo đức, luân lý của con người cùng các quan hệ nhân đạo, văn minh giữa người với người. Từ những năm 1990, Quốc tế XHCN không ít lần "tuyên bố các nguyên tắc", ví dụ về toàn cầu hóa, CNXH thị trường, CNXH sinh thái...; và trình bày nhiều giá trị cơ bản của CNXH như dân chủ, tự trị, nhân quyền, bác ái, phúc lợi, công bằng,... nhất là hai giá trị bình đẳng và hiệu quả. Tư tưởng “con đường thứ ba“ cũng theo đuổi quan niệm tương tự.
- Về tư tưởng kinh tế: Những người XHCNDC truyền thống và tư tưởng “ con đường thứ ba “đều phủ nhận quan điểm mác-xít về các quy luật phổ biến trong CNTB; phủ nhận sự tập trung hóa trong nông nghiệp; còn theo họ, trong công nghiệp và thương nghiệp, quá trình tập trung hóa diễn ra chậm chạp, gián tiếp qua nhiều khâu trung gian với nhiều nhịp cầu nhỏ. Họ thừa nhận nhiều loại sở hữu, trong đó nổi lên hai hình thức: tiểu chủ tự do và sở hữu cổ phần.
- Về cơ cấu xã hội: Theo những người XHCNDC và cả “con đường thứ ba” thì ở phương Tây đã diễn ra sự vượt qua cơ cấu xã hội - giai cấp của thế kỷ XIX, và đã chuyển sang cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, với sự đa dạng, đan xen của các nhóm xã hội - dân tộc, tôn giáo, giới, thế hệ và các nhóm lợi ích.
Rõ ràng, một cách chung nhất, "Con đường thứ ba" thực chất là nhằm vào giữa quan điểm chính trị "tả" và "hữu" trong nội bộ xã hội TBCN phương Tây. Mục tiêu chính trị của "con đường thứ ba" do các đảng dân chủ - xã hội Tây Âu đưa ra là tìm kiếm một con đường trung gian giữa chủ nghĩa tự do mới và "Nhà nước phúc lợi chung" của các đảng dân chủ - xã hội trong nội bộ chế độ xã hội tư bản.