Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2019

ÂM MƯU THỔI PHỒNG MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “Diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo để thổi phồng một số hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong Giáo dục và Đào tạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào giáo dục nước nhà, cũng là giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước XHCN. 
Cả hệ thống chính trị cũng như ngành Giáo dục và Đào tạo đang tự làm lành mạnh, trong sạch bên trong, quá trình này tất yếu phải loại bỏ những yếu tố tiêu cực, cản trở sự phát triển, đương nhiên những cái đó cần được lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc lên án này không được quy chụp cho cả hệ thống giáo dục, không được xuyên tạc từ một vài hiện tượng để đi đến kết luận bản chất. 
Đáng ngại hơn, hiện nay một số người do không hiểu mức độ nguy hại của việc đưa những tin sai trái, đã câu lai, a dua cho thêm vài tình tiết, giới thiệu thêm hình như chỗ này, chỗ nọ cũng có tiêu cực, yếu kém;v.v. làm tăng thêm vẻ hiếu kỳ, như vậy vô tình đã tuyên truyền không công cho địch, không những thế, hành vi ấy còn vi phạm pháp luật mà không biết. 
Tiêu cực trong giáo dục có ở mọi quốc gia, mọi nền giáo dục, ngay ở nước Mỹ cũng không tránh được những hiện tượng này. Việc vi phạm pháp luật trong tuyển sinh ở một số địa phương đã có pháp luật giải quyết, không được nhân đó bôi nhọ thanh danh của một số đồng chí lãnh đạo, vơ thêm các địa phương khác đang rất nghiêm túc, rất minh bạch trong công tác này.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO

Một số yếu kém trong Giáo dục và Đào tạo được các thế lực thù địch khai thác triệt để, cho rằng đó là do lỗi của sự lãnh đạo và quản lý, ở đây họ chỉ nhìn thấy lỗi, thấy khuyết điểm mà không hề thấy những thành quả to lớn của giáo dục đã đạt được, những thành quả đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước XHCN. Mặt khác, họ còn xuyên tạc là do thể chế chính trị tác động, giáo dục nặng về chính trị, tư tưởng cho nên chương trình, nội dung nặng nề và họ đòi bỏ phần giáo dục lý luận chính trị. Thực chất, bất cứ nền giáo dục nào cũng đều phải hướng đến mục tiêu đào tạo ra những thế hệ nguồn nhân lực có lý tưởng, biết vì dân tộc, vì quốc gia mình trên cơ sở nắm vững tri thức khoa học của nhân loại.

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRÊN LĨNH VỰC GIÁO DỤC HIỆN NAY

Mục tiêu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là làm suy giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy Chính quyền của Nhà nước, dần dần đi đến thay đổi đường lối chính trị theo những mưu đồ của họ. Thực hiện mục tiêu đó, họ không từ một thủ đoạn, một lĩnh vực cụ thể nào. Giáo dục và Đào tạo là lĩnh vực đặc biệt, có vai trò quyết định tiến trình phát triển lâu dài của đất nước, không những thế, nó còn tác động đến mọi gia đình, mọi con người trong xã hội. Do đó, đây là lĩnh vực các thế lực thường xuyên tìm cách tác động theo mục đích của “Diễn biến hòa bình”.
Nhận thức được vị trí, vai trò đặc biệt của Giáo dục và Đào tạo, toàn Đảng, toàn dân ta đã cùng nhau chăm lo, xây dựng một nền giáo dục đại chúng, nhân văn và tương đối phát triển. Tuy nhiên, trước những đổi thay nhanh chóng của kinh tế - xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, việc phải đổi mới và thường xuyên đổi mới Giáo dục và Đào tạo là tất yếu. Trước tình hình đó, Đảng đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Thực hiện Nghị quyết này, các ngành, các cấp, nhất là ngành Giáo dục và Đào tạo đã nỗ lực cải cách, đổi mới mọi khâu, mọi cấp học.
Nhờ có một nền giáo dục phát triển mà đất nước ta đổi mới thành công và đang từng bước khẳng định vị thế trong quá trình hội nhập với thế giới. Những thành quả đạt được của giáo dục Việt Nam qua các cuộc thi học sinh giỏi, thi Olympic các môn; sự thành công của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học người Việt trên thế giới đã chứng minh điều đó. Trong một hệ thống giáo dục rộng lớn, phát triển đa diện, không tránh khỏi có những sai lầm. Nhất là trong thời đại mọi yếu tố đều phát triển rất nhanh, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, thì điều đó càng khó tránh khỏi. Cho nên một số lỗi, một số khuyết điểm của cả giáo viên và học sinh, một số sai sót trong các khâu của giáo dục không thể đổ lỗi cho cả hệ thống. Do đó cần cảnh giác với một số luận điểm của các thế lực thù địch lợi dụng việc cải cách, đổi mới căn bản Giáo dục và Đào tạo để thực hiện mưu đồ của chúng./.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Thứ nhất, chúng đã và đang triển khai mạnh mẽ các mũi tấn công vào đạo đức, lối sống bằng các chiêu bài dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong LLVT dần dần bị suy thoái về đạo đức, lối sống, quen dần với cuộc sống hưởng thụ, đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, sao nhãng, xem nhẹ việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng.
Thứ hai, trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng ra sức tuyên truyền phủ nhận quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; xuyên tạc Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta; làm lu mờ bản chất, truyền thống của Quân đội, Công an; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, chiến sĩ, làm mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của LLVT. 
Đồng thời, ra sức công kích phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với LLVT; đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị Quân đội, Công an,… hòng làm mất uy tín của Quân đội, Công an. 
Bằng những hoạt động tinh vi, xảo quyệt, chúng thâm nhập, móc nối, cài cắm người có tư tưởng chống đối vào Quân đội, Công an; triệt để lợi dụng mặt trái của kinh tế thị trường, tệ nạn xã hội những hiện tượng tiêu cực để xuyên tạc truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, Công an, làm phai nhạt hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, CAND... 
Đồng thời, trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, chúng lợi dụng ưu thế của internet để xây dựng hàng loạt các trang thông tin, các blog có nội dung kích động, chống phá Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là sử dụng các hình ảnh cắt ghép, có nội dung lệch lạc nhằm bôi nhọ, làm mất uy tín của lực LLVT với nhân dân, cùng với đó, chúng triệt để sử dụng thủ đoạn dùng mạng xã hội để nhanh chóng kết nối thành viên, truyền bá tư tưởng phản động, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chia rẽ Đảng, Nhà nước, LLVT với nhân dân; tung tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội và đặc biệt là trước các vấn đề nhạy cảm, vào các thời điểm nhạy cảm như tổ chức đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kỷ niệm các sự kiện lớn của đất nước.
Trước thực tiễn đó, việc tiến hành đánh giá, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đòi “phi chính trị hoá” LLVT nhằm chống phá cách mạng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh với âm mưu, hoạt động đòi “phi chính trị hoá” LLVT là vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa chiến lược và cấp thiết hơn bao giờ hết. 
Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. 
Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.

KHÔNG ĐƯỢC MẤT CẢNH GIÁC TRONG CUỘC CHIẾN “KHÔNG KHÓI SÚNG”

Chiến lược “diễn biến hòa bình” là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu để chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước XHCN.
Thực ra, các biện pháp “Diễn biến hòa bình” bằng chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, bóp nghẹt về kinh tế... làm suy yếu, tan rã đối phương nhằm mục tiêu “không đánh mà thắng” đã được các nhà chính trị, quân sự nhiều nước thực hiện từ lâu. Hiện nay, bản chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam không hề thay đổi. 
Các thủ đoạn mới chỉ là việc thay hình, đổi dạng cho phù hợp với tình hình và diễn biến của thời cuộc. Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch dùng mọi phương thức trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch đã coi thủ đoạn “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang (LLVT) là một trong những mục tiêu, nội dung tấn công chủ yếu nhằm tìm cách thủ tiêu, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với LLVT.
LLVT nhân dân là một trong những yếu tố cấu thành của tổ chức quyền lực nhà nước, có vai trò vô cùng quan trọng để bảo vệ chính thể, bảo vệ quyền lực nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng của lực lượng lãnh đạo xã hội và của toàn dân nên việc quy định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với LLVT là cần thiết.
Vì vậy, để thực hiện “phi chính trị hóa” LLVT, trong thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi thủ đoạn để tán phát, truyền bá các quan điểm sai trái, phản động, công kích sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp tục tung ra những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” LLVT nhân dân Việt Nam. 
Thực chất âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” LLVT là nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CAND và QĐND, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn này, các thế lực thù địch đã không ngừng gia tăng các hoạt động nhằm “phi chính trị hóa” LLVT. Mục đích không có gì khác hơn của họ là làm cho LLVT ta mất phương hướng chính trị, từ bỏ mục tiêu chiến đấu và hòng vô hiệu hóa, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CAND và QĐND.

BIỆN PHÁP PHÁT HUY TINH THẦN TÍCH CỰC, SÁNG TẠO CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI

Đây là vấn đề cốt lõi trong phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội, giúp mỗi người trí thức không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bám sát sự vận động, phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở ý thức rõ vị trí, vai trò của mình, đội ngũ trí thức quân đội phải thường xuyên nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực tự nghiên cứu, tự học tập không ngừng tích lũy kiến thức chuyên môn và năng lực công tác. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của giáo dục - đào tạo, quá trình “xã hội hóa” giáo dục gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu của nền kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức quân đội hơn lúc nào hết cần đa dạng hóa các phương thức tự học tập, tự nghiên cứu, chủ động tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học… Đồng thời, gắn với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đội ngũ trí thức quân đội cần chú trọng tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách người cán bộ quân đội trong tình hình mới; bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống; tích cực rèn luyện bản lĩnh khoa học, nâng cao tính phát hiện, gắn công tác nghiên cứu với hoạt động thực tiễn, chủ động phát hiện, đề xuất nghiên cứu các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đất nước cũng như thực tiễn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…

BIỆN PHÁP CHÚ TRỌNG QUAN TÂM CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI GẮN VỚI HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH TRỌNG DỤNG, ĐÃI NGỘ HỢP LÝ

Đây là hai mặt thống nhất trong tổng thể quá trình xây dựng, phát triển và phát huy vai trò đội ngũ trí thức quân đội. Vấn đề này cần được tổ chức thực hiện đồng bộ ở cả tầm vĩ mô và vi mô gắn với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và đặc điểm của từng đơn vị cụ thể. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức… tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức”.
Trước hết, trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm lãnh đạo của Đảng và những chính sách của Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cần hoàn thiện chiến lược giáo dục đào tạo trong quân đội, tạo bước chuyển căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức quân đội. Từ đó có quy hoạch đội ngũ trí thức phù hợp, hiệu quả. Xây dựng quy hoạch đội ngũ trí thức phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong quy hoạch phải luôn bám sát ba quan điểm chỉ đạo và năm nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới. Thực hiện có hiệu quả việc tuyển chọn và đưa cán bộ, trí thức quân đội đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.
Đối với các đơn vị trong toàn quân, cần chủ động đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ, trí thức; coi trọng bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cho đội ngũ trí thức trẻ. Trong bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, trí thức cần gắn giữa lý luận với thực tiễn huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội, đơn vị.
Đối với các học viện, nhà trường quân đội, với vai trò là những trung tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức cho quân đội, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới. Cụ thể, các học viện, nhà trường căn cứ vào nội dung, yêu cầu, lĩnh vực đào tạo cần tập trung đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, tích cực hóa hoạt động của người học… nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trực tiếp góp phần vào sự phát triển của đội ngũ trí thức quân đội cả về số lượng và chất lượng. 

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CẤP ỦY VÀ CHỈ HUY CÁC CẤP ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI

Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác xây dựng, bồi dưỡng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức quân đội trong tình hình mới. Thực tiễn chỉ ra, khi nào và ở đâu cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp nhận thức toàn diện, đầy đủ về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, của quân đội thì hoạt động lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chỉ huy đối với trí thức mới có hiệu quả và đội ngũ trí thức mới thực sự phát huy toàn bộ khả năng tư duy, năng lực sáng tạo, đóng góp có hiệu quả vào sự trưởng thành của đơn vị, của quân đội. Do vậy, ở mỗi cấp, mỗi đơn vị, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên cần quán triệt sâu sắc quan điểm lãnh đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trên cơ sở đặc điểm nhiệm vụ cụ thể và chất lượng đội ngũ trí thức của đơn vị.
Cấp ủy và chỉ huy các cấp cần xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng chất lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức, trong quản lý, sử dụng trí thức nên nghiên cứu, thực hiện các phương thức phù hợp, tránh việc áp dụng một cách máy móc cách quản lý hành chính để phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức.
Thực hiện tốt vấn đề này cơ sở để xây dựng và hoàn thiện môi trường công tác thuận lợi giúp trí thức quân đội công tác, rèn luyện và cống hiến, trưởng thành.

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Để bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ trí thức quân đội thực sự đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức đối với việc thực hiện nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chỉ huy các cấp đối với đội ngũ trí thức.
Ba là, chú trọng quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức quân đội gắn với hệ thống chính sách trọng dụng, đãi ngộ hợp lý.
Bốn là, thường xuyên phát huy tinh thần tích cực, sáng tạo, tự phấn đấu, tự rèn luyện của đội ngũ trí thức quân đội. 
Kế thừa truyền thống hơn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam, bồi dưỡng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức quân đội là vấn đề cơ bản, quan trọng, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Trong giai đoạn cách mạng mới, đội ngũ trí thức quân đội đã có những đóng góp tích cực trong xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trí thức quân đội là lực lượng trực tiếp tham gia nghiên cứu khoa học cho việc xây dựng, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Gắn với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể, đội ngũ tri thức quân đội còn luôn đi đầu trong nghiên cứu, tiếp thu, phổ biến, ứng dụng và phát triển tri thức quân sự, quốc phòng tiên tiến, hiện đại góp phần nâng cao sức mạnh toàn diện của quân đội, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đội ngũ trí thức quân đội đồng thời cũng là lực lượng tiên phong trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, chủ động, tích cực đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; chủ động phá tan âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao cảnh giác cách mạng cho toàn quân, toàn dân. Vai trò của đội ngũ trí thức được thể hiện rõ nét trong mọi mặt hoạt động của quân đội như khoa học nghệ thuật quân sự; khoa học xã hội và nhân văn quân sự; khoa học kỹ thuật, công nghệ quân sự và y dược quân sự; hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí xuất bản… Bằng trí tuệ, trình độ tư duy, năng lực sáng tạo và tinh thần trách nhiệm, đội ngũ trí thức quân đội đã có những đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức quân đội còn có những hạn chế nhất định so với thực tiễn yêu cầu xây dựng quân đội, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tuy đã có bước phát triển đáng kể song nhìn chung, đội ngũ trí thức quân đội còn tương đối “mỏng” chưa tương xứng với “tiềm năng sáng tạo” và yêu cầu xây dựng quân đội; trình độ giao tiếp bằng ngoại ngữ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin còn có những hạn chế, bình quân độ tuổi của trí thức quân đội còn cao so với mặt bằng của đội ngũ trí thức nói chung; cơ cấu đội ngũ trí thức quân đội có những mặt mất cân đối về ngành nghề, độ tuổi, giới tính...; một bộ phận trí thức quân đội còn hạn chế kiến thức thực tiễn, nhất là thực tiễn công tác, chiến đấu; việc khai thác, phát huy tiềm năng sáng tạo của trí thức quân đội còn hạn chế, công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường quân sự chưa thực sự xuất phát và gắn bó với thực tiễn huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của quân đội; số lượng chuyên gia đầu ngành, chuyên viên nghiên cứu của quân đội chưa nhiều; tính gắn kết giữa khoa học kỹ thuật với ứng dụng thực tiễn chưa cao; số ít trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao còn thiếu tự tin, “ngại” tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học… Một số không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi kiến thức, thiếu ý chí phấn đấu cố gắng vươn lên về chuyên môn…
Những hạn chế nói trên của đội ngũ trí thức quân đội do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Một số chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về công tác trí thức nói chung và trí thức quân đội nói riêng chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc. Số ít cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức; đánh giá, sử dụng trí thức chưa xuất phát từ năng lực và trình độ; các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức quân đội chưa thực sự đồng bộ; cơ chế phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài thiếu linh hoạt; tinh thần phấn đấu nỗ lực vươn lên ở một bộ phận trí thức chưa cao… Bên cạnh đó là những tác động của mặt trái kinh tế thị trường cũng ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến đội ngũ trí thức quân đội.
Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang đặt ra đòi hỏi khách quan phải phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức nói chung trong đó có trí thức quân đội. Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện thì việc phát huy vai trò của trí thức quân đội càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. 

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC QUÂN ĐỘI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Trí thức quân đội là một bộ phận cấu thành quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã chỉ rõ: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”. Xét về cơ cấu, đội ngũ trí thức quân đội bao gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy trong hệ thống học viện, nhà trường quân sự, các trung tâm, viện nghiên cứu chuyên ngành của quân đội… có trình độ học vấn đại học, sau đại học; có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; trực tiếp tham gia nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự Việt Nam, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, có thể nói, với những ưu thế về trình độ học vấn, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, trình độ quản lý chỉ huy… đội ngũ trí thức quân đội thực sự là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng Quân đội Nhân dân “Vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức quân đội. Với việc ban hành Nghị quyết số 93/NQ-ĐUQSTWW về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy và Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTWW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương đã tạo bước chuyển biến về chất trong công tác giáo dục - đào tạo cán bộ quân đội.
Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức quân đội đã có bước phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng. Số cán bộ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ cũng như số lượng giáo sư, phó giáo sư của quân đội đã không ngừng tăng lên. Đặc biệt, toàn quân đã có hàng trăm tập thể, cá nhân được nhận bằng khen, giấy khen các cấp về thành tích nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Phần đông đội ngũ trí thức quân đội luôn mang trong mình tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng; trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, gắn bó với quân đội và đơn vị; có trình độ tri thức và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ theo cương vị, chức trách được giao. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X khẳng định: “Ðội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

TRÍ THỨC VIỆT NAM, VÌ NƯỚC, VÌ DÂN THEO TƯ TƯỞNG – ĐẠO ĐỨC – PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Hơn 30 năm đổi mới, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển, đã trở thành nước phát triển trung bình trong tương quan với các nước trong khu vực, quốc tế và thế giới, đang nỗ lực nâng cao trình độ phát triển, phấn đấu sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp xứng đáng, cùng với nhân dân cả nước làm nên những thành tựu to lớn đó. Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) với những tổng kết lý luận - thực tiễn sâu sắc về 30 năm đổi mới, với những quyết sách quan trọng được thông qua, được ghi trong Nghị quyết Đại hội đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Trách nhiệm của mỗi người trí thức và của tất cả đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa ở nước ta là phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý thức sâu sắc về thiên chức sáng tạo, nghĩa vụ và bổn phận công dân, đồng hành cùng dân tộc, nhập cuộc cùng nhân dân trong đổi mới, đem tài năng và nhiệt huyết của mình đóng góp xứng đáng nhiều hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết của Đảng, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng và kỳ vọng của nhân dân đối với trí thức.
Thực hiện trách nhiệm vẻ vang và nặng nề ấy không chỉ là trách nhiệm chính trị trước Đảng, dân tộc và nhân dân của đội ngũ trí thức nước ta, nhất là trong bối cảnh thời cuộc hiện nay, khi phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được đặt lên hàng đầu, là lợi ích tối cao của dân tộc mà còn là sự thôi thúc của tình cảm và đạo đức, của lương tâm, danh dự và phẩm giá nhân cách mà mỗi người trí thức chân chính yêu nước, thương dân coi đó là lý tưởng và lẽ sống của mình.
Là nhà tư tưởng kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của toàn dân, đồng thời là một trí thức lỗi lạc, uyên bác mà cả dân tộc tự hào, cả thế giới ngưỡng mộ, sự cao thượng và đức hy sinh của Người trở thành một tấm gương mẫu mực, một bài học lớn về nhân cách cho mỗi chúng ta noi theo, về trách nhiệm của trí thức trước dân tộc và thời đại, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng thi đua yêu nước của Người là nguồn sáng bền bỉ, thắp lên ngọn lửa của niềm tin và hy vọng cho đội ngũ trí thức nước nhà phát huy tài năng sáng tạo, rèn luyện bản lĩnh để cống hiến hết mình cho sự phát triển bền vững và nhanh chóng hiện đại hóa đất nước, cho sự trường tồn của dân tộc, đem tinh hoa trí tuệ Việt Nam, bản sắc tinh thần và tâm hồn Việt Nam như những giá trị nội sinh từ văn hóa đến với đông đảo bạn bè trên thế giới, thu hút thêm nhiều nguồn lực ngoại sinh, chuyển thành nội lực bảo đảm cho thành công của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trí thức Việt Nam, nhất là trí thức sáng tạo văn hóa nghệ thuật tự ý thức điều hệ trọng ấy.
Đạo đức Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, đạo đức hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cả một tài sản tinh thần vô giá, là sức mạnh hiện hữu mà cũng là giá trị vĩnh hằng của dân tộc, mà mọi thế hệ người Việt Nam ra sức phát huy và phát triển. Trí thức Việt Nam, nhất là trí thức khoa học xã hội - nhân văn, trí thức trong nghiên cứu tư tưởng lý luận, trí thức giáo dục, y tế, hơn ai hết phải ra sức truyền bá, bảo vệ và phát huy những giá trị cao quý đó trong xã hội, tạo động lực tinh thần cho đổi mới và hội nhập.
Trí thức Việt Nam cần phải đi tiên phong trong đổi mới tư duy, thúc đẩy hành động sáng tạo, cống hiến tài năng và trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Nói đến trí thức và đội ngũ trí thức là nói đến những con người có học vấn, học thức cao, tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc, lao động bằng trí óc, có năng lực sáng tạo. Họ nhạy cảm với cái mới và đổi mới, vì sự tiến bộ và phát triển của đất nước, dân tộc và xã hội. Trí thức và đội ngũ trí thức không chỉ biểu hiện mình ở trình độ trí tuệ và sức sáng tạo mà còn phải thực sự tiêu biểu về đạo đức, nhân cách, trọng chân lý và đạo lý, trọng lương tâm, danh dự và phẩm giá con người.
Vì vậy, trách nhiệm của trí thức và đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay là phải đi tiên phong trong đổi mới tư duy, thúc đẩy hành động sáng tạo hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế ngày một mạnh mẽ.

XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN ĐI ĐÔI VỚI NGĂN NGỪA CĂN BỆNH QUAN LIÊU, XA DÂN CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN

Thực tế hoạt động cầm quyền đặt ra yêu cầu tất yếu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải là những người tài đức, phải giành được niềm tin của quần chúng nhân dân, được dân tin, dân phục, dân yêu. Gánh vác sự nghiệp cầm quyền, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”, và vì vậy vào Đảng không phải là để “làm quan cách mạng”, để “thăng quan tiến chức”, để “một người làm quan cả họ được nhờ”, “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân, phong kiến”,... Mà điều cốt yếu khi cán bộ, đảng viên được nhân dân gửi gắm, ủy thác, trao quyền lực, trong một thể chế chính trị dân chủ, thì yêu cầu về xây dựng văn hóa đạo đức của người cán bộ cách mạng phải là văn hóa “vì dân”, chính tâm và thân dân. Nghĩa là: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người cán bộ cách mạng muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, kính dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân trên hết thảy; phải có một tinh thần chí công vô tư; phải “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”. 
Hồ Chí Minh cho rằng, “Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta (tức là Đảng ta khi đó chưa ra hoạt động công khai) là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đày tớ cho dân... Đã phụng sự nhân dân thì phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh...
Khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, mà nếu không đủ bản lĩnh, ý chí, phẩm chất và trí tuệ, không đề cao dân chủ, dựa chắc vào nhân dân sẽ không dễ vượt qua những thử thách, khó khăn. Để bảo đảm tính chính danh cầm quyền của Đảng trước Tổ quốc, trước nhân dân, Đảng cầm quyền phải có đường lối chính trị đúng đắn, nhưng để xây dựng được đường lối đúng đắn và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết Đảng phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng danh và ngang tầm. Chính vì vậy, vấn đề cốt tử trong mọi hoạt động của Đảng là làm sao để mỗi “Đảng viên và cán bộ phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải nắm vững chính sách của Đảng và của Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng như thế mới xứng đáng là đảng viên và cán bộ của Đảng, như thế mới lãnh đạo được quần chúng”.
Theo Hồ Chí Minh mất dân chủ, quan liêu, xa dân cũng như những khuyết điểm khác có nhiều loại và mỗi khuyết điểm là một chứng bệnh, mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài... Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ bên trong phá ra. Sự phá hoại của thế lực thù địch bên ngoài là một thực tế cần hết sức cảnh giác. Nhưng, điều đáng lo ngại hơn lại chính là sự tha hóa, suy thoái từ trong nội bộ Đảng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ. V.I. Lênin cho rằng, “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”. Bởi vậy, việc nhìn ra những tật bệnh để kiên quyết chữa trị, giữ cho cơ thể Đảng khỏe mạnh là một việc thường xuyên và tất yếu trong xây dựng Đảng. 
Đứng trước căn bệnh quan liêu, xa dân, Hồ Chí Minh nhiều lần cảnh báo và chỉ ra những biểu hiện nguy hại của nó: cách xa quần chúng, không hiểu thấu tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không học hỏi dân chúng, xem khinh quần chúng, sợ quần chúng phê bình, thích dùng mệnh lệnh hành chính, thiếu kiểm tra, đôn đốc trong lãnh đạo… Người nghiêm khắc chỉ ra có một bộ phận cán bộ, đảng viên “cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết thực cần kíp của địa phương, những điều dân chúng cần biết thì không nói đến”.
Để Đảng luôn vì dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ cách mạng “có lòng kiên quyết, có chí hy sinh”, đủ đức, đủ tài phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Đội ngũ đó phải ít lòng ham muốn về vật chất, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói đi đôi với làm, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,... Phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên làm nên chất lượng của Đảng tiên phong. Đảng ta như một cơ thể sống, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên có đức và thực tài sẽ làm cho Đảng mạnh và ngược lại, những sự vi phạm dân chủ, quan liêu, xa dân của người cán bộ, đảng viên sẽ làm suy yếu Đảng, hệ thống chính trị và phong trào cách mạng. Cho nên, người cán bộ cách mạng là thật sự là công bộc, tận tụy hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - đó cũng chính là phục vụ chân lý và thực hành dân chủ - lẽ sống cao thượng của người chiến sĩ cách mạng.
Trong quá trình đó, phải nâng cao ý thức cảnh giác đối với những âm mưu phá hoại, những luận điệu xuyên tạc, chống phá mà các thế lực thù địch có thể tuyên truyền trong quần chúng nhân dân hòng hạ thấp uy tín của Đảng, làm cho nhân dân mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoài nghi, kích động nhân dân gây mất ổn định chính trị và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.

“LẤY DÂN LÀM GỐC” PHẢI LUÔN LÀ YẾU TỐ VĂN HÓA THẨM THẤU TRONG MỌI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là đề cao tuyệt đối chữ dân. Trong một nước dân chủ thì nhân dân là chủ, làm chủ. Văn hóa đó được thể hiện rất rõ qua thực hành văn hóa trong Đảng, trong Nhà nước, trong các đoàn thể, trong thể chế, bộ máy, trong con người và qua hành vi của đội ngũ cán bộ, đảng viên, lấy nhân dân làm hệ quy chiếu trong mọi chủ trương, chính sách. 
Người cho rằng, cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tươi tốt... là cuộc chiến đấu khổng lồ, vì vậy, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân. Dân là gốc của nước, của cách mạng. “Nước lấy dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Là “gốc của nước”, nên nhân dân cũng là người quyết định thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm, nhân dân là nguồn gốc sức mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vô tận. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”, “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng làm không xong”. Muốn vậy, Đảng cầm quyền phải luôn quan tâm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách nhằm bảo đảm mưu cầu lợi ích tối cao của nhân dân. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Quán triệt sâu sắc quan điểm đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhận thức về dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những sự phát triển vượt bậc trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta chỉ rõ: “Thực tiễn cách mạng chứng minh: ở đâu, nhân dân lao động có ý thức làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng”, vì vậy Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Phương thức tổ chức vận động nhân dân và cũng là phương châm, khẩu hiệu cơ chế thực hiện dân chủ bước vào thời kỳ đổi mới được Đại hội VI của Đảng xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng ta cho rằng, đó là nền nếp hằng ngày của dân chủ của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động làm chủ, tham gia quản lý nhà nước của mình. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011), Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. 
Con người là nguồn vốn của mọi nguồn vốn, là nguồn lực quan trọng nhất của mọi nguồn lực, giá trị cao nhất của mọi giá trị. Con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là sức sống của đổi mới, là trung tâm của sự nghiệp đổi mới. Trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có những nhận thức mới ngày càng sâu sắc, cụ thể hơn về vị trí, vai trò của nhân dân, của dân chủ và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một trong bốn bài học lớn được Đảng rút ra trong tổng kết sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Trong cơ chế dân chủ một đảng cầm quyền, ý Đảng trước hết phải từ ý dân và lòng dân, vì vậy, ý Đảng lòng dân là một, thống nhất hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh con người Việt Nam đã trở thành bài học và cấu thành hệ giá trị của đổi mới. 

ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ “TẤT CẢ QUYỀN LỰC THUỘC VỀ NHÂN DÂN”

Chế độ chính trị được Hồ Chí Minh đề cập và phấn đấu xây dựng là chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đó, “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra”, “Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Trong đó “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Nhân dân là chiếc áo giáp thần kỳ che chở, bảo vệ Đảng, Nhà nước; nhân dân đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để nuôi dưỡng, bảo vệ chế độ. Không có nhân dân thì chế độ chính trị không có cơ sở để ra đời và tồn tại. 
Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, trung tâm, nhà nước không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến. Vì vậy, trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân... nhân dân là ông chủ nắm chính quyền”. Hồ Chí Minh cho rằng dân là quý nhất, là quan trọng nhất, dân là tối thượng; trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh, lực lượng đoàn kết của nhân dân và lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó. 
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người chủ Nhà nước và xã hội. Trong điều kiện dân chủ và pháp quyền, nhân dân có quyền đòi hỏi chính đáng, có nhu cầu tự nhiên và tất nhiên về việc phải kiểm soát được quyền lực mà mình đã giao cho chủ thể lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước là Đảng và Nhà nước, để làm sao cho quyền lực đó không bị biến dạng, không bị tha hóa, không bị lạm quyền, lộng quyền. 
Quan niệm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để của Nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là Hiến pháp. Các bản Hiến Pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều thể hiện điều đó. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là một nội dung trọng yếu của việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục khơi nguồn động lực, tiềm năng, trí tuệ của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN – ĐẢNG CÁCH MẠNG, ĐẢNG VÌ DÂN, VÌ NƯỚC

Mùa Thu tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam - “một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”, trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 
Khác xa so với thời kỳ còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp để lãnh đạo toàn dân tộc xóa bỏ ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xây dựng chế độ mới, con người mới, nền văn hóa mới không có mục đích nào khác ngoài mang lại nền độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng to lớn, phức tạp, đầy khó khăn gian khổ nhưng vẻ vang ấy, Đảng cầm quyền vừa là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức của hệ thống chính trị, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. 
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những điều tâm huyết về vai trò cầm quyền của Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, đồng thời Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. 
Thực tiễn vai trò cầm lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã khẳng định “Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước”. Trong các tiêu chí để xác định một đảng chân chính cách mạng, việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực, tính chính danh của Đảng cầm quyền. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ “Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân” và chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức quan tâm chăm lo đời sống của nhân dân. Chỉ khi thấu hiểu và hành động vì con người, cho sự phát triển toàn diện của con người như vậy trong thực tiễn hoạt động lãnh đạo, Đảng cầm quyền mới “biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. 
Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, muốn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của Đảng, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho được định hướng hoạt động của Nhà nước, bảo đảm cho bộ máy Đảng và Nhà nước thật sự trong sạch. Nếu hoạt động lãnh đạo của Đảng thông qua Nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thoái hóa, biến chất thì Đảng cầm quyền, Nhà nước mà nhân dân đã tin tưởng giao phó quyền lực chính trị ắt sẽ không giành được sự ủng hộ, niềm tin nơi dân chúng. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, theo đúng tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân”. Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và qua đó đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân đồng thời phát huy được vai trò, sức mạnh vô cùng tận của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng vĩ đại và theo Hồ Chí Minh là “một sự nghiệp gian nan cực khổ”. Lãnh đạo sự nghiệp to lớn và vẻ vang đó, Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, sức chiến đấu để đảm đương vai trò lãnh đạo phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỈ THỊ 05 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ, KHÓA XII CỦA HỘI PHỤ NỮ QUÂN ĐỘI

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện Chỉ thị 05 trong thời gian tới, Hội Phụ nữ các cấp trong toàn quân cần tiếp tục tiến hành tốt một số nội dung, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, cán bộ, hội viên phụ nữ các cấp cần thường xuyên bám sát chỉ đạo của trên, tham mưu với cấp ủy, chỉ huy đơn vị nội dung công tác và phong trào thi đua của phụ nữ Quân đội gắn với thực hiện việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, sát sao, liên tục, trở thành công việc tự giác, thường xuyên của mỗi cán bộ, hội viên.
Hai là, tích cực đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức sinh hoạt Hội để phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi hội viên trong học tập, rèn luyện xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực cống hiến tài năng, trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng Quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ý thức tự giác của mỗi cán bộ, hội viên; chú trọng tuyên truyền, giáo dục gương “người tốt, việc tốt”, các tập thể và cá nhân có nhiều thành tích trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Bốn là, đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác phụ nữ, cán bộ Hội Phụ nữ luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, nhạy bén, sáng tạo tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện.
Năm là, thường xuyên làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; đánh giá khách quan, công tâm, chính xác thành tích cá nhân, tập thể; đôn đốc, nhắc nhở với những tập thể, cá nhân thực hiện chưa nghiêm túc, qua loa, hình thức. Lấy kết quả thực hiện Chỉ thị 05 làm một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức Hội, hội viên hằng năm.

PHỤ NỮ QUÂN ĐỘI ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHỈ THỊ 05 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA XII

Quán triệt sâu sắc Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phụ nữ Quân đội đã triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả với nhiều phong trào, mô hình cụ thể và đạt hiệu quả thiết thực.
Được sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị trong toàn quân, việc triển khai học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” giai đoạn 2016 - 2021 của cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội đã được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thống nhất, phù hợp với đặc điểm, tình hình, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Ban (trợ lý) công tác phụ nữ và Ban Chấp hành các Hội Phụ nữ trong toàn quân luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo thực hiện tốt chức năng tham mưu, đề xuất, hướng dẫn và tổ chức thực hiện Chỉ thị 05 gắn với tu dưỡng, rèn luyện theo các phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang” và các tiêu chí “bốn tốt”. Việc học tập và làm theo Bác đã trở thành việc làm thường xuyên, ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, hiệu quả. Trong quá trình thực hiện, tổ chức phụ nữ các cấp thường xuyên đổi mới, đa dạng các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền (sinh hoạt hội viên, tọa đàm, diễn đàn, hội thi, thi tìm hiểu, giao lưu nghệ thuật,…), tạo sự hấp dẫn, thuyết phục, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng, tình cảm và trách nhiệm của mỗi hội viên trong suy nghĩ, lời nói, hành động, ứng xử hằng ngày. Đồng thời, phê phán, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm ảnh hưởng tới hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Qua đó, xây dựng người phụ nữ Quân đội phát triển toàn diện, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tổ chức Hội Phụ nữ trong toàn quân luôn bám sát đặc điểm, tình hình và nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị để xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến, các phong trào, mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả, như: “Làm theo Bác thực hành tiết kiệm”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ khó khăn”; “Tổ, nhóm phụ nữ tiết kiệm”; “Tiết kiệm của bản thân để phần người khó”; “Mỗi tuần (ngày, tháng) một việc tốt”; “Nói lời hay, làm việc tốt”... Ở các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chị em phụ nữ luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh của người chỉ huy; tích cực học tập và làm theo phong cách, tác phong làm việc của Bác, không ngừng rèn luyện nâng cao sức khỏe, trình độ; tham gia huấn luyện, diễn tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; chấp hành tốt chế độ trực ban, trực nghiệp vụ. Vận dụng sáng tạo các mô hình, điển hình là: “Vào phòng máy là vào vị trí chiến đấu”, “Trạm là nhà, đường dây là trận tuyến”, “Phiên ban, kíp ban kiểu mẫu”, “Phụ nữ Thông tin làm theo lời Bác”, “Sáng tạo huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao”, “Bát nước thao trường”… góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của các cơ quan, đơn vị và toàn quân.
Có thể nói, trên khắp các lĩnh vực hoạt động của phụ nữ Quân đội đều có những mô hình, điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được biểu dương, khen thưởng1. Mỗi mô hình, mỗi phương thức là một kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao đóng góp vào kinh nghiệm nghiên cứu, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phong trào phụ nữ, công tác phụ nữ trong thời kỳ mới.

HÒA HỢP, HÒA GIẢI DÂN TỘC – CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA

Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được nhân dân Việt Nam, bạn bè quốc tế công nhận. Sự thực đó không một thế lực nào, thủ đoạn tuyên truyền nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Gần đây, chủ đề hòa hợp, hòa giải dân tộc lại được những người tự xưng là “bất đồng chính kiến” - những người phản bội dân tộc - cả ở trong và ngoài nước xới lên, nhằm kích động, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ ra sức rêu rao rằng: hòa hợp, hòa giải dân tộc chỉ là “cái bẫy” của cộng sản để thực hiện những mục tiêu nhất thời…, không thể có hòa hợp, hòa giải dân tộc nếu còn chế độ cộng sản; thậm chí họ còn “lái” khái niệm hòa hợp, hòa giải dân tộc sang “hòa hợp” với những “người bất đồng chính kiến”.
Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, khẳng định rõ: lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, chủ động mở rộng quan hệ với tất cả kiều bào ta định cư ở nước ngoài, không phân biệt ý thức hệ, lịch sử cá nhân, kể cả đối với những người còn định kiến, mặc cảm với chế độ xã hội. Nhà nước ta tạo điều kiện cho mọi người, kể cả những người từng làm việc trong chế độ cũ, có nhiều tội ác với nhân dân được về thăm, đóng góp để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh, tiến bộ, v.v. Thiết nghĩ, lòng yêu nước, được đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam ở bất cứ đâu. Quyền và nghĩa vụ này luôn được Đảng, Nhà nước trân trọng và bảo đảm. Và như thế, những luận điệu xuyên tạc chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước ta không lừa gạt được ai và nhất định bị phủ nhận bởi thực tiễn sinh động về hòa giải, hòa hợp dân tộc trên đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2019

“ĐẢNG CHỈ MƯU CẦU LỢI ÍCH CỦA RIÊNG MÌNH” – LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC NGUY HIỂM

Họ cho rằng, ngay từ đầu, vì quyền lợi của mình, Đảng Cộng sản đã tìm cách chiếm quyền lãnh đạo và áp đặt con đường xã hội chủ nghĩa đối với đất nước; Đảng thao túng, bao che cho cán bộ, đảng viên, các “nhóm lợi ích”, tham nhũng lộng hành, đục khoét nguồn lực đất nước, làm cho nước ta nghèo nàn, đời sống nhân dân cơ cực…
Cần khẳng định đây là sự bịa đặt trắng trợn, với ý đồ chính trị thâm hiểm, nhằm hạ thấp uy tín của Đảng. Lịch sử đã chứng minh rằng, việc dân tộc ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không phải là sự “áp đặt” của bất cứ đảng phái nào, mà đó là yêu cầu của thời đại; là tổng hợp của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, cả kinh tế và chính trị, cả trong nước và quốc tế và là khát vọng của nhân dân Việt Nam 89 năm về trước. Chúng ta đều biết, vào thời điểm năm 1930 và trước đó, dân tộc Việt Nam đang rên xiết dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc; giai cấp tư sản Việt Nam tuy đã hình thành, nhưng do nhỏ bé về kinh tế, non yếu về chính trị, lại thiếu kinh nghiệm, nên không đảm đương được vai trò lãnh đạo đối với dân tộc.
Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã nhận trọng trách của lịch sử: nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng và đặt nền móng cho con đường phát triển tất yếu của đất nước. Để làm tròn sứ mệnh, Đảng phải đương đầu với sự đàn áp khốc liệt của thực dân, đế quốc; nhiều đảng viên đã anh dũng hy sinh vì tương lai của dân tộc. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Ðảng trở thành đảng cầm quyền. Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam hoàn thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mùa Xuân 1975, quân và dân ta đánh thắng giặc Mỹ, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1986, Ðảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, tạo bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn 30 năm thực hiện đổi mới, đất nước đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, v.v. Các sự kiện đó là những cột mốc lịch sử của sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, tạo thành sợi dây lôgíc - lịch sử khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của dân tộc, chứ không phải là sự áp đặt của Đảng Cộng sản. Lịch sử cũng khẳng định rằng, con đường tư bản chủ nghĩa, với đầy rẫy khuyết tật và bất công, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ ra qua trải nghiệm của mình trong quá trình tìm đường cứu nước. Lúc này, dân tộc Việt Nam đã và đang phải chịu đựng dưới chế độ thực dân - phong kiến, với vô vàn áp bức, bất công, nên nhân dân ta không thể lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa. Ðảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác – Lênin chân chính, có bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, được trải nghiệm qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, luôn phấn đấu cho lợi ích của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta đi tới tương lai tươi sáng.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Công lao, vai trò to lớn và giá trị trường tồn của Quốc tế Cộng sản trong lịch sử hiện đại sau Cách mạng Tháng Mười là không thể phủ nhận. Không thể lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết mà cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, lạc hậu; Quốc tế Cộng sản đã mất đi giá trị. Chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử hiện đại và có sức lôi cuốn, tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn nhân loại. Sự tổn thất to lớn của chủ nghĩa xã hội từ gần 3 thập niên trước đã chứng minh rằng, đảng nào kiên định và đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thì cách mạng thành công, đảng đó giữ được vai trò lãnh đạo. Mọi sự vi phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực hiện sai đường lối mà Quốc tế Cộng sản đã vạch ra, thì đều dẫn đến hậu quả nguy hại đối với chính sự tồn vong của đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Việt Nam sớm trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới do có sự ảnh hưởng và đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, thông qua đường lối và chương trình hành động của Quốc tế Cộng sản; tạo điều kiện thuận lợi cho những người Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước. Đồng thời, tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo cho cách mạng Việt Nam đội ngũ cán bộ vững vàng,… là những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Quốc tế Cộng sản, chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị trường tồn của Quốc tế Cộng sản; tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thúc đẩy cách mạng tiến lên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Đó là câu trả lời rõ ràng của chúng ta trước mưu đồ của các thế lực thù địch mưu toan chống phá, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin và giá trị to lớn của Quốc tế Cộng sản.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐỊNH RA CHIẾN LƯỢC, SÁCH LƯỢC ĐÚNG ĐẮN CHO PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

Minh chứng cho điều này là, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản thông qua cương lĩnh, kêu gọi nhân dân toàn thế giới kiên quyết đấu tranh chống phát-xít, ngăn chặn bàn tay đẫm máu của chúng. Đồng thời, đề ra các đối sách bảo vệ Liên Xô, bảo vệ thành trì cách mạng và nền hòa bình thế giới trước sự tấn công hủy diệt của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra. Sự đối mặt của Quốc tế Cộng sản với chủ nghĩa phát-xít đã làm nổi bật tính chất cách mạng, nhân đạo, hòa bình và sự dũng cảm của tổ chức quốc tế này. Quốc tế Cộng sản cũng góp phần quyết định đến chất lượng bồi dưỡng, giáo dục các thế hệ cán bộ lãnh đạo của các đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản trẻ tuổi và làm cho các đảng đó trở thành đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản phát triển và trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tích lũy được nhiều kinh nghiệm, giá trị trong đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh đế quốc và phát-xít, vạch mặt bọn cơ hội, xét lại; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quốc tế Cộng sản đã phát triển toàn diện vấn đề dân tộc, thuộc địa, vạch ra con đường, chiến lược đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc; phối hợp hành động giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tích cực giúp đỡ các dân tộc trong đấu tranh vì độc lập, tự do. Trọng tâm trong sự nghiệp của mình là Quốc tế Cộng sản đã rất quan tâm đến vấn đề cách mạng thuộc địa, nhìn rõ mối quan hệ giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh, trong đó có Việt Nam; qua đó, góp phần làm gắn bó giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa. Cùng với sự chiếu rọi từ ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, sự quan tâm giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản là nhân tố rất quan trọng làm thức tỉnh nhân dân các dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên chống đế quốc, thực dân, giành độc lập, đưa đất nước phát triển theo xu hướng mới. Đó vừa là thành tựu về thực tiễn, vừa là giá trị về tư tưởng, lý luận của Quốc tế Cộng sản.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐÃ KẾT HỢP CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN TRÊN PHẠM VỊ TOÀN THẾ GIỚI


Với sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản và V.I. Lênin, khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” của C. Mác đã được phát triển thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó không chỉ thể hiện sự phát triển về mặt lý luận, mà còn phản ánh sự lớn mạnh của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trong thực tiễn. Điều đó làm cho Quốc tế Cộng sản ngày càng phát triển, trở thành người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Từ khi thành lập Quốc tế Cộng sản đến khi tuyên bố tự giải tán (năm 1943), phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, có bước tiến dài, vững chắc. Sự hình thành, phát triển, tiến bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các đảng cộng sản theo lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin là dấu ấn nổi bật, thể hiện công lao không thể phủ nhận của Quốc tế Cộng sản.
Trong hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Quốc tế Cộng sản đã tổ chức 7 kỳ đại hội. Qua mỗi kỳ đại hội, cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng tiến bộ, trưởng thành. Một loạt đảng cộng sản, đảng công nhân ở nhiều nước đã ra đời, trực tiếp lãnh đạo và đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ở mỗi nước. Năm 1919, chỉ có 10 đảng cộng sản tham gia Quốc tế Cộng sản, đến năm 1921, con số này đã lên đến 48. Quốc tế Cộng sản hoạt động theo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tổ chức cũng như khi thảo luận thông qua các văn kiện về nhiệm vụ chiến lược, cương lĩnh, luôn bảo đảm đoàn kết, nhất trí, ngăn ngừa những phần tử cơ hội, hữu khuynh, phần tử “phái giữa” chống phá và chui vào tổ chức; bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất và bản chất cách mạng của Quốc tế Cộng sản. Đó là yếu tố đảm bảo chắc chắn cho sự trong sạch, vững mạnh của các đảng cộng sản để các đảng đủ sức làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng.

QUỐC TẾ CỘNG SẢN CÓ CÔNG LAO TO LỚN TRONG BẢO VỂ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Ngay sau khi Ph. Ăngghen qua đời (năm 1895), các phần tử cơ hội, xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác đã lên nắm quyền lãnh đạo và lũng đoạn Quốc tế II (1889 - 1914), đòi “hạ bệ chủ nghĩa Mác”; muốn thay chủ nghĩa Mác bằng hệ tư tưởng tư sản. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền hệ tư tưởng phản động trong phong trào cộng sản và công nhân; đưa ra luận thuyết ảo tưởng “hòa bình giai cấp” và chủ trương “chủ nghĩa tư bản hòa bình nhập vào chủ nghĩa xã hội”. Nguy hiểm hơn, họ còn công khai đứng về phía giai cấp tư sản - kẻ thù của giai cấp công nhân, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, chống lại những người Bôn-sê-vích.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời đã đập tan những ảo tưởng đó của bọn cơ hội, xét lại. Những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mác-xít khoa học và cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm “lầm đường, lạc lối” của phái “tả khuynh”, cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó không những làm trong sạch phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển mới và đúng hướng của phong trào. Lịch sử ra đời và tồn tại của Quốc tế Cộng sản cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ chống các phần tử cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, để khẳng định, bảo vệ và phát huy những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn. Đó là công lao to lớn đầu tiên của Quốc tế Cộng sản.

NHẬN DIỆN SỰ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Ngày 02-3-1919, tại Mát-xcơ-va, Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) - tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới - được thành lập. Chỉ tồn tại hơn 20 năm, song với những hoạt động sôi nổi và phong phú của mình, Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị to lớn, không thể phủ nhận đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời, phát triển của nhiều đảng cộng sản trên thế giới là những tiền đề cơ bản, trực tiếp cho sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, thể hiện yêu cầu khách quan, bức thiết của phong trào công nhân và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Quốc tế Cộng sản là sự kế tiếp hợp quy luật, phản ánh kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế suốt hàng thế kỷ được soi sáng và dẫn dắt bởi học thuyết khoa học và cách mạng - chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị lịch sử không thể phủ nhận đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cách mạng thế giới.
Tuy vậy, các thế lực thù địch và chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc vẫn ra sức xuyên tạc, công kích vào những tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân - các tổ chức truyền bá, bảo vệ, phát triển và đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng. Đặc biệt là, họ phủ nhận những giá trị của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự chống phá càng gia tăng sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Hiện nay, sự chống phá đó tiếp tục diễn ra quyết liệt khi các nước xã hội chủ nghĩa còn lại dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, song vẫn kiên định con đường, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, thực hiện đổi mới, cải cách và tiếp tục phát triển. Họ rêu rao rằng, Quốc tế Cộng sản cũng như chuyên chính vô sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là chuyên chế cá nhân, là sự thống trị bằng bạo lực, tước đoạt quyền tự do cá nhân, vi phạm nhân quyền. Họ đổ lỗi cho Quốc tế Cộng sản đã đề ra chiến lược, sách lược sai lầm do dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, dẫn đến sự sai lầm của các đảng cộng sản và công nhân ở nhiều nước trong xác định đường lối đấu tranh và nhiệm vụ cách mạng. Họ cố tình phủ nhận tính cách mạng của Quốc tế Cộng sản, rằng đó không phải là tổ chức theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vậy là, họ vừa đổ lỗi cho những sai lầm, hạn chế của Quốc tế Cộng sản vì tổ chức này là của chủ nghĩa Mác – Lênin; lại vừa đối lập về bản chất giữa Quốc tế Cộng sản với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là sự xuyên tạc vô lối về bản chất, tính chất cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và Quốc tế Cộng sản.