Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

CÁ NHÂN CHỦ NGHĨA ĐẺ RA HÀNG TRĂM TÍNH XẤU

“Cá nhân chủ nghĩa đẻ ra hàng trăm tính xấu như siêng ăn, biếng làm, kèn cựa, nghĩ đến mình không nghĩ đến đồng bào, tham danh lợi, địa vị...”. Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí minh tại buổi nói chuyện với giáo viên và học sinh Trường Phổ thông cấp III Chu Văn An - Hà Nội ngày 31 tháng 12 năm 1958.
Chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh ví như “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” và nó như một thứ vi trùng độc hại, là rác rưởi làm tha hóa các mối quan hệ vốn có của mỗi cán bộ, đảng viên. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà cán bộ, đảng viên phạm nhiều sai lầm, cần phải kiên quyết đấu tranh, sửa chữa, quét sạch.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”đã chỉ ra tội ác của chủ nghĩa cá nhân; đó là: Sống ích kỷ, sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Từ sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy, muốn quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn học tập để nâng cao và thấm nhuần đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận; nâng cao dân trí, thực hiện và phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, đề cao tự phê bình và phê bình và tích cực xây dựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp, để dẹp cái xấu, lấy xây là chính... Quan niệm và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phòng tránh, đấu tranh hiệu quả chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng có giá trị lâu dài và tính thời sự cấp thiết.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; đặt ra yêu cầu cao về tính tập thể, về mối quan hệ gắn bó đồng chí, đồng đội, quan hệ quân - dân... đã trở thành lời thề danh dự của người quân nhân, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta, được nhân dân yêu mến, tin tưởng vinh danh cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

PHƯƠNG THỨC NÊU GƯƠNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nêu gương và noi gương là thực hành đạo đức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn nêu gương, thì cán bộ, đảng viên phải luôn thực hiện nói đi đôi với làm, và phải biết lấy người tốt, việc tốt để tuyên truyền, nói ít làm nhiều, nói được làm được. Tránh thói ba hoa, chống thói nói một đằng làm một nẻo. Người nói: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước...Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. 
Phải xây dựng những tấm gương tốt để nêu gương. Cần thấy rằng, các tấm gương, các mẫu mực luôn biến đổi theo sự biến đổi xã hội, trong đó có những giai đoạn biến đổi rất nhanh chóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. 
Vấn đề quan trọng cần làm rõ là trong đời sống xã hội nói chung, trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., ai, chuẩn mực gì thì được coi là tấm gương, ai và tổ chức nào phải noi theo, làm theo? Một đảng lãnh đạo và cầm quyền như Đảng ta, trong mỗi bước chuyển của lịch sử, trong mỗi giai đoạn của cách mạng, cần phải chủ động xây dựng các điển hình, các tấm gương tốt, thậm chí phải thể chế hóa vấn đề nêu gương, làm gương và noi gương. Phải có thái độ đúng đắn, rõ ràng đối với các tấm gương tốt (chính diện) và gương xấu (phản diện). Điều này làm cho vấn đề nêu gương, làm gương và noi gương trở thành một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, cấp thiết và thường xuyên trong sinh hoạt chính trị nói chung, trong xây dựng Đảng nói riêng.
Vấn đề nêu gương, làm gương, noi gương là một trong những công cụ và phương thức quan trọng của lãnh đạo, nhưng không phải là duy nhất. Cần đặt vấn đề nêu gương trong mối quan hệ với các công cụ lãnh đạo khác nữa, để phát huy cao nhất hiệu quả lãnh đạo của Đảng, nhất là trong điều kiện hiện nay. /.

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2019

NHẬN DIỆN ĐÚNG NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG NỘI BỘ

Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với việc xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, Đảng ta luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, đồng thời là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Những kết quả đạt được về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm qua là rất quan trọng, được khẳng định cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt Đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức Đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu.
Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái...
Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã thống nhất ban hành Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Đây là Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về xây dựng Đảng và cũng là nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên của nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
Nghị quyết vừa cụ thể hóa thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng mà Nghị quyết Đại hội XII đề ra; vừa tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) trong điều kiện mới. Điều đó chứng tỏ quyết tâm chính trị rất cao, sự nỗ lực rất lớn và tư tưởng nhất quán của Đảng về tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đồng thời, thể hiện tầm tư duy và thái độ kiên quyết, kiên trì thực hiện của Đảng trước yêu cầu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu trong tình hình mới, nhằm củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đi vào cuộc sống, cần quán triệt và thống nhất một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Việc tổ chức quán triệt, học tập Nghị quyết phải được thực hiện nghiêm túc ở tất cả các cấp, theo đúng nội dung, chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Thông qua đó, để mọi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cán bộ chủ trì các cấp.
Tập trung quán triệt, nắm vững những quan điểm cơ bản về xây dựng Đảng, những nội dung trọng tâm cần triển khai, nâng tầm tư duy, phương pháp luận trong tổ chức thực hiện; tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động; đề cao trách nhiệm nêu gương để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết có hiệu quả.
Thực hiện tốt phương châm: kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết, làm thực chất và kịp thời khắc phục những biểu hiện làm chiếu lệ, qua loa, đại khái, hình thức, đối phó, không thấy được giá trị thiết thực của Nghị quyết đối với công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Thứ hai, nhận diện đúng những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. So với các Nghị quyết về xây dựng Đảng trước đây, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống, với 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Điều đó thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Việc đưa ra hệ thống những biểu hiện suy thoái đó tạo cơ sở cho mỗi cán bộ, đảng viên suy ngẫm và hành động; tự soi, tự sửa, tự phê bình và phê bình, kiểm điểm đánh giá cá nhân, góp ý cho người khác và xử lý đối với những tập thể, cán bộ, đảng viên vi phạm.
Hệ thống những biểu hiện này cũng là căn cứ để góp phần xây dựng tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Bởi vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, nắm vững để phòng tránh và khắc phục, tránh tư tưởng cho rằng những biểu hiện đó là ở nơi khác, người khác chứ không có trong nội bộ mình, bản thân mình, dẫn đến chủ quan, giản đơn trong xem xét, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.
Thứ ba, nắm vững các nhóm giải pháp. Với quan điểm chỉ đạo là kiên quyết, kiên trì thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện và thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, tiến hành thường xuyên, liên tục ở các cấp, các ngành, đồng bộ cả ở Trung ương và cơ sở, Nghị quyết đã đề ra các nhóm giải pháp: Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong đó, có một số giải pháp mới rất quan trọng, như: đổi mới và bắt buộc học tập lý luận chính trị; cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; cơ chế kiểm soát quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước, công khai kết quả xử lý vi phạm; sự thống nhất về chính sách và kỷ luật giữa Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, tăng thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu để xử lý cán bộ thuộc quyền và sự giám sát của nhân dân trong xây dựng Đảng; phát huy vai trò của báo chí, các cơ quan truyền thông; có cơ chế tạo động lực, như: chính sách tiền lương, nhà ở...
Trên cơ sở nắm vững các nhóm giải pháp đó, các cấp ủy, tổ chức đảng và các bộ chủ trì các cấp triển khai thực hiện ở cấp mình với tinh thần trách nhiệm và ý thức chính trị cao trước Đảng, trước nhân dân và vận mệnh của dân tộc.
Thứ tư, triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Để việc thực hiện Nghị quyết đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, cần phải phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt.
Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chủ yếu, “chống” là quan trọng.
Đồng thời, gắn thực hiện Nghị quyết với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thường xuyên, có hiệu quả. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình, thực hiện Nghị quyết một cách nghiêm túc, tránh nói nhiều làm ít, chỉ nói mà không làm, thờ ơ, vô cảm, đứng ngoài cuộc hoặc có tư tưởng trông chờ, phán xét người khác.
Trong giai đoạn cách mạng mới, yêu cầu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Bởi vậy, việc quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng càng có ý nghĩa thiết thực, góp phần làm trong sạch nội bộ, xây dựng Đảng ngang tầm, lãnh đạo hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

CẦN NGHIÊM TRỊ NHỮNG KẺ ĐỘI LỐT “DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” ĐỂ PHÁ HOẠI ĐẤT NƯỚC

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can với 6 đối tượng trong vụ án “Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” xảy ra tại Hà Nội và một số địa phương. Sau sự việc, trên mạng internet, một số tổ chức, cá nhân đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" cho rằng “Nguyễn Văn Đài vô tội”; đòi Chính phủ Việt Nam phải “trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện đối với Nguyễn Văn Đài”. Những giọng điệu và đòi hỏi trên là hết sức phi lý, bởi đó là việc làm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn là rất rõ ràng.
Dư luận chưa quên những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam của Nguyễn Văn Đài cùng cộng sự Lê Thị Công Nhân vào thời điểm trước năm 2007. Không làm ngơ trước những hành vi, vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội của các đối tượng, Tháng 3 năm 2007, cơ quan chức năng quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân, để điều tra về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Ngày 11 tháng 5 năm 2007, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đưa ra xét xử và tuyên phạt Nguyễn Văn Đài 5 năm tù giam. Ngày 27 tháng 11 năm 2007, tại phiên phúc thẩm, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho Nguyễn Văn Đài xuống còn 4 năm tù giam về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo Điều 88, Bộ luật Hình sự.
Những tưởng sau khi mãn hạn tù Nguyễn Văn Đài sẽ tỉnh ngộ, nhưng không, y vẫn “ngựa quen đường cũ”. Ngay sau khi ra tù, thông qua mạng xã hội, Nguyễn Văn Đài tiếp tục tuyên truyền xuyên tạc lịch sử dân tộc và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước. Trên trang facebook cá nhân, Nguyễn Văn Đài liên tục đăng tải các bài viết có nội dung xuyên tạc chính sách của Nhà nước, tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền. Đặc biệt, Nguyễn Văn Đài đã tập hợp một số phần tử bất mãn, cơ hội... lập ra cái gọi là “Hội anh em dân chủ”. Dưới sự điều hành của Nguyễn Văn Đài, “Hội anh em dân chủ” trở thành nơi tụ tập của những kẻ có tư tưởng, quan điểm sai trái, chuyên xuyên tạc, bịa đặt, kích động, cổ xúy cho những phần tử chống phá Đảng, Nhà nước. Do nhẹ dạ cả tin, một số người trở thành nạn nhân của Nguyễn Văn Đài và “Hội anh em dân chủ” đã lầm đường, lạc lối và phải đối mặt với những bản án nghiêm khắc. Nguyễn Văn Đài còn thường xuyên trả lời phỏng vấn một số đài, báo nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam nhằm tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng... Ngoài việc có mối quan hệ rất mật thiết với tổ chức khủng bố Việt Tân, Nguyễn Văn Đài còn được biết đến với vai trò chủ chốt, khởi xướng cái gọi là “Trung tâm nhân quyền Việt Nam”, “Khối 8406”, “Công đoàn độc lập”, “Liên minh dân chủ nhân quyền Việt Nam”, “Hội Cựu tù nhân lương tâm”... Đó là những hội, nhóm thường xuyên có các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam… Nguyễn Văn Đài còn thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, huấn luyện cách thức “đấu tranh bất bạo động” tại Nhà thờ Thái Hà và nhiều địa phương khác. Nguyễn Văn Đài là cộng tác viên viết blog cho RFA cùng một số trang song ngữ chuyên xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ bức tranh dân chủ, nhân quyền, kích động chống phá Việt Nam. Đáng nói nữa, trên facebook cá nhân của mình, Nguyễn Văn Đài viết nhiều bài có nội dung bịa đặt, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, thóa mạ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Thực chất những hành vi của Nguyễn Văn Đài là nhằm mục đích đầu cơ chính trị, cầu xin những đồng đô la tài trợ từ các thế lực thù địch bên ngoài để kiếm sống và duy trì các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam... Chỉ điểm qua bấy nhiêu thôi đã đủ khẳng định việc cơ quan chức năng khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt giữ Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn để điều tra là cần thiết và hoàn toàn đúng luật.
Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đài và các đối tượng đã rất rõ ràng. Vậy tại sao vẫn có những tổ chức, cá nhân đội lốt “dân chủ", "nhân quyền” đứng ra bênh vực cho Nguyễn Văn Đài cùng đám tay chân?! Không khó để có câu trả lời.
Là dân tộc đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, Việt Nam luôn khát khao hòa bình, ổn định để phát triển và mong muốn đóng góp cho nền hòa bình, phát triển bền vững của nhân loại. Đại đa số các chính giới và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều hiểu rõ tâm nguyện ấy và luôn mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với đất nước, con người Việt Nam. Thế nhưng bên cạnh đó vẫn còn một vài tổ chức, cá nhân vì những động cơ thấp hèn, âm mưu phá hoại Nhà nước Việt Nam, muốn làm cho Việt Nam mất ổn định chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam mất vai trò lãnh đạo; chế độ XHCN ở Việt Nam suy yếu đi đến sụp đổ. Để thực hiện mục tiêu ấy, họ không từ bất cứ thủ đoạn nào, đặc biệt là trò “ném đá giấu tay” ngấm ngầm tổ chức, nuôi dưỡng, xúi giục, kích động những phần tử cơ hội như Nguyễn Văn Đài.
Cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của con người trên tất cả các lĩnh vực. Thế nhưng chủ nghĩa cơ hội đã làm những kẻ như Nguyễn Văn Đài mờ mắt, không thấy được thực tiễn đó. Nhờ sự hà hơi, tiếp sức của một số tổ chức phản động lưu vong, đội lốt "bảo vệ dân chủ, nhân quyền", Nguyễn Văn Đài không chỉ tuyên truyền phủ nhận những thành tựu về nhân quyền của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mà còn kêu gọi, kích động người dân tụ tập biểu tình, gây rối an ninh trật tự. Cũng do mờ mắt trước những đồng đô la kiếm được từ một vài tổ chức, cá nhân ở nước ngoài mà Nguyễn Văn Đài và đám tay chân liên tiếp có những lời nói và hành động mưu toan chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đòi thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng... Chẳng lẽ Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn không thấy được một thực tế đang diễn biến ở không ít quốc gia theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là các đảng phái tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra những rối loạn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tại những quốc gia đó, chẳng những quyền dân chủ của người dân không được bảo đảm, mà tính mạng của họ cũng thường xuyên bị đe dọa... Với một người luôn rêu rao là am hiểu pháp luật như Nguyễn Văn Đài thì không thể nói là thiếu hiểu biết, không nhận thức được vấn đề. Rõ ràng Nguyễn Văn Đài và đồng bọn đã cố tình vi phạm Điều 4, Hiến pháp năm 2013 xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 79, Bộ luật Hình sự, quy định về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.
Ấy vậy mà một vài cá nhân, tổ chức đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" vẫn cố tình cho rằng "Nguyễn Văn Đài vô tội". Họ vu cáo chính quyền Việt Nam khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt giam Nguyễn Văn Đài và đồng bọn là vi phạm nhân quyền. Vì theo họ, Nguyễn Văn Đài và đám tay chân chỉ “bày tỏ chính kiến một cách hòa bình”, chỉ là "thực hiện quyền tự do dân chủ"... Phải khẳng định rằng, ở Việt Nam, không có ai bị bắt giam do bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do của người dân, trong đó có quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận trong khuôn khổ luật pháp. Điều này không chỉ đúng với pháp luật Việt Nam, mà còn hoàn toàn phù hợp với Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền. Tại Điều 29 của Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, khẳng định: “Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người phải chịu những hạn chế do luật định… nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng và nền an sinh chung”. Mang danh "bảo vệ dân chủ, nhân quyền" nhưng chỉ nghe qua những giọng điệu của một vài cá nhân, tổ chức ấy đã đủ thấy họ hoàn toàn không phải vì nhân quyền cho Việt Nam. Thực chất, đó là hành vi bảo vệ, tiếp tay cho những kẻ âm mưu lợi dụng tự do dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do của công dân, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ nhân quyền, nhưng Việt Nam kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu và hành động đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, lợi dụng quyền tự do để chống phá Đảng và chính quyền nhân dân. Ở Việt Nam không có chỗ cho thứ “dân chủ”, “nhân quyền” coi thường kỷ cương phép nước. Vụ án “Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” sẽ được các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra mở rộng theo đúng trình tự tố tụng của Việt Nam. Cũng như ở các quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam, mọi tổ chức, cá nhân có hành vi, vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Đặc biệt đối với Nguyễn Văn Đài, kẻ đã qua 4 năm thụ án, 3 năm quản chế tại địa phương, được các cấp chính quyền, đoàn thể nhiều lần giáo dục, nhắc nhở, răn đe, nhưng vẫn chứng nào tật ấy thì càng cần phải xử lý nghiêm khắc hơn./.

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH LOẠI BỎ NHỮNG THÔNG TIN XẤU ĐỘC NHẰM VÀO CÁN BỘ CẤP CAO CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


Chống phá, làm giảm uy tín, vị thế của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Một trong những thủ đoạn của chúng là tạo thông tin giả mạo, mượn danh nghĩa người khác, mạo danh để bôi nhọ danh dự, uy tín của cán bộ cấp cao, nguyên là cán bộ cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó chúng ta cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ các loại thông tin rác rưởi này.
Bôi nhọ danh dự, hạ thấp uy tín của quân đội, cán bộ quân đội là thủ đoạn không mới, nhưng gần đây lại xuất hiện với tần suất cao một cách bất bình thường. Mới đây, trên một số trang mạng “lề trái” xuất hiện bức thư được cho là của Thiếu tướng Huỳnh Hương (tức Huỳnh Đắc Hương), nguyên Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị gửi Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Bức thư đề cập một số nội dung xuyên tạc, sai lệch, nhằm bôi nhọ danh dự, hạ uy tín của lãnh đạo Bộ Quốc phòng. Cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương về nội dung liên quan đến bức thư. Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương khẳng định rằng: là thế hệ đi trước, cả đời theo cách mạng, sống, chiến đấu và trưởng thành trong môi trường quân đội, tôi luôn tin tưởng quân đội. Đến lúc cơ quan chức năng đưa bức thư ra thì Ông mới biết có bức thư như thế và khẳng định: đã lâu, không viết bất cứ bức thư nào và chữ ký ở bức thư đó là giả mạo chữ ký của Ông. Ông nhấn mạnh thêm, nay đã nhiều tuổi, sức khỏe giảm sút, mắt kém và không biết sử dụng in-tơ-nét. Ông bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng sớm tìm ra người viết bức thư đã giả mạo tên và chữ ký của mình. Như vậy, trắng đen đã rõ, người ta đã giả mạo tên Ông, hòng lợi dụng uy tín cá nhân Ông để nói xấu lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Trò giả mạo chữ ký cán bộ cấp cao của quân đội đã nghỉ hưu để “tham gia”, hoặc bày tỏ thái độ “băn khoăn” trước tình hình đất nước, những vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc dưới dạng “thư ngỏ” hay “kiến nghị” gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước là một thủ đoạn hèn hạ của những kẻ thù địch đối với Việt Nam. Thủ đoạn này không phải là mới, trước đây, chúng đã từng làm. Nhưng điểm khác là ở chỗ, những “thư ngỏ”, “kiến nghị” trước, có nhiều người cùng ký tên, còn nay chỉ cần một người có tên tuổi, uy tín và Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương được chúng lựa chọn để giả mạo là như vậy. Phải chăng chúng làm việc vô đạo đức này là do nắm bắt được tâm lý của nhân dân luôn tin tưởng vào bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của dân? Đặc biệt nếu có tên của những cán bộ cao cấp trong quân đội, nhất là cán bộ cấp tướng có uy tín thì rõ ràng càng tăng thêm sức nặng của “thư ngỏ”, “kiến nghị”. Thông qua việc mạo danh để xuyên tạc, nói xấu cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội, họ hòng đánh lừa dư luận, thực chất là mê hoặc, “đánh cắp” niềm tin của nhân dân vào cán bộ của Đảng, quân đội, tạo tâm lý hoài nghi, giao động, thiếu tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và quân đội, làm nóng dư luận xã hội. Đáng tiếc là một số ít người do thiếu thông tin chính thống nên đã nhẹ dạ, cả tin vào những thông tin xấu độc đó, gây ảnh hưởng không tốt trong dư luận xã hội. Tuy nhiên, sự thật luôn là sự thật, sự thật là chân lý lịch sử. Những kẻ dùng trò xuyên tạc sự thật chỉ có thể lừa bịp được một số người trong thời điểm nhất định, còn về lâu dài vẫn sẽ là “trắng ra trắng, đen ra đen”, không thể “đồng thau lẫn lộn” mãi được.
Lịch sử đã phát xét những hành động “ngậm máu phun người”, “ném đá giấu tay” của kẻ tiểu nhân, vô đạo đức, bất chấp mọi thủ đoạn hòng đạt được mục đích chính trị. Những kẻ nêu ở trên lại đang theo vết xe đổ đó, cố tình vi phạm pháp luật, cần phải lên án, nghiêm trị.
Vì vậy, cần phải cảnh giác và kiên quyết đấu tranh loại bỏ loại thông tin thất thiệt, xấu độc này, nhằm giữ vững uy tín, hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân./.

XUYÊN TẠC CUỘC ĐỜI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA BỌN PHẢN ĐỘNG

Hiện nay, bọn phản động đưa ra những tin tức, sự mô phỏng, thậm chí cả những điều bọn chúng khẳng định như là chắc chắn. Chúng đưa ra những sự kiện, tư liệu, thậm chí cả phim ảnh. Mà đây là những sự thiết kế rất là giả tạo, lắp ghép sự kiện, đánh lẫn lộn với bản chất, lẫn lộn giữa cái thật với cái giả để cố tình xuyên tạc Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng ta biết một điều rất rõ ràng rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với dân với nước. Khi ra đi, ta để ý trên ngực áo của Người trống không, không một tấm huân chương. Người nói: "Hoãn việc trao huân chương cho Bác lại, đợi đến khi miền Nam giải phóng. Đồng bào miền Nam được Quốc Hội cho phép, thay mặt cả nước gắn huân chương cho Bác cũng chưa muộn". Cho nên những sự xuyên tạc, bôi bác, bỉ ổi đó, không đánh lừa được thiên hạ.
Nhưng mà điều này cũng cảnh báo chúng ta, phải rất chú trọng giáo dục cho lớp trẻ. Vì các em, các cháu nó sinh sau, nó không biết được quá khứ, cho nên chúng ta không được để đứt đoạn trong quá trình phát triển của chúng ta bởi vì trong thời buổi nhiễu loạn thông tin thế này. Con người ta chìm ngập chết đuối trong thông tin. Mà vẫn luôn đói khát về trí tuệ. Tức là những thông tin chân chính đích thực. Mà nếu nói một cách tổng quát, người ta coi Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, lại là nhà văn hóa kiệt xuất ở tầm danh nhân văn hóa. Và chỉ riêng điều đó thôi đã thấy Người đã để lại cho dân tộc, và cho cả thế giới nhân loại này những đóng góp vĩ đại như thế nào.
Sự xuyên tạc của kẻ thù rất thâm độc ở chỗ, chúng muốn tách rời Chủ tịch Hồ Chí Minh khỏi Đảng, muốn đối lập Bác Hồ với Đảng ta. Và chúng đưa ra một điều là Đảng cũng suy yếu. Nhất là chúng muốn xóa bỏ giá trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sâu xa ra là muốn đánh đổ chế độ này. Và làm cho Nhân dân ta trở lại cuộc sống bị đọa đầy áp bức. Mà thành quả cách mạng này là tốn bao nhiêu xương máu giành được.
Không bao giờ chúng ta được mơ hồ mất cảnh giác về điều đó./.

LÀM GIẢM NIỀM TIN VÀ CHIA RẼ NỘI BỘ NHỮNG CHIÊU TRÒ MẠO DANH CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch và đối tượng xấu tăng cường sử dụng những thủ đoạn tinh vi để chống phá, chia rẽ nội bộ, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân ta bằng những chiêu trò cũ rích như mạo danh cán bộ có uy tín, nhất là một số cán bộ lão thành có nhiều đóng góp cho cách mạng và người nổi tiếng.
Những đơn thư tố cáo theo kiểu “cáo mượn oai hùm”, “ném đá giấu tay” để bịa đặt, vu khống các lãnh tụ, tiền bối và hạ thấp danh dự, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và Lực lượng vũ trang, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, phá hoại quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Hiện tượng này đã không còn mới và dư luận xã hội cũng đã quen thuộc đến mức ít bận tâm nhưng chúng ta vẫn cần phải khái quát, nhận diện và cảnh giác cao độ trước những chiêu trò mạo danh, chia rẽ nội bộ này để góp phần đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng./.

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

TƯ TƯỞNG "TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA" CỦA LÊNIN - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC

Tư tưởng "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" của Lênin vẫn có giá trị hiện thực với các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn nghiêm túc tuân thủ phương pháp luận được rút ra tư tưởng của Lênin về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong xác định đường lối cách mạng của mình. Cương lĩnh của đảng năm 1991 về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta, đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, trước tình hình Liên xô sụp đổ, Đảng ta vẫn giữ vững niềm tin “loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”, trên cơ sở nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (trong đó có phương pháp luận của Lênin về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa) và thực tiễn quá trình đổi mới với những thành công ban đầu rất quan trọng cùng với sự phân tích những nguyên nhân dẫn đến sụp đổ của Liên Xô sau 70 năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây không phải là một sự áp đặt chủ quan của những người cộng sản như ý kiến của một số người theo khuynh hướng bác bỏ tính từ xã hội chủ nghĩa của Tổ quốc ta ngày nay, viện lý do giản đơn với tính từ đó của Tổ quốc, dân mình không còn nước đề mà yêu. Nói thẳng ra thì với động cơ và lập luận khác nhau, khuynh hướng đó đều nhằm bác bỏ chủ nghĩa xã hội. Nếu là thuần túy vấn đề nhận thức, thì chắc chắn tư tưởng Tổ quốc xã hội chủ ghĩa của Lênin có khả năng giải đáp được. Với quan niệm không có Tổ quốc thuần túy đứng ngoài sự tiến triển của các tổ chức xã hội thì Tổ quốc ta trong thời điểm lịch sử ngày nay không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và sẽ rơi vào con đường tư bản chủ nghĩa. Đương nhiên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang định hướng xây dựng là với tư duy đổi mới. Có thể người ta nghĩ đến con đường thứ Ba nào đó. Nhưng đó là một ý tưởng phiêu lưu. Nhãn tiền, những thử nghiệm về các cuộc “cách mạng màu sắc” ở một số nước đang trên đà phá sản. các nhà nước tư sản do các đảng xã hội dân chủ cầm quyền dù có tích cực điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có vận dụng những bài học của các nước xã hội chủ nghĩa như họ thừa nhận, vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản vốn tồn tại thâm căn cố đế trong các nước tư bản chủ nghĩa.
Sự phản bác chủ nghĩa xã hội còn từ sự sụp đổ của Liên Xô, mà người ta quy kết đó là sai lầm của đảng cộng sản và Lênin đã đưa nước Nga vào con đường xã hội chủ nghĩa. Nói ngược lại mới đúng. Có thể nói chính vì quên tư tưởng của Lênin về “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” mới xảy ra tai họa đó. Khách qua mà nhìn nhận, sự sụp đổ của Liên Xô có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân khá rõ ràng là sự thiếu cảnh giác của Đảng cộng sản và nhân dân Liên Xô đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi đế quốc Mỹ đã thay đổi chiến lược chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trọng điểm là Liên Xô sử dụng cái mà về sau Nixon công khai “chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong chiến tranh lạnh, các nhà lãnh đạo Liên Xô quan tâm hàng đầu là chạy đua vũ trang với Mỹ, để giành ưu thế quân sự đối phó với chiến tranh xâm lược mà it quan tâm tới âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp phi vũ trang.
Sự kiện này đã cảnh báo cho Đảng và quân dân ta trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Hơn bao giờ hết, luận điểm của Lênin về “bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc” phải được quán triệt trong việc quán triệt nghị quyết của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, không chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng và mọi thành quả cách mạng, bảo vệ định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng đối phó với âm mưu vũ trang bạo loạn lật đổ và chiến tranh xâm lược công nghệ cao, đồng thời chống lại có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả “tự diễn biến” từ trong nội bộ hệ thống chính trị do đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa và suy thoái đạo đức, lối sống, của cán bộ, đảng viên.

TƯ TƯỞNG "TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA LÊNIN" - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Tư tưởng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Lênin có giá trị thực tiễn lịch sử to lớn. Trước hết là công phá tư duy cũ về Tổ quốc - tư duy đã kìm giữ các giai cấp, tầng lớp xã hội bị áp bức trong khuôn khổ “bảo vệ Tổ quốc tư sản”, để các Đảng cộng sản không ủng hộ các nhà nước tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc, mà kiên quyết trong hành động cách mạng lật đổ các chế độ chuyên chế phong kiến và tư sản. Có thể nói không có quan niệm đó của Lênin thì khó có thể ra đời chính thể cộng hòa  xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, sản phẩm của cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917.
Với quan niệm thống nhất Tổ quốc với chế độ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng bảo vệ đất nước, đã phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở cố kết chặt chẽ các dân tộc trong liên bang với tuyệt đại đa sô nhân dân lao động, nòng cốt là liên minh giai cấp vô sản với nông dân nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản mà đứng đầu là Lênin. Đó là một nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để nước Nga có sức mạnh giữ vững được chính quyền Xô Viết non trẻ, bị thù trong giặc ngoài tấn công uy hiếp. Chiến thắng vang dội toàn cầu của nhân dân Liên Xô trong đại chiến thế giới thứ II cứu tổ quốc mình và nhân loại khỏi tai họa phát xít càng biểu hiện giá trị thực tiễn của quan niệm về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Lênin.

GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ NÒNG CỐT CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN TRONG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

 Một làthường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng dự báo chiến lược, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Đây là nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bởi vậy, Quân đội nhân dân phải thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chiến lược, làm cơ sở để tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng đúng đắn, khoa học, có đối sách phù hợp, kịp thời xử lý kiên quyết, thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ về chiến lược.
Hai làphát huy vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách đó, Quân đội cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và đặc điểm, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương. Cùng với xây dựng lực lượng và tiềm lực, cần tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến lược, khu vực biên giới, biển, đảo.
Ba làtập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Quân đội nhân dân,… là nòng cốt”. Như vậy, Quân đội không chỉ là chủ thể, mà còn là đối tượng cần được xây dựng, bảo đảm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Bốn làđẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Quân đội nhân dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đưa công tác đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, bền vững. Tăng cường hợp tác với các nước cả trên bình diện song phương và đa phương; ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng, củng cố, phát triển mối quan hệ với các nước lớn, coi trọng hợp tác với ASEAN và các nước bạn bè truyền thống, nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm lànâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan, đơn vị toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác xây dựng Đảng. Trọng tâm là các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các quy chế, quy định của Đảng.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, nhiệm vụ này lại càng quan trọng, cấp thiết. Với niềm tự hào dân tộc, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, toàn quân sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng, cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

PHÁT HUY VAI TRÒ NÒNG CỐT CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC

Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, Quân đội nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước có quyết sách đúng đắn, xử lý kiên quyết, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, cả trên không, trên biển, biên giới và nội địa, không để bị động, bất ngờ; phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Đồng thời, tích cực triển khai toàn diện và thực hiện có hiệu quả các mặt công tác: huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, khoa học công nghệ, đối ngoại quốc phòng... Đời sống, sinh hoạt của bộ đội ngày càng được cải thiện; chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội ngày càng được nâng lên.
Toàn quân đã chú trọng thực hiện tốt công tác dân vận, thắt chặt tình đoàn kết “Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”1; tích cực tham gia giúp đỡ nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu nạn, góp phần tô thắm phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, cùng nhân dân củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Đảng bộ Quân đội và toàn quân luôn quán triệt, thực hiện tốt phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đã có nhiều chủ trương, biện pháp củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân, gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện. Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn gương mẫu đi đầu, chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những kết quả, thành tích mà Đảng bộ Quân đội và toàn quân đạt được trong thời gian qua có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị - xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.

PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM, VUN ĐẮP QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN

40 năm qua kể từ sau Chiến thắng ngày 7-1-1979, mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam- Campuchia được các thế hệ Lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước.
Việt Nam và Campuchia duy trì thường xuyên các chuyến thăm lẫn nhau của Lãnh đạo cấp cao, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và giao lưu nhân dân hai nước. Nhờ đó, đã góp phần vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam- Campuchia ngày càng phát triển đi vào chiều sâu và có hiệu quả thiết thực trên các lĩnh vực.
Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch giữa hai nước Việt Nam- Campuchia phát triển nhanh. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng trung bình khoảng 30-40%/năm, đã đạt 3,8 tỷ USD vào năm 2017. Trong 7 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 18,7 % so với cùng kỳ năm 2017. Hiện nay, Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn thứ ba và đứng thứ năm trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Campuchia. Việt Nam có trên 190 dự án đầu tư sang Campuchia được cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.
Hợp tác trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, giáo dục- đào tạo, du lịch… giữa hai nước tiếp tục phát triển. Campuchia đã tích cực hỗ trợ và giúp đỡ Việt Nam trong công tác tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sỹ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam hy sinh trên đất Campuchia qua các thời kỳ chiến tranh.
Trong thời gian tới, dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Campuchia sẽ cùng nhau cảnh giác, đấu tranh với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi bị kích động và thứ văn hóa bôi nhọ, vu khống, kích động, gây chia rẽ để không ngừng tăng cường hơn nữa quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện, vun đắp hơn nữa cho mối quan hệ này phát triển tốt đẹp, mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, vì lợi ích của nhân dân Việt Nam và Campuchia, vì hòa bình và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới.

NGƯỜI ĐẢNG VIÊN PHẢI ĐẶT LỢI ÍCH CỦA ĐẢNG LÊN TRÊN HẾT

Trong bài “Đạo đức cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí minh viết: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” (đăng trên Tạp chí học tập số 12 tháng 12 năm 1958).
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng. Theo Bác, đạo đức không chỉ là “gốc”, là nền tảng, là sức mạnh và nhân tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo của lòng cao thượng của con người, là gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Đối với người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, thì điều đầu tiên và vô luận trong mọi hoàn cảnh phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Ở đây, chính là việc người đảng viên thực hiện trọn vẹn lời hứa tại Lễ kết nạp đảng viên và giải quyết tốt ba mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc).
Người đảng viên có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người đảng viên thật sự có đức thì bao giờ cũng luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết và là tấm gương sáng về tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; thuyết phục, chinh phục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền bằng chính đạo đức cách mạng, năng lực, trách nhiệm, tinh thần chịu đựng, vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tâm, tận lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; luôn giữ vững và không ngừng phát huy tốt phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc xây dựng, rèn luyện và phát huy tính tiền phong gương mẫu, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp.

NÊU GƯƠNG – KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG

Nói về khái niệm, nêu gương, hay làm gương (exemple) là làm mẫu; là tạo ra một mẫu mực cho người khác học và làm theo. Làm gương và noi gương là một quá trình hình thành các tập quán, tập tính, hay nói cách khác, là cách mà con người xã hội hóa nhân cách cá nhân. Nói một cách nôm na, đơn giản, các hành động noi gương hay làm theo gương của người khác là “bắt chước”, học tập, thực hành...Vì vậy nêu gương và noi gương, trước hết là một phạm trù của giáo dục, của lãnh đạo.
Vấn đề nêu gương được chú ý như một phương thức quản trị xã hội được nói đến trong các lý thuyết triết học, chính trị từ thời cổ đại, ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Con người và ngay cả thế giới động vật nói chung để sinh tồn, trước hết phải thông qua các hành vi bắt chước, làm theo, học tập từ các hành vi mẫu. Nhờ đó, hình thành các loại hành vi mang tính chuẩn mực của đời sống cộng đồng, xã hội, của loài.
Trong đời sống xã hội, nêu gương chủ yếu được nhấn mạnh ở việc thực hành các chuẩn mực xã hội (đạo đức, pháp luật...). Như vậy, nêu gương hay làm gương luôn phải đi kèm với noi gương, học tập và làm theo các tấm gương ấy. Nói gọn lại, nêu gương và noi gương là loại hành vi thuộc tính của xã hội loài người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực lãnh đạo, quản lý. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất hiểu và vận dụng khéo léo, hợp lý các nguyên lý, bản chất nêu gương của Đông - Tây. Suốt đời Người thực hành nêu gương, làm gương và noi gương; và chính Người đã trở thành tấm gương sáng trong lịch sử cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Làm người lãnh đạo (dẫn đường) phải có nhiều phẩm chất, nhưng một trong những phẩm chất quan trọng nhất là đi tiên phong, phải làm gương cho người theo sau. Người nói, đảng viên đi trước, làng nước theo sau và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. 
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nêu gương luôn là một phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dù phải chịu tra tấn, tù đày, án chém, bom đạn, đói khát... đảng viên của Đảng là những tấm gương hy sinh tất cả, vì thắng lợi của cách mạng. Trong hòa bình xây dựng đất nước, nhiều đảng viên của Đảng cũng phải lao tâm khổ trí, chịu nhiều thiệt thòi, quyết tìm tòi con đường đổi mới; gắn vận mệnh đổi mới với vận mệnh đất nước, gia đình, bản thân; sướng khổ, vui buồn cùng những thăng trầm của đất nước, của sự nghiệp đổi mới.

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG NÊU GƯƠNG CỦA HỒ CHÍ MINH

Sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (02-9-1969), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại! Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”.
Đảng chú trọng công tác xây dựng, tự chỉnh đốn và đã đạt được nhiều kết quả tích cực; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, yếu kém và có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong tình hình như thế, Đảng đã mở cuộc vận động lớn từ năm 2007 về học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản quy định về trách nhiệm nêu gương, về những điều đảng viên không được làm. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) thông qua quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Từ học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh đến cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo cấp cao tự nêu gương, là bước tiến quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong nhận thức và hành động, nói và làm.
Trước hết, nêu gương là tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với mục tiêu, con đường cách mạng gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng, bảo đảm đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và thành công như ngày nay. Dù thế giới có đổi thay, dù còn phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, song lý tưởng và mục tiêu cao cả của cách mạng mãi soi sáng nhận thức và hành động của mọi cán bộ, đảng viên và mỗi người bằng hành động, việc làm cụ thể, phấn đấu hết sức mình, nêu gương trước nhân dân vì khát vọng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Trách nhiệm nêu gương đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu, tự giác chấp hành Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không có bất cứ hành động hay phát ngôn trái với đường lối, quan điểm của Đảng, gây tổn hại đến uy tín và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; hoàn thành tốt nhất trọng trách, nhiệm vụ được giao với tinh thần suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân. Khi trách nhiệm được đề cao, có thể khắc phục được những khó khăn, hạn chế, yếu kém. Đảng cũng nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu trong xử lý các mối quan hệ với tổ chức đảng và chính quyền; gương mẫu thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương về đạo đức, lối sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không sa vào chủ nghĩa cá nhân, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không bị lợi ích vật chất cám dỗ, không bị chi phối bởi “lợi ích nhóm”. Đồng thời, có lối sống khiêm tốn, giản dị, gần dân, hiểu dân, hòa đồng và thấu hiểu con người; có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, ăn ở với nhau có tình có nghĩa như Bác Hồ căn dặn. Nêu gương và đóng góp tích cực vào công tác xây dựng Đảng về đạo đức như Đại hội XII của Đảng đề ra, góp phần làm rõ những chuẩn mực đạo đức trong Đảng và giáo dục đạo đức trong xã hội.
Đối với cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo phải ra sức rèn luyện, nêu cao bản lĩnh chính trị, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động và sáng tạo. Từ trí tuệ, năng lực và nhân cách của mình mà phấn đấu, cống hiến cho Đảng, đất nước và xã hội, không cơ hội chính trị, không chạy chức, chạy quyền, không tham vọng quyền lực hoặc lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi, xếp đặt chức quyền cho người nhà, người thân. Khi tự mình thấy không có đủ năng lực và uy tín hoặc để xảy ra vụ việc nghiêm trọng thuộc trách nhiệm lãnh đạo, quản lý thì nên chủ động từ chức. Cùng với đó, cán bộ, đảng viên cần nêu gương về lập trường quan điểm, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện tốt những quy định về trách nhiệm nêu gương được Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) ban hành là sự phát triển quan trọng trong nhận thức, hành động để tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức và đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm tốt những quy định đó, sẽ củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với dân tộc và nhân dân. Từ những quy định của Đảng trở thành hành động tự giác của cán bộ, đảng viên đã làm cho tính Đảng được đề cao; tính tiền phong cách mạng của Đảng ngày càng được bồi đắp và phát triển. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng, rèn luyện rất cao theo các tiêu chí đã xác định, đảm bảo tính giáo dục sâu sắc; đồng thời, rất cần sự động viên, tôn vinh để trong Đảng, toàn xã hội có được nhiều tấm gương cao đẹp để tôn vinh và nhân rộng.

TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ NÊU GƯƠNG CỦA HỒ CHÍ MINH

Để đi đến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về chính trị, tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ và giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo những chiến sĩ yêu nước trở thành người cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Người đặt lên hàng đầu tư cách một người cách mệnh với 23 điểm. Theo Bác, người cách mạng tư cách phải chuẩn mực; thật sự là tấm gương trong các mối quan hệ: với chính mình, với người khác, với công việc. Bác đã nêu rõ những yêu cầu có tính chuẩn mực đó: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”.
Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Hồ Chí Minh nêu ra 12 điều về Tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Tư cách ở đây chính là sự nêu gương, là tấm gương của sự phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Đảng thật sự nêu gương khi xác định: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Người đặc biệt nhấn mạnh sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Để trở nên người cách mạng chân chính, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nêu cao đức tính tốt đẹp: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; phải tránh xa những thói xấu như lười biếng, gian giảo, tham lam và những thói xấu khác. Đồng thời, Người nêu rõ bổn phận của mọi cán bộ, đảng viên là: cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến chống ngoại xâm, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, nêu gương trước quần chúng, chấp nhận gian khổ, kể cả hy sinh tính mạng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Hồ Chí Minh luôn đề cao những tấm gương hy sinh của các đồng chí: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v. Các đồng chí đó “đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước, thực hiện sứ mệnh Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ, quyền hạn trong bộ máy của Đảng, Nhà nước gắn với chế độ hưởng thụ quyền lợi vật chất càng đòi hỏi sự nêu gương, “gương mẫu trong mọi công việc”; không màng danh lợi, giàu sang, quyền chức; được giao công việc gì cũng hoàn thành tốt nhất. Đó là sự nêu gương chân thành và tự giác.
Sinh thời, Người thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau, coi đó là lời khen chân thành của nhân dân và cũng là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nêu gương tức là gương mẫu, đi đầu, thể hiện tính tiền phong, bản chất cách mạng và khoa học của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên. Người nêu rõ: “Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta đã tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang”.
Suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng - tấm gương cao đẹp nhất của người cộng sản, của người lãnh đạo suốt đời vì nước, vì dân. Người nêu gương suốt đời trong học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện, đặt lợi ích của cách mạng, của quốc gia, dân tộc, cuộc sống của nhân dân lên trước hết, trên hết. Ngày 14-7-1969, trả lời nữ nhà báo Cu-ba, Hồ Chí Minh nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Nghị quyết của Đại hội đồng UNESSCO khóa 24 (họp từ 20-10 đến 20-11-1987) đã suy tôn và công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG ĐỘI QUÂN LAO ĐỘNG SẢN XUẤT TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất trong thời kỳ đổi mới, ngoài các hoạt động tăng gia, sản xuất tại doanh trại ở các đơn vị thường trực để cải thiện đời sống bộ đội, các doanh nghiệp Quân đội (ngoài nhiệm vụ duy trì sản xuất sản phẩm quốc phòng đáp ứng nhu cầu thường xuyên, được phép sản xuất thêm mặt hàng kinh tế) đã góp phần vào xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân. Nhiều doanh nghiệp Quân đội đã trở thành trụ cột của nền kinh tế, có đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, như: Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng Công ty 36, v.v. Các đoàn kinh tế - quốc phòng đứng chân ở những vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, ngoài nhiệm vụ giúp nhân dân địa phương phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, còn trực tiếp làm nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên những địa bàn chiến lược, trọng điểm. Những hoạt động đó đã tô thắm thêm và tỏa sáng hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân trước điều kiện mới.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG ĐỘI QUÂN CÔNG TÁC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Thực hiện chức năng đội quân công tác, toàn quân thường xuyên đẩy mạnh công tác dân vận với nhiều nội dung, hình thức đa dạng và phong phú; chủ động, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Chỉ trong 5 năm (2013 - 2018), Quân đội đã tham gia củng cố hơn 4.000 chi bộ Đảng, 5.300 tổ chức chính quyền, 23.000 tổ chức chính trị - xã hội, xóa tình trạng “trắng” đảng viên ở 107 thôn, bản; phối hợp tổ chức giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho hơn 20 triệu lượt người; đào tạo nghề cho 525 y tá, y sĩ thôn, bản. Các đơn vị đã giúp đỡ nhân dân hơn 2 triệu ngày công lao động xây dựng nông thôn mới, tặng Nhà Tình nghĩa; tổ chức hơn 2.000 đợt khám, chữa bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc miễn phí cho hơn 2,5 triệu lượt người với tổng trị giá hơn 300 tỷ đồng. Ngoài ra, Quân đội còn tích cực, chủ động tham gia duy trì, bảo tồn và phát triển bền vững các tộc người, dân tộc rất ít người, như: tộc người thiểu số Đan Lai ở Nghệ An; dân tộc La Hủ ở Lai Châu; dân tộc Chứt ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, v.v. Cùng với đó, các đơn vị còn phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số xóa bỏ hủ tục; tham mưu xây dựng nhiều mô hình phát triển văn hóa, điểm sinh hoạt tín ngưỡng phù hợp với điều kiện địa lý, tình hình kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã cử 332 cán bộ tham gia chính quyền cấp xã; trong đó, 260 người giữ chức vụ trong cấp ủy.
Với quan điểm tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, những năm qua, Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ này. Trong 5 năm (2013 - 2018), Quân đội đã huy động hơn 1,3 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ và gần 30.000 lượt phương tiện giúp dân phòng, tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; cứu hộ, cứu nạn được hơn 10.000 phương tiện và gần 18.000 người dân. Qua đó, thiết thực tăng cường quan hệ máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, góp phần xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội lăn lộn trong gian khó, sáng tạo trong tổ chức giải cứu 12 công nhân bị sập hầm ở thủy điện Đạ Dâng (Lâm Đồng); dầm mình trong bão, lũ để di chuyển, cứu tính mạng và tài sản của nhân dân trong những năm qua, có khi còn hy sinh cả tính mạng của mình, đã để lại trong lòng nhân dân nhiều tình cảm tốt đẹp./.

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

THỰC HIỆN CHỨC NĂNG ĐỘI QUÂN CHIẾN ĐẤU CUẢ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

Những năm gần đây, với âm mưu thúc đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội ta, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách hòng làm lu mờ, phai nhạt, đi đến phủ nhận giá trị văn hóa quân sự độc đáo này. Chúng dùng mọi thủ đoạn để xuyên tạc bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ra sức phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội; kêu gọi Quân đội đứng ngoài chính trị, v.v. Lợi dụng những khuyết điểm của một vài quân nhân, cơ quan, đơn vị đơn lẻ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; nhất là những khuyết điểm trong quá trình tham gia phát triển kinh tế, quản lý đất quốc phòng, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội,… chúng xuyên tạc rằng: “Bộ đội thời nay, trong bối cảnh kinh tế thị trường không còn là “Bộ đội Cụ Hồ” nữa; không còn tập trung cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ chủ quyền, biển, đảo của Tổ quốc; không còn là bộ đội của dân, chiến đấu, hy sinh vì nhân dân”(!), v.v. Bên cạnh đó, chúng còn âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, chiến sĩ Quân đội; qua đó, hòng làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta; làm phai nhạt phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng. Các thủ đoạn đó thật nham hiểm và đều nhằm mục tiêu làm biến chất Quân đội nhân dân Việt Nam, hạ thấp uy tín của Quân đội ta trong xã hội, xóa bỏ biểu tượng “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân; chia rẽ Quân đội với Đảng, với nhân dân; trên cơ sở đó, vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn hoạt động xây dựng, thực hiện các chức năng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm qua đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc nói trên và chứng minh một sự thật hiển nhiên là: Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy, lực lượng chiến đấu sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ giữ gìn, phát huy và tỏa sáng trên mọi hoạt động. Thực hiện chức năng đội quân chiến đấu, Quân đội đã chủ động phối hợp cùng các lực lượng khác, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự trong tình hình mới; đề ra đối sách phù hợp, xử lý thắng lợi các tình huống phức tạp, các vấn đề nhạy cảm về quốc phòng - an ninh. Các đơn vị trong toàn quân luôn ra sức huấn luyện, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, làm chủ các loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại; thường xuyên rèn luyện, chấp hành kỷ luật, nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, làm tốt nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt cùng nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Hình ảnh những cán bộ, chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa và lực lượng Cảnh sát biển ngày đêm chắc tay súng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc; bảo vệ ngư trường truyền thống cho ngư dân và kịp thời cứu hộ, cứu nạn khi ngư dân gặp hiểm nguy là sự tiếp nối truyền thống “vì nhân dân quên mình” của Quân đội ta; tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu ở thời kỳ mới. Mặt khác, Quân đội đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành, đoàn thể và cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng tiềm lực và thế trận của nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng tiềm lực và thế trận của nền an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, nhất là trên các hướng, địa bàn chiến lược, trọng điểm, biên giới, hải đảo. Các đơn vị Quân đội đứng chân trên các địa bàn cũng chủ động, tích cực làm nòng cốt cùng cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), Nghị định 152/2007/NĐ-CP và Nghị định 02/2016/NĐ-CP của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ. Bên cạnh đó, Quân đội luôn là lực lượng đi đầu trong đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc về phương diện chế độ chính trị.