Thứ Năm, 20 tháng 12, 2018

CƠ SỞ THỰC TIỄN PHẢN BÁC LẠI QUAN ĐIỂM CHO RẰNG QUÂN ĐỘI CHỈ BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Quân đội tư sản, bất chấp thành phần xã hội như thế nào, đều là công cụ để duy trì quyền lực chính trị và kinh tế của giai cấp tư sản, là công cụ đàn áp nhân dân lao động trong nước và nhân dân các nước khác. Bảo vệ thể chế chính trị tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa là biểu hiện rõ nhất, sâu sắc nhất về bản chất chính trị của quân đội tư sản với tính chất là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp tư sản và nhà nước tư bản. Để thực hiện mục đích ấy, giai cấp tư sản đã không tiếc tiền, của để giáo dục, huấn luyện binh lính theo hệ tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản. Quân đội của nhà nước tư bản có một hệ thống đài phát thanh, truyền hình, một số lượng lớn sách báo được xuất bản nhằm ca tụng chủ nghĩa tư bản; bôi nhọ, xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Quân đội Mỹ duy trì cả một bộ máy tuyên truyền to lớn gọi là “cơ quan thông tin và giáo dục quân đội” để tiến hành công tác tư tưởng; trong các quân chủng đều có cơ quan thông tin. Ngoài việc lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ động, cơ quan này còn chuẩn bị và xuất bản những sách giáo khoa về tư tưởng, những tài liệu phát thanh, báo chí, phát hành những phim ảnh ca tụng chủ nghĩa tư bản. Quân đội Đức còn thành lập các nhà trường đào tạo những sĩ quan, hạ sĩ quan làm công tác tuyên truyền, giáo dục binh sĩ theo tư tưởng, chuẩn mực của nhà nước tư bản. Ngày 30-7-2018, Tổng thống Nga V. Putin đã ký sắc lệnh thành lập Tổng cục Chính trị quân sự thuộc Bộ Quốc phòng Nga với chức năng, nhiệm vụ là tham mưu cho Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xây dựng Quân đội Liên bang Nga về chính trị; chống lại các hành động phá hoại về tư tưởng, chính trị của các thế lực thù địch. Điều đó cho thấy quan điểm xây dựng quân đội về chính trị, tư tưởng, xây dựng mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho quân nhân được coi trọng trong xây dựng của mọi quân đội.
Luận điệu quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị, chỉ có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc còn do sự nhận thức lệch lạc của một số người không hiểu tường tận về cấu trúc thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng của các nước tư bản. Trong các nước có chế độ đa đảng, các đảng phái luôn yêu cầu quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị nhằm bảo đảm cho lượng vũ trang không nghiêng hẳn về một đảng phái chính trị nào, khi các đảng phái đó chưa giành được quyền lực nhà nước. Khi đã giành được quyền lực nhà nước, thì đương nhiên các đảng phái đó lại nắm quyền lãnh đạo quân đội, yêu cầu quân đội phải trung thành với tổng thống, thủ tướng, hoặc có thực quyền chi phối đảng cầm quyền. Trung thành với nhà nước, tổng thống, chính phủ, về thực chất là trung thành với đảng cầm quyền; bảo vệ nhà nước, bảo vệ tổ quốc cũng chính là bảo vệ đảng, chế độ chính trị của quốc gia đó. Do vậy, dù hiến định hay không hiến định trong hiến pháp, không có nghĩa quân đội của các nước đó trung lập, đứng ngoài chính trị như một số người lầm tưởng.
Quân đội nhân dân Việt Nam có mục tiêu cùng toàn Đảng, toàn dân giành độc lập dân tộc, đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ và lệ thuộc vào ngoại bang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, Quân đội ta là lực lượng nòng cốt đã đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Thử hỏi, nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam, không có Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, giáo dục và rèn luyện thì tương lai dân tộc đi về đâu? Thiết nghĩ, đây là một câu hỏi rất dễ trả lời, một sự thật hiển nhiên. Thế nhưng, nhiều người vẫn cố tình không hiểu. Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần nhận được câu hỏi của các tướng lĩnh và giới nghiên cứu quân sự thế giới rằng, vì sao Quân đội nhân dân Việt Nam, từ không một tấc sắt trong tay, lại đánh thắng hai đế quốc to trong những cuộc chiến tranh không cân sức? Đại tướng đã khẳng định: Sẽ không tìm được câu trả lời cho câu hỏi này, nếu không nhìn vào chiều dày lịch sử dân tộc và đường lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghĩa là không thể hiểu được bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam và cả sự sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì độc lập dân tộc, nếu không đặt trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam. V.I. Lênin đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: giai cấp vô sản muốn là giai cấp thống trị và nếu nó thực sự thống trị, thì nó phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình. Không có một quân đội trung lập, quân đội đứng ngoài chính trị, chỉ có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dù cho quân đội đó là của giai cấp nào, phục vụ cho thể chế chính trị nào, ở những thời điểm lịch sử nào. Quân đội bao giờ cũng là của một giai cấp, một nhà nước nhất định, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của giai cấp, nhà nước đó.

CƠ SỞ VỀ PHƯƠNG DIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI PHẢN BÁC LẠI QUAN ĐIỂM CHO RẰNG QUÂN ĐỘI CHỈ BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Về phương diện lịch sử - xã hội, bất kỳ một tổ quốc nào, cũng được hình thành từ hai phương diện: tự nhiên - lịch sử và xã hội. Về phương diện tự nhiên - lịch sử, tổ quốc gắn liền với lãnh thổ cư trú của các cộng đồng người trong lịch sử, bao gồm: vùng đất, vùng trời, vùng biển, đảo... Về mặt xã hội, tổ quốc bao giờ cũng gắn với một thể chế chính trị nhất định, đại diện cho xu hướng phát triển của tổ quốc đó. Lịch sử Việt Nam và thế giới chứng minh rằng, không có và không thể có một tổ quốc chung chung, trừu tượng, mà bao giờ cũng gắn với một thể chế chính trị nhất định, cho dù đó là thể chế chính trị nào, phục vụ quyền, lợi ích của giai cấp nào. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như bất cứ một quân đội nào trên thế giới đều có chức năng bảo vệ Tổ quốc. Đây là một sự thật hiển nhiên, không bàn cãi. Nhưng nếu quan niệm bảo vệ tổ quốc chỉ là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia để rồi kết luận Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (phương diện tự nhiên - lịch sử), chứ không có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa là một sự sai lầm tai hại cả về phương diện học thuật lẫn phương diện chính trị, xã hội. Dẫu đó là vô tình hay cố ý thì cũng đã cổ súy cho những luận điệu sai trái, phản động nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta.
Trên một phương diện cao hơn, bảo vệ tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với bảo vệ thể chế chính trị của tổ quốc ấy, không có bảo vệ tổ quốc chung chung, phi lịch sử, phi giai cấp. Trung thành với tổ quốc, trung thành với hiến pháp cũng chính là trung thành với thể chế chính trị đó. Ở Thái Lan, khi các cuộc biểu tình, xung đột giữa phe “Áo vàng” (PAD) và “Áo đỏ” (UDD) từ năm 2006 - 2011 làm cho nước này lâm vào khủng hoảng chính trị, quân đội đã đứng về phía chính phủ, trấn áp những người biểu tình ủng hộ ông Thaksin, lập lại trật tự xã hội. Năm 2013, khi chính trường Thái Lan trở nên bất ổn, Tướng Prayuth Chan-ocha đã đứng ra làm cuộc “đảo chính” lật đổ Chính phủ của bà Yingluck Shinawatra, lập lại trật tự, kỷ cương xã hội. Thực tế đó cho thấy, quân đội không chỉ bảo vệ tổ quốc, mà còn bảo vệ cả thể chế chính trị đã tổ chức, nuôi dưỡng nó. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục, rèn luyện; vậy tại sao chỉ cần trung thành với Tổ quốc mà không cần trung thành với Đảng - người đã sáng lập ra Quân đội đó? Quan điểm chỉ bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ Đảng - với tính cách là người đại diện cao nhất của thể chính trị đó là một sự bịa đặt trơ trẽn, một lập luận vô nguyên tắc, phi hiện thực.

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHẢN BÁC LẠI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHO RẰNG QUÂN ĐỘI CHỈ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Lịch sử nhân loại đến nay đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội, và ngày nay đang quá độ sang hình thái kinh tế - xã hội thứ tư - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có ba hình thái kinh tế - xã hội (chiếm hữu nô lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa) gắn liền với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Tương ứng với nó là các kiểu tổ chức ra các lực lượng vũ trang (quân đội, cảnh sát) nhằm phục vụ cho thể chế chính trị tương ứng với các kiểu nhà nước đó. Rõ ràng, ngay từ khi mới xuất hiện (trong xã hội chiếm hữu nô lệ), dù hình thức tổ chức còn rất giản đơn, với những vũ khí, trang bị hết sức thô sơ, nhưng quân đội đã gắn bó chặt chẽ với giai cấp, nhà nước và là công cụ của giai cấp, nhà nước nhằm phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của chính giai cấp, nhà nước đó. Điều đó có nghĩa không và không thể có quân đội đứng ngoài giai cấp, nhà nước, mà chỉ là công cụ bạo lực của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra nó mà thôi.
Trong xã hội hiện đại, bất kể là nước lớn hay nhỏ, phương Đông hay phương Tây, không có quốc gia nào không do một đảng chính trị cầm quyền, dù quốc gia đó tồn tại ít đảng hay nhiều đảng. Vì thế, khi xem xét một xã hội ít hay nhiều đảng, không nên nhìn một cách đơn giản về số lượng các đảng phái trong quốc gia đó. Ở Mỹ hiện nay, ngoài hai đảng thay nhau cầm quyền là đảng Dân chủ và Cộng hòa, vẫn tồn tại nhiều đảng phái khác nhỏ hơn. Nhưng thử hỏi các đảng phái đó thuộc giai cấp nào, đại diện cho quyền lợi của giai cấp nào trong xã hội, nếu không phải là giai cấp tư sản? Tương tự như vậy, ở Đức là đảng CDU và SPD… ở Pháp là đảng Xã hội và Cộng hòa,… ở Anh gồm đảng Bảo thủ, Công đảng, Đảng Dân chủ tự do, v.v. Gần ta nhất, có Thái Lan gồm hai đảng lớn là đảng Dân chủ (phe Áo vàng) và Pheu Thai (phe Áo đỏ)... Nhưng thử hỏi các đảng phái đó có đại diện cho những người lao động, người công nhân? Các đảng phái đó phải chăng không nắm quân đội, với tính cách là công cụ bạo lực phục vụ mục đích của mình?
Rõ ràng, không có và không thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng chính trị cầm quyền, dù đảng ấy là đảng nào trong xã hội tư sản. Ở một số quốc gia, quân đội còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương nhiên cũng là người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền). Điều II, khoản 2 Hiến pháp Mỹ ghi rõ: “Tổng thống là Tổng Tư lệnh các lực lượng Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ và lực lượng dự bị ở một số bang”. Đồng thời, quy định rõ khi nhậm chức, Tổng thống phải tuyên thệ: tôi xin thề khi thực thi quyền hạn của Tổng thống sẽ tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người và công dân, tuân thủ và bảo vệ hiến pháp, bảo vệ chủ quyền, độc lập, an ninh và toàn vẹn của quốc gia, trung thành phục vụ nhân dân. Điều 3 Hiến pháp Cộng hòa Pháp ghi rõ: “Chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện chủ quyền của mình thông qua đại diện và thông qua con đường trưng cầu ý kiến nhân dân. Không một cá nhân hay nhóm người nào được giành quyền thực hiện chủ quyền quốc gia”. Như vậy, không có bất kỳ một cá nhân, tổ chức xã hội nào tự cho mình quyền thay đổi hiến pháp. Thế nhưng, thật đáng tiếc, lợi dụng chính sách tự do ngôn luận của Đảng, Nhà nước, ở Việt Nam lại không thiếu các tổ chức, cá nhân tự cho mình có quyền tối thượng: sửa đổi Hiến pháp.

Thực tiễn cho thấy, trong các cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội xảy ra gần đây ở Trung Đông, Bắc Phi, U-crai-na, xa hơn là cuộc khủng hoảng dẫn tới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây, quân đội luôn là đối tượng để các lực lượng chính trị tranh thủ, lôi kéo, nhằm biến nó thành công cụ giành và giữ chính quyền. Ở nhiều quốc gia, khởi đầu của các cuộc đảo lộn xã hội là những cuộc binh biến. Nếu đi sâu nghiên cứu thì ở các quốc gia đó, trong hoặc đằng sau quân đội, lực lượng làm đảo chính vẫn là những tổ chức chính trị, những đảng chính trị đang hoạt động, cùng sự can thiệp của những lực lượng chính trị từ bên ngoài, nhằm định hướng cuộc binh biến theo các “giá trị” của họ.

PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM CHO RẰNG QUÂN ĐỘI CHỈ CẦN TRUNG THÀNH VÀ BẢO VỆ NHÂN DÂN, TRUNG VỚI ĐẢNG LÀ PHẢN NHÂN DÂN

Lịch sử cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã chứng minh, Quân đội ta không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là của nhân dân, của dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn và triệt để quần chúng nhân dân lao động, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Quân đội ta sẵn sàng hy sinh phục vụ lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân Việt Nam; bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích và cuộc sống an bình của nhân dân. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dù công tác ở đâu, đi đến đâu, làm những nhiệm vụ gì, trong điều kiện chiến tranh hay hòa bình, ở đất liền hay trên biển đảo, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đều ra sức bảo vệ, giúp đỡ, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, phấn đấu vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó là biểu hiện sự thống nhất giữa trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với đất nước, dân tộc trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trung thành với Đảng, trung với nước, hiếu với dân là những nội dung phẩm chất cơ bản, cốt lõi gắn bó chặt chẽ với nhau trong bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội tất cả đều vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trung thành với Đảng đã bao hàm cả nội dung hiếu với dân, với lợi ích quốc gia, dân tộc; trung với nước, hiếu với dân cũng bao hàm cả nội dung trung với Đảng. Đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất nằm trong thuộc tính bản chất của Quân đội ta, không thể tách rời.
Những luận đề trên, chúng ta thấy rõ tính chất phi lý, phản khoa học của luận điệu xuyên tạc về phẩm chất trung thành của Quân đội ta mà các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền. Không thể cho rằng, “Quân đội là chỉ của dân tộc”, chỉ cần “trung thành và bảo vệ nhân dân và đất nước” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào, không cần trung thành với Đảng. Quân đội là của dân tộc, của nhân dân, nhưng quân đội ấy do ai lập nên, do ai tổ chức, rõ ràng là phải có một lực lượng chính trị nhất định. Lịch sử nhân loại đã minh chứng: con đường phát triển của các quốc gia - dân tộc, sự nghiệp cách mạng của nhân dân các dân tộc bao giờ cũng do một lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia dân tộc dẫn dắt và lãnh đạo. Lực lượng chính trị lãnh đạo dân tộc và nhân dân ấy cũng đồng thời là lực lượng tổ chức và lãnh đạo “Quân đội của dân tộc, của nhân dân”. Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định, của lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia - dân tộc, Đảng lãnh đạo và dẫn dắt dân tộc trên con đường phát triển.
Quân đội nhân dân Việt Nam là của dân tộc, của nhân dân Việt Nam, đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc từ bỏ nội dung phẩm chất trung thành với Đảng, tách vấn đề trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với dân tộc là không thể chấp nhận được vì nó không đúng với bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là sự cố tình xuyên tạc, bóp méo sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa Quân đội với Đảng, với dân tộc và nhân dân, nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, chống phá cách mạng Việt Nam. Luận điệu xuyên tạc đó không đánh lừa được ai, nhất định sẽ bị phá sản.

NHẬN DIỆN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG QUÂN ĐỘI CHỈ CẦN TRUNG THÀNH VÀ BẢO VỆ NHÂN DÂN, TRUNG VỚI ĐẢNG LÀ PHẢN NHÂN DÂN

Quan điểm Quân đội chỉ cần “trung thành và bảo vệ nhân dân”, “trung với Đảng là phản nhân dân” là một quan điểm phản động hết sức nguy hiểm. Biết không thể chia cắt được mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội ta với nhân dân, các thế lực thù địch đã lợi dụng mối quan hệ này để đẩy tới việc đưa ra luận điệu Quân đội “chỉ cần trung thành với nhân dân” là đủ, không cần nói đến phải trung thành với Đảng nữa. Họ hiểu rất rõ rằng, Quân đội ta có quan hệ máu thịt với nhân dân, là quân đội của dân, do dân và vì dân. Cho nên, họ đặt vấn đề Quân đội chỉ “trung thành và bảo vệ nhân dân” là “phù hợp”, là “khách quan”, chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào!
Quân đội là của quốc gia - dân tộc, chỉ cần “trung thành và bảo vệ nhân dân”, “bảo vệ đất nước và lợi ích quốc gia - dân tộc”. Những giọng điệu đó, tưởng là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của Quân đội ta sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, các thế lực thù địch đã khéo léo che giấu mưu đồ nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị - giai cấp của Quân đội, tiến tới làm biến chất Quân đội ta. Đây mới là âm mưu đích thực của các thế lực thù địch trong mục tiêu chống phá Quân đội, nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta rơi vào chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, khó nhận biết thực chất âm mưu, thủ đoạn của chúng.
Thông qua thủ đoạn công kích, xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội ta, các thế lực thù địch mộng tưởng rằng, sẽ “kích hoạt” làm cho Quân đội mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu; sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội bị vô hiệu hóa, Đảng không thể nắm được, không thể “điều khiển” được Quân đội, đặc biệt trong những tình huống phức tạp và thậm chí Đảng có thể trở thành đối tượng trực tiếp của chính công cụ bạo lực này. Họ muốn chính công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước trở thành lực lượng, công cụ trực tiếp cho hành động chống Đảng và chống Nhà nước ta. Vậy là, vấn đề lái chính trị của Quân đội ta theo chiều hướng khác, làm cho Quân đội ngả theo các thế lực phản cách mạng, chống lại Đảng và chế độ là một âm mưu rất thâm độc của các thế lực thù địch mà việc tung ra những luận điệu xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội là một ngón đòn rất “lợi hại” của các thế lực thù địch.

NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Thời gian gần đây, những luận điệu xuyên tạc phẩm chất của Quân đội ta mà các thế lực thù địch tung ra là tập trung công kích trực tiếp vào sự trung thành của Quân đội đối với Đảng. Chúng ra sức rêu rao rằng: Quân đội “chỉ là của quốc gia - dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào”; Quân đội trung thành với Đảng là sự trung thành “mù quáng”, là “lạc hậu lỗi thời”; Quân đội “chỉ cần trung thành với lợi ích của quốc gia - dân tộc, với nhân dân, bảo vệ nhân dân”, v.v. Họ cố tình cắt xén nội hàm phẩm chất trung thành của Quân đội nhân dân Việt Nam; đối lập sự trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với dân tộc; đối lập phẩm chất trung với Đảng và hiếu với dân của Quân đội ta. Họ còn “khuyên nhủ” chúng ta rằng, cần phải thực hiện “chuyên nghiệp hóa” Quân đội càng sớm càng tốt, cần phải học tập kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang theo mô hình của Quân đội tư sản...

Thực chất những luận điểm nêu trên là thủ đoạn lừa bịp, phản động, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Họ không những xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội, mà còn tách rời, đối lập một cách vô lối các nội dung trong phẩm chất trung thành của Quân đội và các mối quan hệ của Quân đội với Đảng, dân tộc và nhân dân. Quan điểm “Quân đội chỉ là của dân tộc”, chỉ cần “trung thành với lợi ích quốc gia - dân tộc” là quan điểm phản động về chính trị và đặc biệt nguy hiểm. Quan điểm này có vẻ như được dựa trên “cơ sở” thực tiễn rằng, Quân đội ta có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Từ cơ sở đó, cho nên họ đặt vấn đề “Quân đội trung thành với dân tộc là “phù hợp”, chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, trung thành với một lực lượng chính trị nào! Điều này dễ làm cho một số người nhẹ dạ cả tin có thể lầm tưởng rằng, các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết và những lời “khuyên nhủ” của họ là đầy thiện chí, là hợp lý, khách quan và đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta!

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác tôn giáo.
Ba là, chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh; xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo vững mạnh về mọi mặt; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của bà con giáo dân.
Bốn là, chủ động nhận diện và đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ CHIA RẼ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, song phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống dân trí và các hoạt động xã hội giữa thành thị với nông thôn, miền xuôi với miền núi, vùng có đạo và không có đạo còn có sự chênh lệch. Các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng núi cao, địa bàn có vị trí chiến lược nhưng điều kiện kinh tế - xã hội còn hết sức khó khăn. Đây là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch phát triển tôn giáo. Theo thống kê, từ năm 1980 đến nay, nước ta có khoảng 80 “tôn giáo mới”, hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo với nhiều nguồn gốc khác nhau, như: Tà đạo Hà Mòn, Pơkhăp Brâu, Dương Văn Mình, “Tâm linh Hồ Chí Minh”, Long Hoa Di Lặc, Hội thánh đức chúa trời mẹ, v.v Những thứ gọi là “tôn giáo” này hình thành trên cơ sở tiếp thu giáo lý của các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống với hình thức lắp ghép hỗn dung và thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống. Trong đó, nhiều tôn giáo được tổ chức nhằm lôi kéo, tập hợp quần chúng nhân dân chống phá cách mạng, gây rối trật tự, an ninh xã hội, như: “Tà đạo Vàng Chứ”, “Hội thánh đức chúa trời mẹ”, “Pháp luân công”. Nguy hiểm hơn, chúng còn lôi kéo, lập ra một số loại hình tôn giáo riêng cho người dân tộc thiểu số, như: “Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên; “Phật giáo riêng của người Khơme”,… nhằm “tôn giáo hóa” vùng dân tộc thiểu số, tập hợp lực lượng, khống chế quần chúng, kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, gây mất ổn định chính trị - xã hội, hình thành lực lượng đối trọng với chính quyền và cao hơn là gây mâu thuẫn, xung đột dân tộc, tôn giáo tại các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tiến tới phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn còn những tàn dư của chế độ xã hội cũ. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, những thành tựu là cơ bản, song khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết trong quản lý, điều hành xã hội, nhất là ở cơ sở. Đây là khoảng đất trống mà các thế lực thù địch lợi dụng tổ chức lực lượng trực diện chống phá đường lối đổi mới đất nước. Điển hình là việc xả thải gây ô nhiễm môi trường của Công ty Formosa (Hà Tĩnh), giải tỏa đền bù đất tại 42 Nhà Chung, Nhà thờ Thái Hà, dựng thánh giá, nhà nguyện trái phép ở giáo xứ Đồng Chiêm (Hà Nội), Đồng Hới (Quảng Bình), giải tỏa Chùa Liên Trì (Thành phố Hồ Chí Minh) và gần đây là các vụ việc phức tạp tại giáo phận Vinh, Kon Tum...
Được sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, một số linh mục, chức sắc tôn giáo lợi dụng đức tin của các tín đồ đã tuyên truyền, xuyên tạc hết sức phản động về Đảng, chế độ, chính quyền các cấp; ngang nhiên phát thư ngỏ trên mạng xã hội, kêu gọi, kích động giáo dân chặn đường giao thông, biểu tình, gây rối, đập phá tài sản và tấn công lực lượng chức năng. Có người cho rằng, đây chỉ là những hành động, việc làm đơn giản, bột phát nhất thời, nhưng thực chất phía sau là cả những ý đồ đen tối, kế hoạch hết sức sâu xa, nham hiểm, được tính toán kỹ lưỡng, nhằm gây tiếng vang, tạo cớ, can thiệp vào các vấn đề: dân chủ, nhân quyền, v.v. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, thận trọng, tỉnh táo, xử lý mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển, bảo đảm đúng pháp luật, phù hợp với đặc điểm, giáo lý, giáo luật tôn giáo và không để mắc mưu kẻ địch.

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VỀ ĐỨC TIN VÀ SỰ GẮN KẾT CỘNG ĐỒNG CỦA TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Mục tiêu chỉ được chuyển hóa thành kết quả khi có lực lượng thực hiện. Vì thế, các thế lực thù địch đã coi tôn giáo là chiêu bài để lợi dụng, tập hợp lực lượng chống phá cách mạng, chia rẽ các tôn giáo với nhau, chia rẽ người có tôn giáo với người không có tôn giáo, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự xuất hiện và biến đổi của tôn giáo bao giờ cũng gắn với nguồn gốc về nhận thức, kinh tế - xã hội và tâm lý. Cũng như nhiều quốc gia khác, tôn giáo ở Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển dựa vào các yếu tố: tâm linh; sự giới hạn nhận thức của con người trước thế giới; sự sợ hãi, bất lực trước tự nhiên rộng lớn, bí ẩn; sự tuyệt vọng về bệnh tật mà y học chưa vươn tới; cuộc sống khó khăn, túng quẫn về kinh tế, v.v. Khai thác những vấn đề đó, các thế lực thù địch dựng lên cái gọi là “tôn giáo”, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu lúc sa cơ, lỡ vận... Với niềm tin được đền bù hư ảo do tôn giáo đem lại, các tín đồ bị ràng buộc bởi thứ được gọi là giáo lý, giáo luật, thực hiện nghi thức “tôn giáo” và những điểm tương đồng khác, hòng tạo ra sự gắn kết chặt chẽ, lâu bền giữa những người cùng tín ngưỡng. Sự gắn kết này tạo ra sức mạnh to lớn của một cộng đồng người và nó khác biệt với các cộng đồng người khác do tín ngưỡng, dẫn đến chia rẽ, mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, giữa người có đạo và không có đạo. Nguy hiểm hơn là khi khối cộng đồng người này bị mê hoặc, cuồng tín và hoạt động theo phản xạ tự nhiên, không tuân thủ chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện vô điều kiện theo sự chăn dắt của bọn chủ mưu.

SỰ ĐỐI LẬP VỀ THẾ GIỚI QUAN TÔN GIÁO VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG LÀ CƠ SỞ ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Trước hết, sự đối lập về thế giới quan của tôn giáo và thế giới quan duy vật biện chứng trong nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở để chúng lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với tôn giáo. Thế giới quan của tôn giáo là thế giới quan “lộn ngược”; “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. Tính chất duy tâm, thần bí của tôn giáo đối lập với khoa học, thế giới quan duy vật biện chứng của hệ tư tưởng Mác – Lênin.
Lợi dụng sự đối lập này, các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng, chủ nghĩa xã hội không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo, từ đó tạo ra khoảng cách, sự đối kháng giữa tôn giáo với đời sống hiện thực xã hội chủ nghĩa để kích động tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời, tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện âm mưu hình thành “Ủy ban liên tôn đấu tranh đòi quyền tự do tôn giáo”, thành lập tổ chức “Liên tôn chống cộng”. Nếu nhìn nhận phiến diện thì đúng là có sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan cách mạng của Đảng. Sự đối lập đó không có nghĩa là phải xóa bỏ tôn giáo, mà đòi hỏi có cách nhìn sâu sắc, toàn diện, lịch sử, cụ thể hơn. Chúng ta cần hiểu rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo tất yếu đồng hành cùng dân tộc. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chưa bao giờ có tư tưởng xóa bỏ, kỳ thị hay áp bức tôn giáo mà luôn nhất quán nhận thức: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, chúng ta cần quán triệt, thực hiện và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch, nhất là các luận điệu vu khống, xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng Đảng, Nhà nước ta kỳ thị tôn giáo.

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2018

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG NHẬN THỨC SAI LỆCH CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỀ Ý NGHĨA, TẦM QUAN TRỌNG CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Những nhận thức sai lệch của cán bộđảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận chính trị là rất đáng lo ngại, rất cần kíp có giải pháp và nhiệm vụ để từng bước khắc phục. Các giải pháp, nhiệm vụ này đã từng được Đảng ta nêu ra trong các Nghị quyết về công tác tư tưởng, về công tác cán bộ và xây dựng Đảng nói chung. Vấn đề là cần cụ thể hóa, tập trung hóa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn để có được kết quả cao. Đó là các giải pháp, nhiệm vụ cơ bản sau:

1. Về nhận thức, nâng cao nhận thức cho cán bộđảng viên về vị trí, vai trò của công tác lý luận chính trị. Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trẻ, để nắm vững, nhất trí với các mục tiêu, quan điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Về nghiên cứu lý luậncán bộđảng viên, tùy theo cương vị của mình, có trách nhiệm nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại. Đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với triển khai sâu rộng, có hiệu quả cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Cũng như vậy, cán bộ, đảng viên, tùy theo vị trí, điều kiện của mình phải tích cực góp phần làm sáng tỏ những nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, tập trung vào những vấn đề cấp bách thực tiễn đang đòi hỏi.

Về giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị, các trường đại học và trung học chuyên nghiệp trong cả nước. Khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, đảm bảo tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tăng cường đào tạo lại, nâng cao trình độ khoa học, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Về công tác lý luận gắn với thực tiễn, cán bộ, đảng viên góp phần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp ủy đảng. Coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành. Gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu và chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại.

Công tác lý luận chính trị phải góp phần vào giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, chống chuyển hóa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống.

Cán bộ, đảng viên phải hăng hái góp phần chủ động tấn công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởnglý luận, làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

NHỮNG NHẬN THỨC SAI LỆCH CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỀ Ý NGHĨA, TẦM QUAN TRỌNG CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Những nhận thức sai lệch này là một trong các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ) nêu ra.
Ở nước ta, lý luận chính trị, trước hết và cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, công cuộc đổi mới đất nước nói riêng.
Thế nhưng, hiện nay, trong cán bộ, đảng viên còn có những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận chính trị và từ đó dẫn đến những tác hại khôn lường.
Một là, cán bộ, đảng viên không nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tính cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, hoặc tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, cán bộ, đảng viên không nhận thức được hết ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Ba là, cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập lý luận chính trị không gắn với thực tiễn.
Bốn là, cán bộ, đảng viên không thấy hết được trách nhiệm của hoạt động lý luận chính trị trong đấu tranh tư tưởng.
Với nội dung như vừa nêu trên, đấu tranh tư tưởng là với nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau và thật sự là một nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải vừa có lý luận vừa hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; vừa có nhiệt tình cách mạng nhưng đồng thời, phải có bản lĩnh dám đấu tranh, dám chiến đấu với những sai trái, phản động để góp phần thiết thực giữ vững chế độ chính trị và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN KHÔNG NGHIÊM TÚC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo Nghị quyết trung ương 4 khóa XII, theo chúng tôi, cần tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình.
Hai là, cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ đạo thường xuyên tự giác, gương mẫu đi đầu trong tự phê bình và phê bình
Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên.
Bốn là, cán bộ, đảng viên phải thường xuyên chủ động, tự giác tự phê bình và phê bình
Năm là, tự phê bình và phê bình phải gắn với xử lý kỷ luật nghiêm minh.

Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện kiểm điểm tự phê bình, phê bình.

BIỂU HIỆN CỦA “BỆNH” DUY Ý CHÍ

Duy ý chí là trạng thái chủ thể quá đề cao ý muốn chủ quan và ý chí của mình trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực, coi thường quy luật khách quan, bất chấp những điều kiện khách quan.
Ở tầm vĩ mô, biểu hiện của duy ý chí là đề ra đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng dựa vào mong muốn chủ quan, dựa vào ý chí do nhận thức sai hoặc coi thường quy luật khách quan, không tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể trong xây dựng và cải tạo xã hội. Chẳng hạn, trong thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã duy ý chí khi chủ quan trong việc đánh giá những khả năng của đất nước, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường, xóa bỏ kinh tế tư nhân, cá thể khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, lạc hậu.
Xét trong phạm vi hẹp, cụ thể hơn, biểu hiện của duy ý chí là xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của một đơn vị, tổ chức, cá nhân; ra các quyết định quản lý; lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt ý chí vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ quan thay cho hiện thực, thiếu thực tế, không đủ căn cứ khoa học, không mang tính khả thi, hiệu quả.
Biểu hiện của duy ý chí còn là tình trạng nôn nóng, muốn đốt cháy giai đoạn, bắt thực tiễn khuôn theo ý chí chủ quan của con người, muốn đạt được mục tiêu trong một khoảng thời gian ngắn mà không tính đến những điều kiện khách quan, những nguồn lực để thực hiện.
Duy ý chí còn biểu hiện ở chỗ cường điệu vai trò của nhân tố chủ quan, của yếu tố chính trị trong hoạch định đường lối, chính sách và trong hoạt động thực tiễn; quá đề cao vai trò, nhiệt tình của cá nhân, tập thể, cho rằng dựa vào nhiệt tình của của số đông sẽ đạt được tất cả những gì mong muốn, bất chấp hiện thực, bất chấp những quy luật khách quan đang tác động trong đời sống kinh tế - xã hội, bất chấp những điều kiện khách quan đang chi phối sự hoạt động của cơ quan, tổ chức.

BIỂU HIỆN CỦA VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

Thực tế trong thời gian gần đây, phê bình và tự phê bình mang tính hình thức, dẫn đến là từng tổ chức Đảng mất sức chiến đấu, từng cá nhân có những biểu hiện khi thì quá tả, khi thì quá hữu. Đối với mỗi người đảng viên thì đó là những biểu hiện tự suy thoái từ bên trong. Cụ thể:

- Một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức về việc tự kiểm điểm còn nặng tính hình thức qua loa, chiếu lệ, tự phê bình và phê bình chưa tự giác, chưa gương mẫu và thiếu quyết tâm thực hiện.

- Việc thực hiện các nội dung, quy trình tự phê bình và phê bình ở một số tổ chức đảng chưa thực sự nghiêm túc, ảnh hưởng đến chất lượng tự phê bình và phê bình. 

- Thực tế ở nhiều chi, đảng bộ, khi thấy có cấp ủy cấp trên về dự phê bình thì từ người đứng đầu cấp ủy đến cả tập thể cấp ủy và toàn thể đảng viên tỏ ra căng thẳng, e ngại.

 - Ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, công tác tự phê bình và phê bình chưa có sự gắn kết chặt chẽ với công tác kiểm tra, giám sát và các mặt khác của công tác xây dựng Đảng.

- Vẫn còn tình trạng ở một số tổ chức người có nhiều ưu điểm chưa được động viên khen thưởng thỏa đáng; trái lại, người nhiều khuyết điểm nhưng vẫn được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được khen thưởng, đưa vào quy hoạch cấp ủy, các chức danh lãnh đạo, quản lý, được bổ nhiệm, luân chuyển hay giới thiệu ứng cử chức vụ cao hơn.

- Vẫn tồn tại tình trạng lợi dụng phê bình: Mặc dù Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác tư tưởng của Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc tự phê bình và phê bình, nhưng không thể phủ nhận một thực trạng là hiện nay, thái độ né tránh hoặc qua loa, hình thức và thường có xu hướng đổ lỗi cho khách quan hoặc sự hạn chế về nhận thức.
Gần đây, Bộ Chính trị có ý kiến chỉ đạo về việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Trong đó tập trung tự kiểm điểm sâu sắc, phê bình và góp ý với đồng chí khác trên cơ sở đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra. Sự chỉ đạo của Bộ Chính trị đang mở ra đợt sinh hoạt chính trị lớn trong toàn Đảng. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng là một khoảng thời gian cán bộ, đảng viên và nhân dân chứng kiến quyết tâm mạnh mẽ của Đảng trong xây dựng, chỉnh đốn, làm trong sạch đội ngũ. Nhất là vừa qua, Trung ương đã phát hiện, xử lý bước đầu đối với sai phạm trong bổ nhiệm cán bộ ở một số địa phương liên quan đến vụ việc sai phạm nghiêm trọng; kiên quyết xử lý nghiêm khắc những cán bộ kể cả cán bộ cấp cao đương chức hay đã nghỉ hưu theo tinh thần không có vùng cấm, không có khoảng trống cho bất kì ai. Chính điều này sẽ tạo ra niềm tin và sự kỳ vọng của nhân dân vào đợt tự phê bình và phê bình lần này. Nếu chúng ta làm tốt, việc phê bình và tự phê bình lần này sẽ tạo ra không khí, khí thế mới trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

BIỂU HIỆN CỦA “BỆNH” ÁP ĐẶT TRONG CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Cùng với duy ý chí, áp đặt cũng được xem là một biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị. Theo Từ điển tiếng Việt, áp đặt là “dùng sức ép bắt phải chấp nhận”. Như vậy, áp đặt xuất hiện trong các mối quan hệ, khi chủ thể này sử dụng áp lực bắt chủ thể khác phải chấp nhận giá trị, ý kiến, quan điểm, quy tắc, quyết định... của mình. Áp đặt có thể xuất hiện trong quan hệ thứ bậc (cấp trên với cấp dưới), hay trong quan hệ ngang hàng.
Chuyên quyền, độc đoán là một biểu hiện của áp đặt. Ở đây, người lãnh đạo sẽ tập trung hết quyền lực vào tay của mình, luôn ra lệnh và bắt người dưới quyền thực thi mệnh lệnh. Người chuyên quyền, độc đoán thường lấy mình làm thước đo giá trị, không quan tâm đến ý kiến của người khác, bỏ mặc tất cả sự phản đối hay những chê trách của người khác để đạt mục đích của mình. Mặc dù trong một số trường hợp, chuyên quyền, độc đoán có thể đạt được những hiệu quả công việc nhất định, nhưng nó vẫn là nguyên nhân của nhiều sai lầm cũng như những mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan, tổ chức.
Sử dụng áp lực để thuyết phục người khác theo ý mình cũng là một biểu hiện của áp đặt. Trong cuộc sống, con người thường muốn thuyết phục người khác về một nhận thức, một giá trị, một cách làm việc… Đó là bản tính muốn chia sẻ của con người. Cố gắng thuyết phục, chia sẻ không phải là áp đặt, nhưng sử dụng áp lực để thuyết phục người khác theo ý mình là áp đặt. Áp lực đó có thể là vật chất hay tinh thần.

VẠCH TRẦN CÁI GỌI LÀ “ DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và quyết liệt. Dưới chiêu bài "dân chủ”, “nhân quyền”, họ tự xưng mình là những người có "sứ mệnh" đấu tranh cho “dân chủ", “nhân quyền” ở Việt Nam.

Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Khi họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt những vấn đề "dân chủ”, “nhân quyền" nhằm nói xấu chế độ ở Việt Nam?

“Dân chủ”, “nhân quyền” được xem là giá trị chung của nhân loại. Các dân tộc không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa đều có đóng góp nhất định vào giá trị chung đó. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, không có mô hình "chuẩn" về dân chủ, nhân quyền, mà chỉ có những mô hình cụ thể dựa trên những giá trị phổ quát được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Tương tự như quan hệ giữa "cái chung", "cái phổ biến" với "cái đặc thù", "cái đơn nhất" trong triết học, những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền chỉ có thể thông qua các mô hình chính trị - xã hội cụ thể để biểu hiện. Nói một cách đơn giản là, dân chủ, nhân quyền có nhiều mô hình, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Thế nhưng, trên mạng xã hội hiện nay, có một số tổ chức, cá nhân tự nhận mình là "nhà dân chủ", sùng bái mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, coi đó là "chuẩn", là "mặc định". Từ đó, họ ra sức xuyên tạc, vu cáo, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhằm hướng sự phát triển của đất nước ta theo mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây.

Không chỉ phủ nhận chế độ dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch còn ra sức tô vẽ, sùng bái mô hình "dân chủ”, “nhân quyền" của phương Tây. Họ tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây, cố tình tảng lờ một số quyền con người sẽ bị hạn chế đã được ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966). Theo cách nói của họ, Nhà nước Việt Nam đã vi phạm quyền con người ở Điều 18 (Về quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo), Điều 19 (Về quyền tự do ngôn luận, báo chí), Điều 21, 22 (Về quyền hội họp hòa bình, quyền lập hội...) trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) mà Việt Nam đã ký kết. Tuy nhiên, họ không hề đề cập đến việc thực hiện những quyền nêu trên đều có thể bị hạn chế (trong pháp luật quốc gia) là vì "an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác". Gần đây, họ còn có "sáng kiến": Phát triển blog, hình thành "xã hội ảo", "công dân ảo" và sử dụng các trang mạng xã hội nhằm phát tán, thu gom, lưu trữ các bài viết. Qua đó, họ ra "Tuyên bố", lập bản "Kiến nghị", kêu gọi "Ký tên"... ủng hộ các quan điểm cực đoan, sai trái. Chẳng hạn như: Tuyên bố 72 ra bản "kiến nghị" về sửa đổi Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, chế độ cộng hòa tổng thống; Tuyên bố về việc thực thi các quyền dân sự, chính trị, kêu gọi Nhà nước thực thi các quyền tự do, dân chủ theo các "chuẩn mực nhân quyền phổ quát" (không tính tới tính đặc thù, lịch sử và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc); Tuyên bố 258, kêu gọi xóa bỏ Điều 258 (Về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, Bộ luật Hình sự 1999 của Nhà nước ta)...

Gắn liền với những hoạt động trên, các nhà tự xưng là "dân chủ”, “nhân quyền" còn lợi dụng bầu không khí dân chủ của đất nước để thực hiện một số hoạt động "thực", như: Trao văn bản đến lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đến các cơ quan chức năng, thậm chí trao văn bản tới các đại sứ quán, lãnh sự quán nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Để tránh sự trừng phạt của pháp luật, họ "lách luật" bằng cách lợi dụng quyền "phản biện" (thực chất là để phản bác, phủ nhận), tuyên bố "chỉ thực hiện các quyền con người về quyền tự do, dân chủ được ghi trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia" và chỉ hoạt động "ôn hòa", "bất bạo động"... Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, các cuộc bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội hiện hữu thường bắt đầu bằng những hành động gọi là "bất bạo động", "ôn hòa" kiểu ấy. Do vậy, những hành vi vi phạm pháp luật của họ sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm minh.

Những hoạt động nói trên của những kẻ lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" cũng như của các thế lực thù địch chẳng qua chỉ là trò bịa đặt, "bóp méo sự thật". Hành động của họ chẳng lừa được ai, chắc chắn sẽ bị lên án, bác bỏ.
Nhìn lại những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm dân chủ, nhân quyền, có thể khẳng định rằng, đó là những thành tựu to lớn, không thể phủ nhận được. Những "phát biểu", "điều trần" của cá nhân này, tổ chức nọ nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam chỉ là những tiếng nói lạc lõng, xa lạ với cộng đồng quốc tế. Nó đã, đang và tiếp tục bị cộng đồng quốc tế vạch trần, lên án./.

PHẢI CHĂNG SỰ THOÁI HÓA BIẾN CHẤT CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN DO MỘT ĐẢNG LÃNH ĐẠO?

Một số học giả tư sản lớn tiếng cho rằng: chế độ một đảng lãnh đạo là độc tài, khép kín, mất dân chủ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, là nguyên nhân của sự thoái hóa ,biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.

Thực chất luận điểm trên là phản động, biểu hiện rõ mục tiêu chính trị và sự thù địch đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Luận điểm đó không xuất phát từ động cơ tích cực mà lợi dụng thực trạng xã hội để phủ định vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản, cổ súy cho tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng nền chính trị Việt Nam phát triển theo nền chính trị tư sản.

Thực tiễn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các đảng phái chính trị với tên gọi khác nhau (trừ Đảng Cộng sản chân chính) nhưng bản chất đều là đảng của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Vì lợi ích của mình, các đảng tư sản cũng đã có sự điều chỉnh sách lược, chiến lược, song dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể xóa bỏ được những ung nhọt của xã hội nảy sinh từ cơ sở xã hội của nó, đó chính là quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

 Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành trên cơ sở tuân theo quy luật chung đồng thời có tính đặc thù do điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam quy định, là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử dân tộc. Kể từ khi ra đời, Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện cơ sở vật chất - xã hội nước ta tạo ra những thuận lợi nhất định nhưng cũng dễ làm nảy sinh những khó khăn rất lớn và lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta chỉ rõ: có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất. Nhưng hiện tượng đó không phải do bản chất của Đảng hay do một đảng lãnh đạo mà phải xem xét từ nguồn gốc tồn tại xã hội. Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận trách nhiệm của mình với tư cách là tổ chức lãnh đạo, giáo dục, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thoái hóa, biến chất, chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của nó; xác định những chủ trương, biện pháp, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị để đấu tranh ngăn chặn, khắc phục tình trạng suy thoái biến chất, góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới./.

PHẢI CHĂNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA C.MÁC LÀ SAI LẦM VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỈ LÀ SỰ ẢO TƯỞNG, KHÔNG BAO GIỜ THỰC HIỆN ĐƯỢC?


Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng đã luôn bị kẻ thù chống phá quyết liệt. Đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Có thể dễ dàng thấy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang điên cuồng bài bác và tung hô luận điệu cho rằng: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH) của C.Mác chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng và xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự ảo tưởng và không bao giờ thực hiện được?
Phải thấy rằng sự vận động, phát triển của nhân loại là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết HTKT-XH của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại.
Mọi người đều biết, học thuyết HTKT-XH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ: 
- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKT-XH, trong đó sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ tầng, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp. 
- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 HTKT-XH. Đó là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Chẳng  hạn, Autralia, các quốc gia Mỹ - Latinh đều bỏ qua HTKT-XH phong kiến trong quá trình phát triển của mình. Việt Nam không trải qua HTKT-XH chiếm hữu nô lệ và HTKT- XH tư bản chủ nghĩa. Việc các quốc gia này bỏ qua một HTKT-XH nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ, mà do các điều kiện lịch sử khách quan quy định.
Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKT-XH, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi HTKT-XH và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKT-XH từ thấp lên cao hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản, thì sau HTKT-XH tư bản chủ nghĩa ấy phải là một HTKT-XH tiến bộ hơn, đó chính là chủ nghĩa cộng sản. Đó là cái tất yếu lịch sử hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra. 
Đặc biệt sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, không ít học giả trong và ngoài nước đã tung hô về “cái chết” của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sự cáo chung” của chủ nghĩa cộng sản dựa trên học thuyết Mác. Cùng với sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới là một số hạn chế, yếu kém trong quá trình cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sự phát triển, “điều chỉnh”, “thích nghi” của chủ nghĩa tư bản hiện đại... càng làm cho những luận điệu chống phá, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội hiện thực nói riêng có “mảnh đất” để phát triển cả về nội dung và hình thức. Họ đưa ra nhiều căn cứ phủ định chủ nghĩa xã hội và cho rằng: chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng không bao giờ thực hiện được.
          Hẳn là một suy nghĩ hồ đồ
Trước hết phải thấy rõ là:
Thứ nhất, học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội không phải là “hệ thống tự biện”, vì trong khoa học, để tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì không chỉ nghiên cứu một sự vật, hiện tượng cụ thể mà phải thông qua nhiều sự vật, hiện tượng từ đó tìm ra các thuộc tính chung nhất của nó. Do đó, bất kỳ nghiên cứu khoa học nào cũng cần đến thuộc tính trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nghiên cứu lịch sử phát triển nhân loại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hay những yếu tố cấu thành của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng không thể không trừu tượng hóa những đối tượng ấy. Vấn đề đặt ra là, sự trừu tượng hóa ấy có phản ánh đúng bản chất, quy luật của hiện thực khách quan không. Nếu phản ánh đúng bản chất, quy luật, chúng ta có cơ sở khoa học để dự báo sự vận động phát triển.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội dựa trên học thuyết Mác ra đời xuất phát từ “mảnh đất hiện thực” khách quan dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của châu Âu từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và những tiền đề văn hóa, tư tưởng của nhân loại đạt được trong suốt chiều dài lịch sử cùng với sự thiên tài trong kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra được quy luật vận động của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản thông qua ba phát hiện vĩ đại: Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư và sau này (như Lênin đã bổ sung) học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, nghiên cứu “mảnh đất hiện thực” của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ đế quốc, bộc lộ tất cả các mặt “thối nát” của chúng. Từ đó, các ông đi đến kết luận: “Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột có thật ấy vào trong tư duy, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột ấy, trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ và sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội: “không cần phải thực hiện một lý tưởng nào cả, mà chỉ cần giải phóng những nhân tố của xã hội mới đã phát triển trong lòng xã hội tư sản cũ đang sụp đổ”.
Như vậy, với học thuyết về HTKT-XH của chủ nghĩa Mác cho chúng ta thấy, chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa) ra đời là một tất yếu khách quan. Tất yếu này đã được Đảng Bônsêvich Nga do Lênin đứng đầu lãnh đạo tổ chức Cách mạng tháng Mười thành công, lập nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thực tế.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội đã và đang là hiện thực của lịch sử nhân loại.
          Sau thắng lợi Cách mạng tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của đảng Bônsêvích, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã tiến hành xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt to lớn đánh dấu chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Cách mạng tháng Mười đã chứng minh trên thực tế những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của ra đời HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa là có cơ sở khoa học. Nó cũng mở ra cho nhân loại một xu hướng mới về xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, đối lập với chế độ áp bức, bóc lột, bất công tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự đỗ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách một học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, một học thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn, triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và cho việc xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh thực sự - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự đổ vỡ này là do sai lầm của những người lãnh đạo đứng đầu của Đảng Cộng sản ở các quốc gia nêu trên; thêm vào đó, là sự phản bội của một số kẻ cơ hội bên trong kết hợp với những kẻ thù địch từ bên ngoài. Chúng ta biết rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác từng nhấn mạnh, chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động. C.Mác và Ph.Ănghen đã luôn nhấn mạnh, học thuyết của các ông không phải là “khuôn vàng, thước ngọc”, không phải là cái gì đã “xong xuôi hẳn”, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ.
Thực tiễn cũng chứng minh quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng, từng bước sụp đổ; đã xuất hiện không ít tư tưởng hoài nghi về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đã tự vạch ra cho mình mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam, đồng thời lãnh đạo nhân dân từng bước hiện thực hóa mô hình ấy.
Thực tiễn tổng kết hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo những tiền đề quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao... Những thành tựu to lớn trên đã chứng tỏ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta là phản ánh đúng đắn quy luật khách quan và phù hợp với thực tiễn cách mạng của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội không phải là ảo tưởng mà là hiện thực, hiện thực đó đang ngày càng sinh động ở nước ta; hiện thực đó không phải chỉ những người cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự nhận, tự thấy mà được các nước, các tổ chức quốc tế thừa nhận. Hiện thực đó đang là tấm gương cho nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế - xã hội học tập và noi theo./.

NHẬN THỨC ĐÚNG NGUYÊN NHÂN TAN RÃ CỦA LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU TRƯỚC CÁC LUẬN ĐIỆU CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu diễn ra vào cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 được coi là là thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin bị thách thức nghiêm trọng từ cả bên ngoài và bên trong, gây xáo trộn mạnh về chính trị - tư tưởng đối với các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân, đội ngũ cán bộ, đảng viên và một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.
Lợi dụng tình hình đó, các thế lực phản động đã ra sức công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội bằng nhiều luận điệu tiêu cực như: chủ nghĩa xã hội là cái thai đẻ non của lịch sử nên tất yếu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp với thời đại mới nên đã thất bại, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh tính chất sai lầm ảo tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tế..v.v.
Vì vậy, nhận thức đúng đắn nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Hai bảy năm đã trôi qua, đến nay chúng ta đã có cái nhìn đầy đủ và đúng đắn về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, đó là kết quả tổng hợp của những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại, trong đó nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định.
Thứ nhất, việc duy trì trong một thời gian dài mô hình quản lý tập trung, kế hoạch, bao cấp, đã khiến chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trở thành xơ cứng, giáo điều, là nguồn gốc tình trạng trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội ở các nước này trong thập niên 80 đến 90 của thế kỷ XX. Trong khi các nước tư bản từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng thập niên 70, thế kỷ XX đã không ngừng cải cách, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, bỏ xa Liên Xô và Đông Âu về nhiều mặt, thì các nhà lãnh đạo ở Liên Xô và Đông Âu vẫn chủ quan, kiêu ngạo tự cho mô hình chủ nghĩa xã hội của mình là đúng đắn, không có gì sai sót, không tiến hành sửa chữa, thậm chí còn áp nó đó lên các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Thứ hai, khi nhận thức được sự trì trệ, Liên Xô đã lún sâu vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, nên vội vã tiến hành cải tổ một cách ồ ạt trên cả bốn mặt: tự do hóa kinh tế, dân chủ hóa chính trị, phi ý thức hệ tư tưởng và mở cửa ra bên ngoài. Chính đường lối phiêu lưu, mạo hiểm này đã làm bùng nổ và lan tràn đến mức không thể kiểm soát nổi các mâu thuẫn chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, sắc tộc, các xu hướng ly tâm, cấp tiến hóa, cực đoan hóa... Đặc biệt, việc vi phạm một cách có hệ thống các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội của ban lãnh đạo Liên Xô đứng đầu là Gorbachev trong quá trình cải tổ, nhất là việc "tự nguyện" xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với toàn xã hội, không chỉ tạo điều kiện cho các lực lượng phản động ngóc đầu dậy chống đối Đảng Cộng sản, mà còn hủy hoại triệt để cơ cấu quyền lực của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, khiến cho xã hội lâm vào rối loạn, mất phương hướng, tan rã là điều không thể tránh khỏi.
          Thứ ba, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã tiến hành một cách toàn diện các hoạt động chống phá Liên Xô, Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, vừa trắng trợn, kết hợp gây sức ép bên ngoài với thúc đẩy tự chuyển biến ở bên trong như: khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang tốn kém; liên kết tiến hành bao vây, cô lập phá hoạt kinh tế, ngoại giao; đẩy mạnh cuộc chiến văn hóa - tư tưởng, truyền bá giá trị Mỹ; gây dựng lực lượng đối lập, mua chuộc bộ phận cán bộ lãnh đạo cao cấp... Đặc biệt, chính Mỹ đã bắt tay với các nước thuộc Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ tiến hành hoạt động phá giá dầu mỏ, làm cho ngân sách Liên Xô thất thu hàng tỷ đô la từ việc xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Liên Xô vốn đang đắm chìm trong khủng hoảng kinh tế - xã hội...
Như vậy, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu là kết quả tất yếu từ quá trình tích tụ những sai lầm, khuyết điểm không được sửa chữa, khắc phục đúng đắn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước này, với các hoạt động chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ, chứ không phải như các luận điệu của các thế lực phản động đã và đang tuyên truyền hiện nay. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói cách khác đó là sự thất bại của một cách thức, một hướng đi xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của loài người mà thôi, nó phản ánh tính chất quanh co phức tạp, khi tiến, khi lùi của lịch sử.
Những bài học thành công trong quá trình đổi mới, cải cách ở Việt Nam, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại là minh chứng hùng hồn cho sức sống của chủ nghĩa xã hội. Sự phục hồi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự xuất hiện phong trào cánh tả Mỹ - Latinh và cuộc đấu tranh của nhân loại để thực hiện mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đã phản ánh xu thế tất yếu của loài người là tiến lên lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nhận định của Đảng ta vào thời điểm năm 1991, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào hoàn cảnh khó khăn nhất: "lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, nhưng loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử"./.