Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019

ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CHỐNG TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

Đây là mặt trận nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay, bởi các thế lực thù địch luôn coi mặt trận này là đòn bẩy nhằm thúc đẩy nhanh hơn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Để đấu tranh có hiệu quả, trước hết, cần chú trọng thực hiện tốt hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận trong Quân đội, bảo đảm lực lượng này có đủ phẩm chất, năng lực, nhạy bén, sắc sảo để có thể theo kịp sự vận động, phát triển và đấu tranh với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt của kẻ thù. Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải hướng trọng tâm vào việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch. Thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao cảnh giác cho bộ bội trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; đặc biệt là các chiêu trò sử dụng internet, mạng xã hội để tuyên truyền, kích động, hòng làm lung lạc nhận thức và ý chí của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị thường xuyên làm tốt công tác định hướng, quản lý tư tưởng trong đơn vị trước những vấn đề nhạy cảm, được dư luận xã hội quan tâm.
Toàn quân cần tổ chức đấu tranh rộng rãi trên mọi phương tiện, với mọi lực lượng, bằng nhiều hình thức, biện pháp; trong đó, quan tâm bồi dưỡng lực lượng nòng cốt, chuyên sâu có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực, trình độ lý luận và dũng khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù trong mọi tình huống. Đồng thời, bảo đảm tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ; xây dựng cơ chế cung cấp thông tin nhanh, nhạy, kịp thời cho các lực lượng nhằm động viên, khuyến khích đông đảo quân nhân tham gia, hình thành thế trận đấu tranh rộng khắp, nhiều tầng, nhiều lớp, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm thất bại âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.
Đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là yêu cầu, nhiệm vụ và trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ hiện nay, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN, CƠ HỘI, THỰC DỤNG, QUAN LIÊU ĐỂ PHÒNG CHỐNG TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

Các yếu tố trên chính là kẻ thù hết sức nguy hiểm, phá hoại từ trong nội bộ, làm suy yếu sức mạnh của tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng trở nên phức tạp. Để thực hiện tốt nội dung này, các cấp ủy đảng trong Quân đội cần quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm, chủ trương, quyết tâm và “khí thế” của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, không nể nang, né tránh”, từng cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; nhận diện và đánh giá đúng mức độ nguy hại của suy thoái, biến chất đối với cán bộ, đảng viên, quân nhân; chỉ rõ ở cơ quan, đơn vị mình có chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, các tiêu cực khác và có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hay không? Nếu có thì đó là ai, phạm vi, tính chất, mức độ như thế nào? Trên cơ sở đó, xác định biện pháp khắc phục, giáo dục, rèn luyện, xử lý nghiêm minh, triệt để, không bao che, dung túng, không sợ khuyết điểm; tránh tình trạng đánh giá chung chung, né tránh, hình thức; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Đồng thời, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ trong các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên phải thực sự được bàn bạc, tham gia giám sát mọi mặt hoạt động của đơn vị thông qua các tổ chức đảng, chính quyền, quần chúng; khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền...
Xây dựng cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin tiêu cực, sai trái, khuất tất trong các cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì theo Quy định 08 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), không để tình trạng tranh công, đổ lỗi, gây mất đoàn kết nội bộ. Tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên, tổ chức đảng trong chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng; kiên quyết xử lý nghiêm đảng viên, tổ chức đảng vi phạm. Thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đơn vị.

GIẢI PHÁP CHĂM LO GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN, QUẦN CHÚNG ĐỂ PHÒNG CHỐNG BIỂU HIỆN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả từ nhiều nguyên nhân, song cốt lõi là do một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; vi phạm nguyên tắc, điều lệ Đảng, nói không đi đôi với làm, thoái hóa, biến chất về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Vì vậy, cần chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa yêu nước, nền tảng văn hóa Việt Nam, truyền thống Quân đội, đơn vị,... làm cho bản chất giai cấp công nhân thấm sâu và phát triển vững chắc trong tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên; từ đó, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng. Đồng thời, phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; có tinh thần tự giác, tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng; không ngừng nâng cao kiến thức, năng lực công tác, tận tụy, tâm huyết với công việc, gắn bó với cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên cập nhật tình hình, làm cơ sở để giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch, nhất là các hoạt động chống phá trên không gian mạng. Qua đó, nâng cao khả năng miễn dịch cũng như trình độ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch cho cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với đó, cần quan tâm bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; xây dựng môi trường văn hóa phong phú, tốt đẹp, lành mạnh để Quân đội trở thành nơi nuôi dưỡng nhân cách, phẩm chất tốt đẹp cho mọi quân nhân. Từ đó, tăng cường sức đề kháng, tạo “màng lọc” ngăn chặn văn hóa ngoại lai, phản động, phản tiến bộ xâm nhập vào Quân đội. Đó là cơ sở để ngăn ngừa tác động từ bên ngoài, làm vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch.

GIẢI PHÁP GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI ĐỂ PHÒNG CHỐNG BIỂU HIỆN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi mục tiêu cốt lõi của chiến lược “Diễn biến hòa bình” cũng như hệ quả cuối cùng của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, phải thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương đối với Quân đội; bảo đảm cho Quân đội luôn tuyệt đối trung thành và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống. Vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay là phải củng cố, kiện toàn, xây dựng hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đủ sức lãnh đạo toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, gắn xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị, giữa đảng viên với quần chúng, giữa cán bộ với chiến sĩ. Xây dựng đơn vị thực sự đoàn kết, thống nhất cao, nhất là đoàn kết trong cấp ủy, chỉ huy và chính ủy, chính trị viên các cấp.
Cùng với đó, phải quan tâm giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác tốt, hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Công tác bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ phải bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, chính xác; quan tâm làm tốt công tác chính sách, giải quyết triệt để, thấu đáo tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng, tạo động lực để họ phấn đấu và cống hiến. Đó là yếu tố quan trọng để triệt tiêu mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

NHẬN DIỆN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những nguy cơ đe dọa tới sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; là cách thức để các thế lực thù địch thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội. Vì vậy, nhận diện và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề xã hội, có căn nguyên từ những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, quản lý của Nhà nước đối với xã hội; sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược “Diễn biến hòa bình”; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng, v.v. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Đảng ta nhận diện với những biểu hiện cụ thể; đồng thời xác định: chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Trong Quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tuy chưa có biểu hiện rõ nét, phạm vi không rộng, tính chất chưa nghiêm trọng, song nó đang hiện hữu và ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi đó là một nội dung trọng tâm trong tổng thể các nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN CÔNG LAO, VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Không thể lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết mà cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, lạc hậu; Quốc tế Cộng sản đã mất đi giá trị. Chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử hiện đại và có sức lôi cuốn, tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn nhân loại. Sự tổn thất to lớn của chủ nghĩa xã hội từ gần 3 thập niên trước đã chứng minh rằng, đảng nào kiên định và đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thì cách mạng thành công, đảng đó giữ được vai trò lãnh đạo. Mọi sự vi phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực hiện sai đường lối mà Quốc tế Cộng sản đã vạch ra, thì đều dẫn đến hậu quả nguy hại đối với chính sự tồn vong của đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Việt Nam sớm trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới do có sự ảnh hưởng và đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, thông qua đường lối và chương trình hành động của Quốc tế Cộng sản; tạo điều kiện thuận lợi cho những người Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước. Đồng thời, tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo cho cách mạng Việt Nam đội ngũ cán bộ vững vàng,… là những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Quốc tế Cộng sản, chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị trường tồn của Quốc tế Cộng sản; tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thúc đẩy cách mạng tiến lên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Đó là câu trả lời rõ ràng của chúng ta trước mưu đồ của các thế lực thù địch mưu toan chống phá, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin và giá trị to lớn của Quốc tế Cộng sản.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐỊNH RA CHIẾN LƯỢC, SÁCH LƯỢC ĐÚNG ĐẮN CHO PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

Minh chứng cho điều này là, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản thông qua cương lĩnh, kêu gọi nhân dân toàn thế giới kiên quyết đấu tranh chống phát-xít, ngăn chặn bàn tay đẫm máu của chúng. Đồng thời, đề ra các đối sách bảo vệ Liên Xô, bảo vệ thành trì cách mạng và nền hòa bình thế giới trước sự tấn công hủy diệt của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra. Sự đối mặt của Quốc tế Cộng sản với chủ nghĩa phát xít đã làm nổi bật tính chất cách mạng, nhân đạo, hòa bình và sự dũng cảm của tổ chức quốc tế này. Quốc tế Cộng sản cũng góp phần quyết định đến chất lượng bồi dưỡng, giáo dục các thế hệ cán bộ lãnh đạo của các đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản trẻ tuổi và làm cho các đảng đó trở thành đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản phát triển và trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tích lũy được nhiều kinh nghiệm, giá trị trong đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh đế quốc và phát xít, vạch mặt bọn cơ hội, xét lại; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quốc tế Cộng sản đã phát triển toàn diện vấn đề dân tộc, thuộc địa, vạch ra con đường, chiến lược đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc; phối hợp hành động giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tích cực giúp đỡ các dân tộc trong đấu tranh vì độc lập, tự do. Trọng tâm trong sự nghiệp của mình là Quốc tế Cộng sản đã rất quan tâm đến vấn đề cách mạng thuộc địa, nhìn rõ mối quan hệ giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh, trong đó có Việt Nam; qua đó, góp phần làm gắn bó giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa. Cùng với sự chiếu rọi từ ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, sự quan tâm giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản là nhân tố rất quan trọng làm thức tỉnh nhân dân các dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên chống đế quốc, thực dân, giành độc lập, đưa đất nước phát triển theo xu hướng mới. Đó vừa là thành tựu về thực tiễn, vừa là giá trị về tư tưởng, lý luận của Quốc tế Cộng sản.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐÃ KẾT HỢP CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN TRÊN PHẠM VI TOÀN THẾ GIỚI

Với sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản và V.I. Lênin, khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” của C.Mác đã được phát triển thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó không chỉ thể hiện sự phát triển về mặt lý luận, mà còn phản ánh sự lớn mạnh của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trong thực tiễn. Điều đó làm cho Quốc tế Cộng sản ngày càng phát triển, trở thành người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Từ khi thành lập Quốc tế Cộng sản đến khi tuyên bố tự giải tán (năm 1943), phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, có bước tiến dài, vững chắc. Sự hình thành, phát triển, tiến bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các đảng cộng sản theo lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin là dấu ấn nổi bật, thể hiện công lao không thể phủ nhận của Quốc tế Cộng sản.
Trong hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Quốc tế Cộng sản đã tổ chức 7 kỳ đại hội. Qua mỗi kỳ đại hội, cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng tiến bộ, trưởng thành. Một loạt đảng cộng sản, đảng công nhân ở nhiều nước đã ra đời, trực tiếp lãnh đạo và đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ở mỗi nước. Năm 1919, chỉ có 10 đảng cộng sản tham gia Quốc tế Cộng sản, đến năm 1921, con số này đã lên đến 48. Quốc tế Cộng sản hoạt động theo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tổ chức cũng như khi thảo luận thông qua các văn kiện về nhiệm vụ chiến lược, cương lĩnh, luôn bảo đảm đoàn kết, nhất trí, ngăn ngừa những phần tử cơ hội, hữu khuynh, phần tử “phái giữa” chống phá và chui vào tổ chức; bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất và bản chất cách mạng của Quốc tế Cộng sản. Đó là yếu tố đảm bảo chắc chắn cho sự trong sạch, vững mạnh của các đảng cộng sản để các đảng đủ sức làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN CÓ CÔNG LAO TO LỚN TRONG VIỆC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Ngay sau khi Ph. Ăngghen qua đời (năm 1895), các phần tử cơ hội, xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác đã lên nắm quyền lãnh đạo và lũng đoạn Quốc tế II (1889 - 1914), đòi “hạ bệ chủ nghĩa Mác”; muốn thay chủ nghĩa Mác bằng hệ tư tưởng tư sản. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền hệ tư tưởng phản động trong phong trào cộng sản và công nhân; đưa ra luận thuyết ảo tưởng “hòa bình giai cấp” và chủ trương “chủ nghĩa tư bản hòa bình nhập vào chủ nghĩa xã hội”. Nguy hiểm hơn, họ còn công khai đứng về phía giai cấp tư sản - kẻ thù của giai cấp công nhân, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, chống lại những người Bonsevich.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời đã đập tan những ảo tưởng đó của bọn cơ hội, xét lại. Những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mác-xít khoa học và cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm “lầm đường, lạc lối” của phái “tả khuynh”, cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó không những làm trong sạch phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển mới và đúng hướng của phong trào. Lịch sử ra đời và tồn tại của Quốc tế Cộng sản cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ chống các phần tử cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, để khẳng định, bảo vệ và phát huy những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn. Đó là công lao to lớn đầu tiên của Quốc tế Cộng sản.

NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG VỀ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Thực hiện nội dung này, trước hết cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một nội dung rất cơ bản, cần thực hiện tốt trong tình hình hiện nay. Trong thực tế, chúng ta làm chưa thật tốt vấn đề này. Trong công tác tôn giáo còn nặng về tuyên truyền pháp luật, pháp lệnh, xử lý tình huống, việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo chưa thật sự được chú trọng, thậm chí có nơi, có lúc vấn đề này còn bị xem nhẹ, nên hiệu quả công tác tôn giáo không cao. Muốn đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch, đòi hỏi các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các lực lượng, chủ thể trực tiếp làm nhiệm vụ này, mọi cán bộ, đảng viên phải nắm vững những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Giáo dục cho mọi người, kể cả đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo và đồng bào không tín ngưỡng, tôn giáo có hiểu biết cần thiết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn gốc, bản chất, tính chất, chức năng, vai trò của tôn giáo trong lịch sử, trong đời sống xã hội. Tín ngưỡng, tôn giáo nẩy sinh từ sự bất lực của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Giáo dục cho đồng bào những vấn đề cơ bản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo; về việc đấu tranh chống sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống lại nhân dân, phá hoại cách mạng…; về việc không được tuyên chiến với tôn giáo, bởi vì, tuyên chiến với tôn giáo “đó chỉ là một luận điệu vô chính phủ chủ nghĩa”
Có thực hiện tốt việc giáo dục, trang bị hệ thống tri thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tri thức về tín ngưỡng, tôn giáo, thì mới tạo được cơ sở khoa học vững chắc cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tiếp thu, hình thành, phát triển thế giới quan và niềm tin khoa học. Từ đó, tạo cơ sở khoa học vững chắc trong quá trình đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.
Trong tình hình mới, cần đặc biệt chú trọng giáo dục tuyên truyền quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo. Làm cho toàn xã hội thấy rõ, trong quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; luôn coi đoàn kết đồng bào các tôn giáo, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên sức mạnh to lớn cho cách mạng. 

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀN XÃ HỘI ĐỐI VỚI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TẬP TRUNG VÀO ĐỐI TƯỢNG LÀ ĐỒNG BÀO CÓ TÍN NGƯỠNG, THEO TÔN GIÁO

Một đối tượng rất quan trọng cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong vấn đề này là đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo. Cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo không thể thành công, nếu  đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo không thực sự “vào cuộc”, nếu đồng bào thờ ơ với cuộc đấu tranh này, nếu đồng bào không nhận thức đúng, không nêu cao tinh thần trách nhiệm và không biết cách đấu tranh. Đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo của bất kỳ tôn giáo nào có nhận thức rõ, có ý thức trách nhiệm công dân cao, thì không những trực tiếp góp phần làm phá sản những hoạt động lôi kéo, chia rẽ, dụ dỗ, kích động của các thế lực thù địch, mà còn tạo ra sự “miễn dịch”, “sức đề kháng” cần thiết trước mọi thủ đoạn lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, phá hoại của chúng.
Mỗi tín đồ, chức sắc tôn giáo đồng thời phải là một công dân tích cực của đất nước trong thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nếu các tín đồ, các chức sắc tôn giáo “đứng ngoài cuộc”, thờ ơ, thiếu trách nhiệm với đất nước, thì điều đó đã tạo ra những kẽ hở, điều kiện cho các thế lực thù địch lôi kéo, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải đặc biệt quan tâm nâng cao nhận thực và ý thức trách nhiệm của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo trong cuộc đấu tranh này.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀN XÃ HỘI ĐỐI VỚI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TẬP TRUNG VÀO ĐỐI TƯỢNG LÀ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Trong bối cảnh mới, trước yêu cầu tập trung cho “nhiệm vụ trung tâm” là phát triển kinh tế như Đảng ta đã từng xác định và nhấn mạnh tại Đại hội XI, trước tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường…, thì việc nhận thức rõ và có trách nhiệm cao trong đấu tranh chống sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại cách mạng của các thế lực thù địch là vấn đề không đơn giản. Những hoạt động kinh tế sôi động, sự mải mê làm giàu, những lo toan về cuộc sống cho gia đình và bản thân… trong điều kiện kinh tế thị trường, dễ làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân xao nhãng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, không nhận thức đúng, không quan tâm, thiếu trách nhiệm, bàng quan, thờ ơ trước sự phá hoại của các thế lực phản động, thù địch, trong đó có sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng của chúng, cho rằng nhiệm vụ này là của ai đó, là của lực lượng chuyên biệt làm công tác tôn giáo, của lực lượng vũ trang. Nếu không có nhận thức đúng, không có ý thức trách nhiệm cao, thì việc đấu tranh chống sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch không thể đạt được hiệu quả mong muốn.
Yêu cầu quan trọng ở đây là, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, hệ thống chính trị tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương, cả ở vùng có tôn giáo, cả ở địa bàn không có tôn giáo… đều phải nhận thức đúng, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch; thấy rõ tính chất nguy hiểm, những tác hại từ âm mưu, thủ đoạn đó đối với cách mạng nước ta, đối với cuộc sống của nhân dân ta, đối với chính cuộc sống của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo. Trong đó, cần tập trung vào các đối tượng là cán bộ, đảng viên, đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo, vào các chức sắc các tôn giáo.
Cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên trực tiếp làm công tác tôn giáo, những lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên các địa bàn phải nhận thức sâu sắc, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ở vùng có đông đồng bào các tôn giáo sinh sống, có những diễn biến phức tạp về tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch, đặc biệt là ở những nơi có “điểm nóng”, thì vai trò của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên trực tiếp làm công tác tôn giáo càng trở nên quan trọng trong cuộc đấu tranh. Họ là lực lượng, chủ thể trực tiếp trên địa bàn, nắm rõ tình hình, hiểu địa bàn, gần gũi với đồng bào, nếu họ có ý thức cao, trách nhiệm tốt, thì đó là cơ sở rất quan trọng bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch, trước hết và trực tiếp tại địa bàn, địa phương. Những người làm công tác tôn giáo, những người làm nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh, trực tiếp xử lý khi có tình huống, bao gồm cả một bộ phận của lực lượng vũ trang, là lực lượng nắm rõ chủ trương, chính sách, pháp luật, nếu đề cao trách nhiệm và quyết tâm, thì sẽ phát huy được sức mạnh, bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh chống địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

TÍNH CHẤT NGUY HIỂM CỦA ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Những thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo không có gì là lạ, chỉ có điều những thủ đoạn ấy được thực hiện với nhiều cách thức biểu hiện và mức độ khác nhau. Mục đích của chúng là rất rõ ràng, nếu chưa thể hạ bệ được sự lãnh đạo của Đảng thì cũng làm cho quần chúng nhân dân, nhất là quần chúng có tín ngưỡng, theo tôn giáo hoài nghi, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, của Nhà nước, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, làm suy yếu sức mạnh của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chẳng cần phải phân tích nhiều cũng đã rõ tính chất phản động và đặc biệt nguy hiểm của những thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.
Như vậy, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo là nhằm chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, chia rẽ giữa đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng, không theo tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là vấn đề phức tạp, tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, gây nhiều khó khăn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta, với những thủ đoạn và biện pháp ngày càng xảo quyệt, tinh vi và nham hiểm.
Làm thất bại, phá sản những âm mưu, thủ đoạn đó của các thế lực thù địch là yêu cầu cơ bản và cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong tình hình mới, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, của cả chính đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo.

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC

Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo là nhằm chống lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trên thực tế, sự chống phá của chúng đã gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là ở địa phương, cơ sở. Việc một bộ phận quần chúng có tín ngưỡng, theo tôn giáo bị các thế lực thù địch lôi kéo, đòi hỏi, khiếu kiện, thậm chí có hành vi chống đối chính quyền đã gây rất nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình xử lý, ổn định tình hình để chăm lo phát triển kinh tế - xã hội của các cấp ủy và chính quyền ở các địa phương. Chính quyền địa phương ở một số nơi khu vực Tây Bắc, như Hà Giang, nơi diễn ra một bộ phận người H.Mông bị kẻ xấu lôi kéo, kích động theo Tin lành Vàng Chứ từ nhiều năm nay, đã gặp nhiều khó khăn trong quản lý xã hội, quản lý dân cư, quản lý hộ khẩu, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Ở một số nơi, thậm chí có trường hợp một số cán bộ chính quyền cơ sở bị “vô hiệu hóa”. Các thế lực thù địch không chỉ nhằm làm mất ổn định chính trị - xã hội, mà chúng còn nhằm làm tha hóa, biến chất, mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ ở cơ sở, vô hiệu hóa đội ngũ cán bộ, “thúc đẩy” đội ngũ cán bộ làm việc “không tự giác” cho chúng. Trong Báo cáo của Đoàn Kiểm tra Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 10 tháng 12 năm 2007 có nhận xét “Cán bộ đảng và chính quyền ở một số nơi bị tác động, vô hiệu hóa khi FULRO hoạt động mạnh”.
Ở địa bàn Tây Nguyên hiện có 4 tôn giáo chính là: Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao Đài. Những năm qua, số lượng tín đồ tôn giáo tăng cao tương đương với tăng dân số, trong đó tín đồ người dân tộc thiểu số tăng khá nhanh trong cộng đồng Công giáo và chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng theo đạo Tin lành. Một điểm cũng đáng lưu ý là tín đồ người dân tộc thiểu số bản địa chiếm đến 83% tổng số tín đồ người dân tộc thiểu số nói chung. Tình hình an ninh - chính trị ở các huyện, tỉnh ở Tây Nguyên còn khá phức tạp bởi các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đời sống khó khăn, trình độ kinh tế và dân trí thấp của đồng bào các dân tộc thiểu số, các tín đồ tôn giáo để chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã tốn khá nhiều nhân lực, vật lực để dẹp nạn Fulro, tạo lập, giữ vững môi trường an ninh và ổn định cho Tây Nguyên, nhưng sự ổn định vẫn chưa thực sự bền vững.
Một thực tế cho thấy, trên các địa bàn vùng dân tộc thiểu số có sự phức tạp của vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo bởi sự chống phá của các thế lực thù địch, đời sống của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo còn rất khó khăn, sự ổn định trên địa bàn không vững chắc. Đảng và Nhà nước ta đã phải thành lập các ban chỉ đạo để tăng cường quản lý, tập trung phát triển các địa bàn này, trong đó có việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Trong lịch sử dân tộc ta, các tôn giáo ở Việt Nam sống hòa thuận, luôn tôn trọng lẫn nhau, không đối đầu nhau, luôn đoàn kết chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước. Những người theo các tôn giáo khác nhau có thể sống chung trong một làng, trong một dòng họ, thậm chí trong một gia đình, đã tạo nên sự gần gũi tình cảm quê hương, tình cảm gắn bó dòng tộc, thân thuộc. Các dòng tôn giáo trên thế giới chảy vào Việt Nam đã hòa quyện với văn hóa Việt Nam, trở thành một bộ phận góp phần tạo nên nền văn hóa dân tộc thống nhất nhưng đa dạng và phong phú; đồng bào các tôn giáo sống đoàn kết, hòa thuận và yên ổn làm ăn.
Trong những năm qua, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, kích động đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo chống đối chính quyền, đòi ly khai đã tạo ra nhiều "điểm nóng" về chính trị - xã hội, đặc biệt là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Chúng gây mất ổn định chính trị, để tạo cớ đưa các phái đoàn quốc tế vào xem xét, “giúp” ta ổn định tình hình xã hội, nhưng thực chất là tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ, thậm chí còn để dễ bề can thiệp quân sự vào nước ta.
Điều này tuy chưa phá vỡ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc của chúng ta; nhưng cũng xuất hiện những biểu hiện thiếu tin tưởng của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo với bộ phận còn lại của dân tộc ở mức độ nhất định, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc khiếu kiện, những đòi hỏi, những yêu cầu vì lý do “tín ngưỡng, tôn giáo” ở khía cạnh này hay khía cạnh khác đã tạo nên những “điểm nóng”, gây mất ổn định, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Những sự kiện ở 48 Nhà Chung, Thái Hà (Hà Nội), Mường Nhé (Điện Biên)... trong thời gian gần đây đã cho thấy rõ tính chất nguy hiểm và tác hại không nhỏ của vấn đề đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội, chúng ta đã phải mất khá nhiều công sức để xử lý tình hình.

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CÓ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch là đặc biệt nguy hiểm đối với cách mạng Việt Nam và đối với chính ngay đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo. Hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó là hành động của những kẻ "tà đạo", “giáo gian”, những "đứa con lạc loài" làm ô danh giáo hội, làm vẩn đục tôn giáo, chứ không phải là vì đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo. Tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch thể hiện ở chỗ: nếu chưa có thể làm cho đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo trở thành lực lượng đối lập với đất nước, chế độ và chính quyền; thì cũng có thể tạo ra sự hoài nghi, sự thiếu tin tưởng nhất định của đồng bào đối với chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đối với việc thực hiện công tác tôn giáo của chính quyền các cấp, đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Những luận điệu xuyên tạc nào là “chính quyền Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo”; “chính quyền đàn áp tôn giáo”, “phân biệt đối xử các tôn giáo”, nào là chính quyền “bắt giam”, ngược đãi chức sắc, tín đồ tôn giáo, xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo... dễ làm cho đồng bào các tôn giáo hiểu sai chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, nhầm lẫn giữa sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, làm trái pháp luật với tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, một bộ phận đồng bào các tôn giáo, có tín ngưỡng dễ bị các phần tử xấu kích động, lôi kéo, có thể đi đến những hành động chống đối chính quyền, chống đối cách mạng.
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo thực sự nguy hiểm, nó trực tiếp “đẩy” một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo về phía đối lập với chính quyền và cách mạng. Điều đó không những không phát huy được vai trò to lớn của đồng bào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến cuộc sống của chính đồng bào. Đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo sẽ không thể yên ổn làm ăn, không thể yên tâm lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, chăm lo hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình; mà trái lại, đồng bào còn luôn ở trạng thái không yên ổn, bỏ bê công việc làm ăn, phải “đối phó” với chính quyền, lén lút làm việc cho một số phần tử phản động, cực đoan.
Thực tiễn sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch thời gian qua đã cho thấy những ảnh hưởng rất tiêu cực và tính chất nguy hại của âm mưu, thủ đoạn này đối với cuộc sống của chính đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo. Sự ra đi để “tìm Tổ quốc riêng”, việc bỏ bê ruộng nương, bỏ cả việc thờ cúng tổ tiên… để theo đạo Tin lành Vàng Chứ trong một bộ phận đồng bào dân tộc H.Mông, đã làm cho đồng bào rơi vào tình cảnh sống lang thang nay đây mai đó, cuộc sống không ổn định, nhiều giá trị văn hóa của dân tộc H.Mông bị mai một…, đã cho thấy tính chất rất nguy hại của âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo đối với chính đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo mà các thế lực thù địch đã và đang thực hiện ở Việt Nam.