Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

DI SẢN VỀ TẤM GƯƠNG NHÂN HẬU, THỦY CHUNG, KHIÊM NHƯỜNG CỦA PH.ĂNGGHEN TRONG CUỘC SỐNG

Sinh ra và lớn lên trong dòng tộc tư sản lớn có sở sản xuất, cơ sở buôn bán trong và ngoài nước, Ph.Ăngghen hoàn toàn có điều kiện sống một cuộc sống giàu sang nếu Ông nghe theo, làm theo ý muốn của cha mình. Song, Ph.Ăngghen đã không làm như vậy bởi ngay từ khi còn rất trẻ Ông đã sớm nhận thấy vẻ đẹp của vùng đồi núi quê hương ông hoàn toàn trái ngược với cảnh khổ cực của những người thợ dệt vải, dệt kim mà nhiều người phải tìm sự lãng quên khổ cực ấy trong các ly rượu mạnh. Ông căm giận khi những chủ xưởng giàu có, bề ngoài ra vẻ mộ đạo, siêng năng đi lễ nhà thờ nhưng lại bắt trẻ con làm việc cực nhọc cả ngày để kiếm vài xu, để chúng chết dần, chết mòn cùng cha mẹ chúng đang bị vắt kiệt sức trong các xí nghiệp. Những cảnh tượng ấy đeo bám Ông, ám ảnh Ông suốt cả cuộc đời. Ông yêu thích Dichprit, Telơ, Phauxtơ vì trong văn học Đức, theo Ông, đây là những nhân vật tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống áp bức, những nhân vật tượng trưng cho lòng dũng cảm, tinh thần sẵn sàng hy sinh cũng như lòng khao khát hiểu biết. Ông coi đó là những tấm gương và dự định sẽ hướng cuộc đời của mình theo tinh thần của họ, trung thành với lý tưởng nhân đạo và tự do mà họ đã đấu tranh và sẵn sàng chịu đựng để đạt được nó. Với lý tưởng như vậy, từng bước, từng bước Ông đến với giai cấp vô sản, gắn bó với họ, thủy chung chiến đấu vì cuộc sống của họ cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Đối với bạn bè, tấm lòng nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ph.Ăngghen cũng luôn mẫu mực. Quan hệ với C.Mác và gia đình C.Mác là ví dụ điển hình. C.Mác và Ph.Ăngghen gắn bó với nhau trước hết và quan trọng nhất vì tư tưởng, lý tưởng của các Ông thống nhất với nhau nhưng gia cảnh của các Ông thì rất khác nhau. Từ năm 1849 cho đến năm 1883 (năm C.Mác từ trần), C.Mác và gia đình sống ở Luân Đôn. Đây là thời gian tư tưởng về các lĩnh vực của C.Mác và Ph.Ăngghen đã bước vào giai đoạn phát triển, nhiều lĩnh vực đã chín mùi và sự chống phá về tư tưởng của các thế lực thù địch với giai cấp vô sản cũng diễn ra rất khốc liệt. Việc thể hiện thành tác phẩm những tư tưởng khoa học về cách mạng vô sản và chống các luận điểm mị dân, xuyên tạc của các học giả tư sản là nhu cầu rất cấp thiết nhưng đây cũng lại là thời kỳ gia đình C.Mác cực kỳ khó khăn về kinh tế. Có lúc “Các chủ hiệu bánh mì, hiệu thuốc, hàng thịt cầm hóa đơn kéo đến tụ tập trước cửa. Mác chạy đến hết người quen nọ, người quen kia, tất tả ngược xuôi mãi mới vay được số tiền cần thiết”. “Các đồ đạc của vợ chồng Mác lần lượt thay nhau chạy về ngôi nhà có treo ba quả cầu vàng trước cửa hiệu cầm đồ”. Trong bối cảnh ấy, Ph.Ăngghen luôn là người chung lưng gánh vác cùng C.Mác. Tháng tháng, vào những ngày nhất định, Ph.Ăngghen lại gửi tiền về Luân Đôn cho gia đình C.Mác. “Đối với gia đình ông (gia đình Mác - Tg), sự giúp đỡ tài chính thường xuyên của Ph.Ăngghen là sự cần thiết sống còn”. Chỉ có sự giúp đỡ đó mới cho phép Mác chịu nổi gánh nặng của cuộc đấu tranh mệt nhọc chống lại sự thiếu thốn để hoàn thành các tác phẩm của mình. Ngay cả trước khi từ trần, trong di chúc, Ph.Ăngghen cũng không quên để lại một phần tài sản của mình cho những người thân trong gia đình C.Mác.

Sự giúp đỡ của Ph.Ăngghen đối với C.Mác không thuần túy chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Khi C.Mác từ trần, bộ “Tư bản” được đánh giá là bộ kinh điển mẫu mực thể hiện quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, được C.Mác coi là “sự nghiệp của cuộc đời mình”, mới xuất bản được tập I vào năm 1867, các tập còn ở dạng bản thảo viết tay của C.Mác. Nếu không xuất bản thành sách, những nội dung còn lại của “Tư bản” sẽ bị xuyên tạc. Vì lợi ích của giai cấp vô sản và cũng vì C.Mác, Ph.Ăngghen đã dừng tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” - tác phẩm đang chuẩn bị dang dở của mình - tập trung hơn chục năm còn lại của cuộc đời để chỉnh lý, bổ sung nội dung và bỏ tiền của mình xuất bản được tập II vào năm 1885, tập III vào năm 1894. Bằng việc xuất bản tập II và tập III của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen đã dựng cho người bạn của mình một tượng đài trang nghiêm, vĩnh cửu mà trên tượng đài đó, Ph.Ăngghen không ngờ Ông cũng đã để lại tên Ông bằng những nét vàng không bao giờ phai nhạt.

Cho đến đây, lý luận của giai cấp vô sản gồm 3 bộ phận cấu thành do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng ở thế kỷ XIX đã hình thành trọn vẹn. Thông thường, theo truyền thống của nhân loại, tên của các nhà phát minh sẽ được đặt cho phát minh nhưng ngay từ năm 1883 - năm C.Mác từ trần, khi nhiều ý kiến đề xuất tên của hai người là tên của lý luận, Ph.Ăngghen đã rất khiêm nhường bày tỏ quan điểm của mình với nội dung là: Tôi không hề phủ nhận công lao của tôi trong 40 năm cộng tác với Mác, nhưng những gì tôi đã làm thì không có tôi Mác vẫn có thể làm được, còn những gì Mác đã làm thì tôi và chúng ta chưa thể nào làm được, Mác đứng cao hơn tôi một cái đầu, nhìn xa hơn tôi một tầm, Mác là thiên tài còn chúng ta giỏi lắm chỉ là người có tài mà thôi, tôi chỉ xứng đáng là cây vĩ cầm thứ hai đứng bên cạnh Mác, bởi vậy học thuyết này xứng đáng được mang tên của Mác.

Lý luận của giai cấp vô sản thế kỷ XIX mang tên một người: Chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác, Kinh tế chính trị Mác và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo đề xuất của Ph.Ăngghen, ta không thấy có tên Ông ở đây nhưng trong mỗi nét chữ, mỗi tư tưởng của triết học Mác, kinh tế chính trị Mác và chủ nghĩa xã hội khoa học đều có cả trí tuệ, tiền của, thời gian, sức lực của Ph.Ăngghen trong đó mà nếu không có trí tuệ, tiền của, thời gian, sức lực này, không thể có chủ nghĩa Mác.

DI SẢN VỀ TRÍ TUỆ CỦA PH.ĂNGGHEN TRONG VIỆC XÂY DỰNG LÝ LUẬN CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN

V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác với Phri-đrich Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Phri-đrich Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”. Trong lĩnh vực này, Ph.Ăngghen là người đã cùng C.Mác và độc lập với C.Mác xây dựng thành công cả ba bộ phận cấu thành lý luận của giai cấp vô sản, gồm: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.

Về triết học, triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

Với chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngoài những tác phẩm viết chung với C.Mác, những tác phẩm Ph.Ăngghen viết độc lập như “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Lút vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, v.v. đã để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc về thế giới quan duy vật biện chứng khi Ông khẳng định: Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất; vận động, không gian, thời gian là những phương thức tồn tại của vật chất; mọi vận động trong thế giới vật chất đều tuân theo những quy luật chung nhất, vốn có của nó như “Quy luật về sự chuyển hóa từ số lượng thành chất lượng và ngược lại”, “Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”, “Quy luật về sự phủ định của phủ định”, v.v.  Ph.Ăngghen cũng là người đầu tiên đã vận dụng những quy luật này vào việc nhận thức sự vận động của giới tự nhiên, luận giải rõ mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên - con người - xã hội…

Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác phẩm “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị” - công trình lớn đầu tiên của Ph.Ăngghen về kinh tế được viết trong năm 1843 và đầu năm 1844 - giữ vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong tác phẩm này, ngoài việc phê phán các nhà kinh tế học tư sản, Ph.Ăngghen đã nhìn nhận sâu sắc cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, nội dung kinh tế và ảnh hưởng xã hội của nó. Tác phẩm cung cấp nhiều tư liệu quan trọng cho “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị - Lời tựa” và một số tác phẩm khác của C.Mác và Ph.Ăngghen sau này; trong đó “Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của hai Ông, thể hiện những quan điểm duy vật mang tính nền tảng cho việc nhận thức lịch sử - xã hội. Theo đó, sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại của xã hội và tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đạt được quyết định trạng thái của xã hội; không phải ý thức quyết định đời sống của con người mà chính đời sống của con người quyết định ý thức của họ… Những tư liệu này được C.Mác hệ thống, khái quát thành tư tưởng cơ bản nhất quan điểm duy vật về lịch sử, thể hiện trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị - Lời tựa” của Ông là: Sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, sự phát triển này là quá trình lịch sử - tự nhiên, tuân theo những quy luật khách quan, trong đó trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng.

Sự hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã xác lập một thế giới quan khoa học và một phương pháp luận khoa học, nó không chỉ giải thích thế giới mà còn là công cụ định hướng cho con người cải tạo thế giới.

Về kinh tế chính trị, Ăngghen đã cùng Các Mác xây dựng lên một học thuyết kinh tế mới, đem lại một cuộc cách mạng trong kinh tế học chính trị.

Từ những tác phẩm đầu tay của mình như “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” cùng nhiều bài viết khác, Ph.Ăngghen đã vạch rõ sự khốn cùng của người lao động, kịch liệt phê phán kinh tế chính trị tư sản biện hộ cho hệ thống tư bản chủ nghĩa, từ đó Ông chỉ ra nguyên nhân sâu xa của những bất bình đẳng, bất công xã hội, nguyên nhân sâu xa của sự khốn cùng mà giai cấp công nhân và người lao động đang gánh chịu là chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, nhất là chế độ sở hữu tư sản. Chính những phát hiện ban đầu mang tính khoa học này của Ph.Ăngghen đã gợi mở cho Các Mác một hướng nghiên cứu mới về xã hội tư bản chủ nghĩa - hướng nghiên cứu chuyển từ triết học và luật học sang nghiên cứu kinh tế chính trị. Đúng như V.I.Lênin đã  nhận định: “Rõ ràng là mối quan hệ với Ăngghen đã thúc đẩy Mác bắt tay vào nghiên cứu chính trị kinh tế học, là khoa học trong đó những tác phẩm của Mác đã gây ra cả một cuộc cách mạng”. Cuộc cách mạng mà V.I.Lênin đề cập đến là sự ra đời của Học thuyết giá trị thặng dư - Học thuyết được coi là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận về kinh tế chính trị của C.Mác vì nó đã phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, làm sáng tỏ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Về chủ nghĩa xã hội khoa học - lĩnh vực “thể hiện về mặt lý luận của phong trào vô sản” được V.I.Lênin khái quát: “Có thể vắn tắt nêu công lao của Mác và Ăngghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai Ông đã dạy cho công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng”. Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - văn kiện cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen viết được công bố vào đầu năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sáng tỏ những quy luật phát triển của xã hội dẫn đến sự thay thế nhau của các phương thức sản xuất để luận chứng cho sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, chỉ rõ những con đường xây dựng chế độ xã hội mới là chủ nghĩa cộng sản. Cũng trong chương này, các tác giả đã giải thích sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản với tư cách là lực lượng thực hiện cuộc cách mạng xã hội, để “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.

Với bản thân Ph.Ăngghen, có thể nói suốt cả cuộc đời, Ph.Ăngghen đã gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và phong trào công nhân từ tri thức, sự cảm thông, tấm lòng trung thành vô hạn và từ lập trường kiên định cách mạng của mình. Ngay cả khi ở trung tâm công nghiệp của Anh là Mansetxtơ, nơi Ph.Ăngghen đến một hãng buôn mà cha Ông có cổ phần, Ph.Ăngghen cũng không phải chỉ làm việc ở văn phòng mà Ông còn thường xuyên đi vào các khu phố bẩn thỉu - nơi công nhân sống chen chúc, thấy tận mắt sự khốn cùng và những nỗi khổ đau của họ.. Những chuyến đi này giúp Ph.Ăngghen trực tiếp nhận thấy nhu cầu bức thiết của một giai cấp bị áp bức, bị bóc lột tàn bạo nhất trong chủ nghĩa tư bản và phát hiện ra sức mạnh to lớn ở giai cấp này với tư cách là một một lực lượng xã hội đóng vai trò chủ đạo thực hiện cuộc cách mạng xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới vì sự phát triển của con người. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen chỉ rõ: “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không sẽ bị diệt vong”, “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới …, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.

Nhìn nhận quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin khẳng định: “Ăngghen là người đầu tiên đã nói rằng giai cấp vô sản không phải chỉ là giai cấp đau khổ, rằng chính địa vị kinh tế nhục nhã của giai cấp vô sản thúc đẩy, một cách không gì ngăn cản nổi, nó tiến lên và buộc nó phải đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của nó. Và giai cấp vô sản đấu tranh sẽ tự mình giúp bản thân mình. Phong trào chính trị của giai cấp công nhân nhất định sẽ dẫn công nhân đến chỗ hiểu rằng đối với họ, không có lối thoát nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội chỉ sẽ là một sức mạnh, khi nó đã trở thành mục tiêu đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân. Đó là những tư tưởng chủ chốt trong cuốn sách của Ăngghen viết về tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh”.

Có thể khẳng định rằng: Kho tàng lý luận định hướng cho giai cấp vô sản nhận thức và hoạt động được hình thành và phát triển trong thế kỷ XIX in rất đậm dấu ấn trí tuệ và tình cảm của Ph.Ăngghen, kể cả trong triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Nghiên cứu toàn bộ kho tàng lý luận ấy, V.I.Lênin đã nhận định: Sau C.Mác, không ai khác, Ăngghen chính là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh.

CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ “XÃ HỘI DÂN SỰ” ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC

Thời gian gần đây, một số đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng việc Đảng ta tiến hành lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo các văn kiện phục vụ Đại hội XIII để đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Trong đó, các đối tượng tích cực cổ súy, ca ngợi, hình tượng hóa vấn đề “xã hội dân sự”, yêu cầu Đảng ta phải có cơ chế khuyến khích “xã hội dân sự” phát triển, coi đây là một chiêu bài để hiện thực hóa chiến lược “diễn biến hòa bình” tại Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng tại Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước trên thế giới cũng như tại chính Việt Nam cho thấy các thế lực thù địch, chống đối đã sử dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để tiến hành các hoạt động chống phá, tấn công nhằm làm thay đổi tình hình chính trị của quốc gia. Thủ đoạn chống phá dưới chiêu bài “xã hội dân sự” đã tạo ra những hệ quả vô cùng nghiêm trọng, là nguồn gốc thai nghén ra các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, bạo loạn lật đổ chính quyền tại không ít nơi.

Khái niệm “xã hội dân sự” (Civil Society) có nguồn gốc từ phương Tây. Một cách đơn giản, “xã hội dân sự” được hiểu là những hoạt động tập thể tự nguyện, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân; tồn tại độc lập, dưới hình thức các tổ chức và thiết chế tự quản, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước, yếu tố thị trường và ngoài khu vực gia đình.

Tại Việt Nam, các tổ chức “xã hội dân sự” đang tồn tại dưới nhiều hình thức như: tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, nhân đạo, từ thiện, hữu nghị; các tổ chức cộng đồng theo dòng tộc, sở thích; các tổ chức dịch vụ công không phải do Nhà nước lập ra… Các tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự bảo đảm kinh phí, phi lợi nhuận, tuân thủ các quy định của pháp luật và tích cực phối hợp hoạt động với Nhà nước.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, các thế lực thù địch, chống đối, cơ hội chính trị đang bóp méo, biến tướng vấn đề về “xã hội dân sự”, coi việc hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” là bước đầu để tập hợp lực lượng, thái nghén, sản sinh ra các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản ngay trong lòng đất nước.

Điều này chúng ta có thể dễ dàng thấy được hoạt động của nhiều hội, nhóm núp bóng “xã hội dân sự” do các cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước thành lập, điều hành, như: “Hội anh em dân chủ”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Tổ chức xã hội dân sự”, “Viet Liberty” (Việt Nam Tự do), “Nhà xuất bản tự do”, “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”…

Đặc biệt, các đối tượng chống đối không chỉ đơn thuần thành lập các hội, nhóm dưới bóng “xã hội dân sự” trong lòng Việt Nam, hoạt động một cách độc lập, riêng rẽ, mà đã có sự móc nối, câu kết chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc tế thường xuyên có hoạt động chống phá Việt Nam như RSF (Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế), VOICE (Sáng kiến thể hiện lương tâm người Việt hải ngoại)…

Dưới vỏ bọc “xã hội dân sự”, các đối tượng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại Việt Nam; hình thành các hội nhóm, tổ chức để tập hợp lực lượng, tiến hành huấn luyện, đào tạo các phương thức hoạt động; tạo dựng lực lượng chống đối trong lòng đất nước, tiến đến các cuộc bạo loạn lật đổ theo hướng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”.

Cần phải nhấn mạnh, “dân chủ” chỉ là vỏ bọc để các đối tượng đưa ra nhằm đánh lừa nhận thức của người dân. Mục tiêu của việc thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự” tại Việt Nam là tạo ra con đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản một cách công khai, hợp pháp. Từ đó, các đối tượng đưa Việt Nam đi vào con đường đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với Nhà nước và xã hội.

Khi tiến hành chống phá dưới chiêu bài “xã hội dân sự”, trước nhất các đối tượng ra sức cổ súy tính ưu việt, sự dân chủ của “xã hội dân sự” để đánh lừa nhận thức của người dân, cũng như hạ bệ vai trò của hệ thống chính quyền. Thời gian vừa qua, trước tình hình mưa lũ diễn ra tại miền Trung, cùng với lực lượng Công an, Quân đội và các cơ quan chức năng, có thể thấy nhiều cá nhân, tổ chức thiện nguyện đã tích cực tiến hành các hoạt động giúp đỡ, cứu trợ, khắc phục hậu quả mà thiên tai đã gây ra cho đồng bào bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, bất chấp việc các cơ quan chức năng đang vào cuộc một cách mạnh mẽ và quyết liệt, một số đối tượng lại phủ nhận sạch trơn vai trò của hệ thống chính quyền. Không ít đối tượng lợi dụng việc làm từ thiện của một số cá nhân, tổ chức trong xã hội để so sánh, đổ lỗi, trách móc chính quyền.

Các đối tượng này cố tình hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; rêu rao luận điệu cho rằng các tổ chức “xã hội dân sự” hoạt động ưu việt và hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan công quyền. Từ đó, các đối tượng kích động sự hoài nghi, thiếu niềm tin vào Đảng trong một bộ phận quần chúng. Đặc biệt, không ít cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị cũng triệt để tận dụng vấn đề làm từ thiện trên để đánh bóng tên tuổi.

Đồng thời, các đối tượng tập trung tung ra luận điệu đòi tuyệt đối hóa sự “độc lập” của các tổ chức “xã hội dân sự”, đòi thúc đẩy thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức “xã hội dân sự”. Với lý do “bảo vệ sự dân chủ”, các đối tượng cho rằng cần có sự tách bạch một cách tuyệt đối giữa “công” và “tư”, giữa nhà nước và xã hội dân sự. Thậm chí, các đối tượng này còn đưa ra quan điểm cho rằng, các tổ chức “xã hội dân sự” chỉ cần hoạt động theo tôn chỉ, mục đích, thỏa thuận của những người lập ra nó mà không cần tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình tiến hành chống phá, các tổ chức chống đối núp bóng “xã hội dân sự” không chỉ hoạt động đơn lẻ, cá biệt, mà có sự câu kết, móc nối với các cá nhân, tổ chức phản động, chống đối ngoài nước để cùng tiến hành công kích dưới hình thức “nội công, ngoại kích”. Các thế lực thù địch, chống đối, phản động ở nước ngoài trở thành chỗ dựa về tinh thần, nguồn viện trợ về vật chất cho các tổ chức trong nước.

Ngoài ra, các thế lực này dưới nhiều thủ đoạn khác nhau cũng tiến hành gây sức ép, đòi chúng ta thay đổi đường lối, chính sách, pháp luật, tạo điều kiện, nền tảng thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức chống đối trong nước hoạt động. Dưới sự chống lưng giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các hội, nhóm trong nước trực tiếp tiến hành các hoạt động chống phá, tấn công chính quyền, trở thành nơi tập hợp những thành phần bất hảo, hình thành lực lượng đối lập, sẵn sàng tiến đến bạo loạn lật đổ theo hình thức “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”.

Thông qua hình thức “xã hội dân sự”, lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do đóng góp ý kiến, các đối tượng thúc đẩy tư tưởng “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hướng lái người dân hình thành tâm lý chống đối, phản kháng với chính quyền. Dưới danh nghĩa phản biện xã hội, đóng góp ý kiến, không ít đối tượng đã biến nó thành một diễn đàn để công khai các luận điệu xuyên tạc, công kích, chống phá chính quyền, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Chúng ta không kỳ thị, không ngăn cản việc người dân lập hội, tham gia các tổ chức “xã hội dân sự”. Điều 25, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy nhiên, tất cả các hội nhóm, đoàn thể đều phải tuân thủ nghiêm các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động núp bóng thành lập “xã hội dân sự” để sản sinh ra các hội, nhóm chống đối đều là vi phạm, cần phải chấn chỉnh, loại bỏ.

TÔN TRỌNG TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÀ BẢO ĐẢM TRÊN THỰC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân được đảm bảo. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, trong đó đều khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”; “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”...

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016, Nghị định số 162/NĐ-CP ngày 31/12/2017 về biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng tôn giáo... Trong các văn bản pháp luật này đều khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng đa dạng, được Đảng, Nhà nước bảo đảm hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Cùng với sự mở cửa, phát triển của đất nước, tôn giáo ở Việt Nam có sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ, đa dạng hơn. Năm 1990, Việt Nam có 6 tôn giáo, 3 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, cùng với một số loại hình tín ngưỡng dân gian gắn với các dân tộc. 

Từ năm 2003, thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo với khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến năm 2020, đã có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, khoảng 26,5 triệu tín đồ, sinh hoạt tôn giáo ở 29.660 cơ sở thờ tự.

Về chức sắc, năm 1990, nước ta có khoảng 38 nghìn chức sắc, nhà tu hành, đến nay tăng lên 61,2 nghìn chức sắc, 147,1 nghìn chức việc (tổng số chức sắc, chức việc khoảng 208,3 nghìn), trong đó tăng nhanh và nhiều nhất là chức sắc Phật giáo và đạo Tin lành. 

Trước năm 2003, trung bình hằng năm có khoảng 7 nghìn lượt người tốt nghiệp hoặc hoàn thành các khóa đào tạo chức sắc do các tôn giáo tổ chức, nhưng từ 2003 đến năm 2018, trung bình hằng năm có khoảng 15 nghìn lượt người (tăng 215%). 

Với 56 cơ sở đào tạo của các tôn giáo hiện có (gấp 3 lần so với năm 1990), cùng với nhiều hình thức đào tạo đa dạng, linh hoạt, tăng cường các hình thức đào tạo ngắn hạn, cả ở trong nước và ở nước ngoài (đối với các tôn giáo ngoại nhập, có quan hệ quốc tế như Công giáo, đạo Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo) nên hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được đào tạo bài bản, nâng cao trình độ và uy tín, vai trò, ảnh hưởng đối với quần chúng tín đồ, không chỉ trong đời sống tinh thần mà cả trong đời sống xã hội.

Lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền là hoạt động xuyên suốt của những tổ chức, cá nhân và quốc gia thiếu thiện chí với Việt Nam. Trong khi thực tiễn là Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN

Thực tế cho thấy, không thể có quyền tự do tôn giáo tuyệt đối. Xét về bản chất, tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người tin theo một đối tượng tôn thờ, được sắp xếp theo cơ cấu nhất định. Mọi tổ chức tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Do vậy, các tôn giáo phải chịu sự quản lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp luật để tiến hành quản lý nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia trên thế giới

Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ quyền và tự do cơ bản của người khác”.

Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động tôn giáo cũng phải tuân thủ luật pháp như: Điều 26, Luật của Cộng hòa Pháp về tách Giáo hội khỏi Nhà nước quy định: “Việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chính quyền có chức năng gìn giữ trật tự công cộng. Ở những nơi chuyên vào việc thờ tự và thực hành nghi lễ tôn giáo cấm việc hội họp có tính chất chính trị”. Điều 27 quy định: “Các nghi lễ, các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu vực nhà thờ và việc kéo chuông phải tuân theo những quy định của chính quyền tỉnh, thành phố”.

Luật pháp Cộng hòa Bỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với những giáo sĩ có hành vi và lời nói xúc phạm tới Chính phủ, luật pháp, sắc lệnh của nhà vua cũng như đối với các hoạt động của chính quyền.

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, giáo sĩ cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự như công dân khác trong trường hợp vi phạm hiến pháp, pháp luật. Cũng ở Đức, các giám mục Thiên chúa giáo khi nhậm chức phải tuyên thệ: “Tôi xin thề và hứa sẽ tôn trọng Chính phủ hợp hiến. Chiểu theo nghĩa vụ phải quan tâm tới lợi ích của Nhà nước Đức trước bất kỳ sự gì khả dĩ tác hại tới lợi ích đó”.

Ở Mỹ, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được quản lý theo luật pháp của các bang. Luật của các bang quy định về hoạt động tôn giáo có những điểm khác nhau về chi tiết, song nhìn chung đều dựa trên yêu cầu thống nhất trong toàn liên bang như: Việc đăng ký thủ tục bắt buộc đối với các tổ chức tôn giáo trong toàn liên bang, lệ phí phải nộp cho chính quyền về việc đăng ký là 15 đô la; các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của bang. Chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân.

Ở Nhật Bản, Luật về các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân quy định rõ: Các cấp chính quyền quản lý các tổ chức tôn giáo là Bộ Văn hóa, tỉnh, huyện. Các tổ chức tôn giáo đều phải đăng ký ở Bộ Văn hóa và chỉ sau khi đã được đăng ký mới được hoạt động tại nơi đặt văn phòng của tổ chức đó.

NHẬN DIỆN MỘT SỐ LUẬN ĐIỆU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA

Thời gian qua, một số tổ chức và cá nhân luôn tìm cách sử dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Luận điệu mà họ đưa ra là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân; đòi tách tôn giáo khỏi sự quản lý của Nhà nước, yêu cầu chính quyền không kiểm soát, kiểm duyệt các tôn giáo, cho phép tôn giáo được tự do hoạt động. 

Họ nêu ra các vấn đề rằng, “nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về tôn giáo, dân tộc không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Thậm chí, họ còn trắng trợn phê phán, xuyên tạc “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”.

Đồng thời họ còn cho rằng, Việt Nam đề ra chính sách pháp luật nhưng không thực hiện. Trong các Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế hàng năm do Cục Dân chủ, nhân quyền và lao động, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố đều nêu nội dung: “Hiến pháp Việt Nam quy định quyền tự do tôn giáo, tuy nhiên Chính phủ vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn giáo”. Trong các báo cáo này còn nêu ra “các biện pháp hạn chế tự do tôn giáo”, “các trường hợp lạm dụng tự do tôn giáo…, một số tín đồ tôn giáo tiếp tục bị đàn áp hoặc sách nhiễu…”. 

Các đối tượng còn tuyên truyền, chỉ trích, vu cáo “chính quyền Việt Nam cấm đoán nhiều tổ chức, hệ phái tôn giáo hoạt động” và “kiểm soát chặt chẽ” hoạt động của các tổ chức tôn giáo đã được Chính phủ công nhận, “cấm mục sư Tin lành đi lại truyền đạo, cấm con em những người theo đạo đến trường”, yêu cầu chính quyền “chấm dứt sự phủ quyết đối với việc bổ nhiệm các giám mục Công giáo” (thực tế, Vatican đã thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam về việc bổ nhiệm giám mục ở Việt Nam phải được Nhà nước Việt Nam chấp thuận).

Trong vấn đề đào tạo chức sắc tôn giáo, các đối tượng vu cáo “chính quyền hạn chế một cách “độc đoán” về số lượng sinh viên được phép đào tạo thành linh mục”. 

Một số tổ chức, cá nhân trên các danh nghĩa khác nhau đã gặp gỡ, tiếp xúc số chức sắc, tín đồ có tư tưởng cực đoan, quá khích trong các tôn giáo như: Thích Không Tánh (Phật giáo), Nguyễn Văn Lý (Công giáo), Nguyễn Hồng Quang (Tin lành), Hứa Phi (Cao Đài),... để hậu thuẫn, kích động, hỗ trợ cho số này tiến hành hoạt động vi phạm pháp luật. 

Khi những đối tượng này có hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý (bắt, giam giữ, truy tố, tù giam), họ thường có phản ứng quyết liệt để bênh vực, bảo vệ họ như: Phản đối, lên án ta đàn áp tôn giáo, yêu cầu ta phải trả tự do cho những người mà họ gọi là “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân lương tâm”.

Lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền là hoạt động xuyên suốt của những tổ chức, cá nhân và quốc gia thiếu thiện chí với Việt Nam. Trong khi thực tiễn là Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

GIẢI PHÁP CHỮA “BỆNH QUAN LIÊU” CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Quán triệt quan điểm của Đảng về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; đẩy mạnh Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục thực hiện có chất lượng Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” và tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số 89-QĐ/TW, Quy định số 90-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII… là những giải pháp quan trọng nhằm từng bước “tẩy sạch bệnh quan liêu” của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và phức tạp, xuyên suốt trong tiến trình cách mạng; cần có sự quan tâm, chung sức của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. “Tẩy sạch bệnh quan liêu” cũng là để củng cố, phát huy vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng, theo đó, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, thực hiện có hiệu quả chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt, công tác của tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị

Hai là, thực hiện đúng nguyên tắc trong quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển và đánh giá cán bộ.

Ba là, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách làm việc và năng lực công tác của cán bộ

Bốn là, rèn luyện phong cách làm việc gần dân, sát thực tế của cán bộ.

Sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Từ thực tế “bệnh quan liêu” ở không ít cán bộ hiện nay, đòi hỏi các cấp ủy đảng, các cơ quan, đơn vị và toàn hệ thống chính trị phải tích cực, chủ động, linh hoạt và kiên quyết, đảm bảo đúng nguyên tắc, phương châm, quan điểm chỉ đạo trong công tác cán bộ để “tẩy sạch bệnh quan liêu” trong cán bộ. “Mong rằng toàn thể cán bộ ta, ai không mắc bệnh quan liêu phải giữ gìn, tránh nó. Ai đã mắc bệnh ấy, thì phải cố gắng sửa chữa cho khỏi đi, cho xứng đáng với người cán bộ cách mạng, chớ để bị đào thải”./.

CHỮA “BỆNH QUAN LIÊU” CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cán bộ và công tác cán bộ. Bởi, theo Người: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý nhất định”. Cán bộ là dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, toàn bộ máy cũng bị tê liệt, vì họ “là những người đem chính sách của Đảng thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ kém thì chính sách hay mấy cũng không thể thực hiện được”.

Xác định vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cánh mạng, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những thứ “bệnh”, nguyên nhân, tác hại và đưa ra “thuốc chữa bệnh”. Thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin “Kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta, chính là anh chàng quan liêu... Chúng ta phải gạt bỏ kẻ thù đó”, Hồ Chí Minh khẳng định “bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà có nằm trong các tổ chức ta, để làm hỏng công việc của ta”, “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác… phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm, liêm chính… để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc. Đó là nhiệm vụ quan trọng của mỗi chúng ta”.

Theo Hồ Chí Minh, “Bệnh quan liêu” là “chỉ biết dùng mệnh lệnh. Không biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm dân chúng tự giác và tự động”; là “Tham ô, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”, “Bệnh quan liêu... là trái hẳn với tinh thần trách nhiệm”. Nguyên nhân của “bệnh quan liêu” là “vì xa cách quần chúng, không hiểu biết dân chúng, không học hỏi dân chúng, sợ dân chúng phê bình” và “khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa”. Tác hại của “bệnh quan liêu” là vô cùng lớn, bởi vì nó “đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”. Cho nên, “Bệnh quan liêu chỉ đưa đến một kết quả là: hỏng việc. Vì vậy, chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy”.

Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, Đảng ta xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”. Trong những năm qua, cùng với đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta thường xuyên quan tâm, chăm lo công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với sự nghiệp cách mạng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới. “Công tác cán bộ được đổi mới và phát triển mạnh mẽ theo phương châm công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, đạt được một số kết quả quan trọng”. Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ chưa thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả, trách nhiệm trong công tác, tinh thần tự giác trong học tập, tu dưỡng phẩm chất đạo đức lối sống, ý thức tự phê bình và phê bình chưa cao, “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiền phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”, ngại va chạm, tiếp xúc với nhân dân, không lắng nghe và giải đáp kịp thời ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; đánh giá hiệu quả công việc cá nhân, cơ quan, đơn vị, địa phương chủ yếu dựa trên các báo cáo, “lối làm việc bàn giấy”, chưa nghiên cứu tình hình thực tế. Do đó, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị không cao, gây bức xúc trong nhân dân... Những biểu hiện đó đã và đang làm giảm sút ý chí chiến đấu, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết trong nội bộ, là cơ hội để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm kích động, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm lòng tin của nhân dân.

GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA CÓ HIỆU QUẢ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG TRONG LĨNH VỰC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

Một là, tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, mức độ nguy hiểm của các thế lực thù địch chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Qua đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; luôn kiên định vững vàng nền tảng tư tưởng của Đảng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; không dao động trước mọi âm mưu, thủ đoạn, trước sự tác động của tình hình và những thông tin sai trái, xuyên tạc, xấu độc, trên các trang mạng xã hội.

Triển khai thực hiện thực chất, hiệu quả các nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Hai là, chủ động ngăn chặn, khắc phục có hiệu quả những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Các cơ quan, đơn vị cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đấu tranh phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; đề cao tính nêu gương của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì, chủ chốt. Kiên quyết ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị.

Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững kỷ cương, giữ nghiêm kỷ luật; xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, để tăng “sức đề kháng”, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi cán bộ, đảng viên và từng cơ quan, đơn vị.

Từng cán bộ, đảng viên phải biết tự bảo vệ mình, nâng cao trình độ, năng lực, tình cảm và lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Không vì lý do nào đó mà “vô tình” hay “cố ý” phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng rơi vào suy thoái đạo đức, lối sống.

Ba là, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong từng cơ quan, đơn vị. Trọng tâm là nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong từng đảng bộ; thực hiện có chất lượng Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và các chủ trương, quy định của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các mối quan hệ và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống.

Bốn là, thường xuyên trau dồi, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch. Gắn việc nâng cao bản lĩnh chính trị với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả.

Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị bằng các hành động cụ thể, thiết thực./.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ ĐẢNG TRONG LĨNH VỰC ĐẠO ĐỨC

“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là trong tình hình hiện nay diễn ra hết sức phức tạp, vẫn là một trong những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra. Âm mưu, thủ đoạn của chúng thực hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực đạo đức cũng vậy, tính chất cũng hết sức tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm. Có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên trước thềm Đại hội XIII của Đảng trên một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, các thế lực thù địch bằng nhiều thủ đoạn ra sức phá hoại nền tảng tư tưởng đạo đức của Đảng.

Thứ hai, các thế lực thù địch đã khuếch trương những hạn chế, khuyết điểm trong bộ máy Đảng, Nhà nước làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, thiếu tin tưởng, tha hóa về đạo đức, lối sống.

Thứ ba, các thế lực thù địch cổ súy, du nhập lối sống tư sản vào một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho họ tha hóa về đạo đức, lối sống.

Thứ tư, các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Thứ năm, các thế lực thù địch thúc đẩy suy thoái về tư tưởng chính trị làm cho suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trầm trọng hơn.

Thứ sáu, các thế lực thù địch bóp méo, xuyên tạc các mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với quân đội để làm suy thoái các quan hệ đạo đức của cán bộ, đảng viên. 

ĐỪNG ĐỂ ĐỨC TIN BỊ LỢI DỤNG

Thực tế cho thấy, tôn giáo và các hoạt động liên quan tới tôn giáo luôn gắn liền với luật pháp của mỗi quốc gia. Cũng giống như mọi hoạt động xã hội khác, các sinh hoạt tôn giáo ở bất kỳ quốc gia nào đều không thể vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật của quốc gia đó.

Tại Việt Nam, việc quản lý nhà nước về tôn giáo cũng đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó xác định rõ quyền hạn hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trên các lĩnh vực quản đạo, hành đạo, truyền đạo; đồng thời nêu rõ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng theo quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo vào năm 2016 và Chính phủ có Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở pháp lý quan trọng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới của đất nước, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân.

Thế nhưng, phải thẳng thắn thừa nhận rằng đến nay, việc quản lý, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo của chính quyền các cấp và tại một số nơi vẫn còn những sơ hở, bất cập. Và các đối tượng cực đoan, phản động luôn tận dụng kẽ hở này để kích động các giáo dân gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại các địa phương mỗi khi có các vấn đề “nóng”, được dư luận quan tâm nổi lên. Núp dưới vỏ bọc "tự do tôn giáo" và những lời rao giảng “vì lợi ích thiết thực của giáo dân”, một số linh mục cực đoan ra sức lôi kéo, xúi giục, thậm chí gây sức ép để bà con giáo dân chống phá chính quyền, nhằm gây mất ổn định an ninh trật tự trên địa bàn. Cùng với đó, họ móc nối với các đối tượng phản động trong và ngoài địa phương tổ chức các hoạt động gây rối với mục tiêu nhằm phức tạp hóa tình hình, đẩy Giáo hội công giáo đối lập với chính quyền. Âm mưu này có thể được nhận rõ qua hàng loạt vụ việc xảy ra trong những năm gần đây như lợi dụng việc xả thải gây ô nhiễm môi trường của Công ty Formosa (Hà Tĩnh), giải tỏa chùa Liên Trì (TP Hồ Chí Minh), dựng thánh giá, nhà nguyện trái phép ở giáo xứ Đồng Chiêm (Hà Nội), Đồng Hới (Quảng Bình), hay việc giải tỏa đền bù đất tại 42 Nhà Chung, Nhà thờ Thái Hà (Hà Nội)...

Lợi ích đâu chẳng thấy, mà trái lại, những âm mưu kích động này cuối cùng chỉ khiến đời sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt thường ngày của bà con giáo dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đáng buồn hơn, nhiều giáo dân từ chỗ sống “tốt đời, đẹp đạo” bỗng bị dụ dỗ, kích động, mê hoặc bởi những lời rao giảng phi lý, để rồi vi phạm chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có người còn vướng vào vòng lao lý; đến khi tỉnh ngộ thì đã muộn.

Các giáo dân trước hết là các công dân, nên bất kỳ ai theo tín ngưỡng, tôn giáo nào cũng cần đặt trách nhiệm và nghĩa vụ công dân lên hàng đầu; ở đâu trên thế giới này cũng vậy chứ không chỉ ở Việt Nam. Cùng với đó, các giáo dân cần hết sức tỉnh táo, nhận rõ âm mưu thủ đoạn của những “bàn tay đen” muốn biến các giáo xứ thành thiết chế chính trị riêng, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của giáo dân nhằm phục vụ lợi ích cá nhân một số người nhưng lại phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng tới lợi ích chung của dân tộc, đất nước mà trước hết là cuộc sống yên bình của các giáo xứ, người theo đạo./.

ÂM MƯU BẮT NGUỒN TỪ LỢI ÍCH CÁ NHÂN

Có thể khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nhìn vào thực tế các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng đại đa số chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, một số đối tượng đứng đầu các giáo xứ, núp dưới chiêu bài "tự do tôn giáo" đã lái hoạt động tại các giáo xứ đi ngược với pháp luật và sự phát triển của đất nước.

Đến giờ, chắc hẳn nhiều người dân ở huyện Bố Trạch (Quảng Bình) vẫn chưa hết bất bình và bức xúc khi nhắc tới một linh mục từng làm dậy sóng dư luận địa phương và cả nước cách đây khoảng hơn 2 năm bởi những việc làm coi thường luật pháp. Với tư cách là quản xứ, thay vì phải làm những điều đúng với chức phận của một cha xứ, linh mục này lại đến từng nhà giáo dân và các gia đình đảng viên giáo dân gốc giáo để xúi giục bỏ Đảng, yêu cầu tháo cờ Tổ quốc. Tiếp đó, trong năm 2019, linh mục này đã không ít lần kích động để bà con giáo dân nghỉ chạy thuyền phục vụ khách du lịch tại động Phong Nha-Kẻ Bàng nhằm gây sức ép với UBND tỉnh Quảng Bình tăng giá chạy thuyền, dù kiến nghị tăng giá cho đội thuyền của các giáo dân vẫn đang được các cấp xem xét. Nhưng rồi cũng rõ, bản chất những hành động ấy là hoàn toàn mang động cơ cá nhân, "đục nước béo cò", muốn biến giáo xứ thành “căn cứ” riêng nhằm mục đích vụ lợi kinh tế bản thân.

Hay như một linh mục quản xứ khác ở thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình từng lợi dụng vấn đề cải cách giáo dục để rao giảng trên nhà thờ nghiêm cấm học sinh đến trường, nếu phụ huynh nào không nghe lời sẽ bị xử lý, bị tẩy chay khỏi giáo xứ, không được đi lễ nhà thờ. Thậm chí, linh mục này còn cắt cử tay chân chặn đường, ném đá vào các học sinh nhằm ngăn cản các em đến trường. Cuối cùng mới vỡ lẽ, mục đích của những hành vi đó chỉ là để phục vụ mưu đồ chính trị cá nhân, nhằm gây sức ép với chính quyền địa phương và thể hiện vai trò “thủ lĩnh” trong giáo xứ.

Dư luận có lẽ cũng chưa thể quên một số linh mục cực đoan tại các giáo xứ ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch (tỉnh Quảng Bình) ngang nhiên lạm quyền để lấn chiếm đất công, làm đường, mở rộng khuôn viên nhà thờ, từ đó khiến tình hình tại địa phương có lúc đứng trước nguy cơ bất ổn, thậm chí xung đột. Gần đây, khi cả nước đang nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực ngăn ngừa dịch Covid-19 lây lan, thì lại xảy ra sự việc một số linh mục ở các giáo xứ thuộc tỉnh Hà Tĩnh rung chuông tổ chức hành lễ, bất chấp Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của Bộ Y tế cũng như địa phương về việc giãn cách xã hội, hạn chế tập trung đông người để phòng, chống dịch Covid-19...

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật về công tác tôn giáo, trong đó đưa ra những nguyên tắc cụ thể liên quan tới lĩnh vực này. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là: Quyền tự do tôn giáo không phải là vô hạn và Nhà nước giữ vai trò trung gian trong việc ngăn chặn tình trạng các tổ chức tôn giáo lạm quyền chính trị hoặc lạm quyền tự do tôn giáo để tranh giành ảnh hưởng, xâm phạm vào các quyền tự do dân sự khác của người dân; hoạt động của các tôn giáo phải tuân thủ theo hiến pháp, pháp luật...

Bởi vậy, hành động của các linh mục nói trên xét cho cùng đã vi phạm nguyên tắc “lạm quyền”, tự do tôn giáo một cách quá trớn, muốn biến các giáo xứ thành “vương quốc” riêng, lạc nhịp với tinh thần, nguyên tắc thượng tôn pháp luật mà bất cứ công dân-giáo dân nào ở Việt Nam cũng như trên thế giới phải thực hiện.

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2020

SỰ THẬT KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Có một thực tế hiển nhiên mà phần lớn người dân cả nước, bạn bè quốc tế đã biết, đó là công tác phòng, chống thiên tai, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước, quân đội đặc biệt quan tâm, không chỉ khi thiên tai xảy ra mà từ việc chủ động phòng ngừa. Chúng ta đã sớm ban hành các chủ trương, chính sách, đề án, chiến lược về phòng, chống thiên tai và chống biến đổi khí hậu; đầu tư rất lớn cho nhiệm vụ này. Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, các bộ, ngành, địa phương đều có những phương án, kịch bản để phòng, chống với mọi tình huống thiên tai, sự cố. Chúng ta đã tổ chức Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn ở tất cả các cấp chính quyền, các địa phương, luôn chủ động chuẩn bị theo phương châm “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ; hậu cần tại chỗ) đồng thời thường xuyên tổ chức luyện tập, diễn tập để sẵn sàng ứng phó hiệu quả với mọi tình huống thiên tai. Việc khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố cũng luôn được triển khai bài bản, đồng bộ.

Từ nhiều năm nay, mỗi khi có các vụ thiên tai lớn, nhỏ xảy ra ở các địa phương trong cả nước, trước khi nhân dân chung tay cứu trợ thì Nhà nước và các cơ quan, tổ chức chính trị-xã hội, đặc biệt là các đơn vị quân đội, lực lượng vũ trang đã kịp thời có mặt để cứu giúp nhân dân vượt qua hoạn nạn. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cùng cán bộ, chính quyền các cấp không chỉ xông pha vào những vùng bão, lũ, sự cố hiểm nguy nhất, thậm chí sẵn sàng chấp nhận hy sinh thân mình để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, mà còn nỗ lực giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, tổng dọn vệ sinh môi trường, tái thiết cuộc sống... Giá trị của những việc làm ấy không thể đong đếm được và càng không thể bị phủ nhận, so sánh bằng tiền. Chưa kể, chính những con người vượt qua mọi nguy hiểm để cứu giúp nhân dân, trực tiếp nhường cơm sẻ áo cho người dân trong hoạn nạn ấy, lại tiếp tục tự nguyện trích một phần tiền lương của mình để ủng hộ, giúp đỡ đồng bào sớm vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Ngay ca sĩ Thủy Tiên cũng viết trên facebook cá nhân rằng, không thể so sánh việc làm của cô với các cơ quan chức năng của Nhà nước, bởi Nhà nước làm những công việc rất lớn mà khi ra hiện trường thực tế cô đã thấy rõ điều đó và rất trân trọng; còn việc làm của cô chỉ là rất nhỏ với mong muốn giúp được người dân chút nào hay chút đó với tinh thần "lá lành đùm lá rách" mà thôi.

Để đất nước có được sự phát triển như hôm nay, song song với việc ban hành các cơ chế, chính sách, thực hiện chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, đầu tư rất lớn để người dân các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, những nơi thường xảy ra thiên tai tập trung phát triển kinh tế-xã hội và vươn lên làm giàu. Việc xây dựng đường sá ngày càng to, đẹp đến các địa phương hẻo lánh; xây dựng các công trình chống lũ, thoát lũ; quy hoạch và di dân ra khỏi những nơi có nguy cơ cao để phòng tránh thiên tai... là minh chứng cho thấy Đảng, Nhà nước đã rất coi trọng làm việc này từ xa và từ sớm.

Một việc nữa mà chúng ta đều thấy rất rõ là, trước khi thiên tai xảy ra, ngoài việc các cơ quan chức năng đưa ra cảnh báo, khuyến cáo người dân; cử lực lượng giúp dân sơ tán, chằng chống nhà cửa, bảo vệ tính mạng và tài sản, thì các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và các địa phương cũng đi thị sát, kiểm tra và chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống thiên tai để giảm nhẹ thiệt hại; triển khai ngay các phương án ứng cứu, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả, sớm ổn định cuộc sống. Thậm chí có không ít cán bộ, công chức trong và ngoài quân đội, cả cán bộ cấp cao đã anh dũng hy sinh ngay trong lúc ứng cứu nhân dân. Thế nên việc ai đó so sánh công lao của một vài cá nhân trong huy động tiền cứu trợ với những việc mà Đảng, Nhà nước, cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị-xã hội đã, đang và sẽ làm trong công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, để rồi quy chụp theo dụng ý xấu xa của cá nhân, không chỉ thể hiện sự thiển cận, mà còn là sự phản động khi cố tình phủ nhận công sức, vai trò của Đảng, Nhà nước, quân đội và các tổ chức chính trị-xã hội, nhằm hướng dư luận xã hội đi theo quán tính, phục vụ cho mục đích xấu xa của họ, đó là kích động, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá đất nước.

Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận. Nhưng những phát ngôn không đúng pháp luật với âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại đất nước thì cần phải kiên quyết đấu tranh, xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Đó cũng là mong muốn của đại đa số người dân, nhất là trong lúc rất cần tăng cường sự đoàn kết, chung tay góp sức của toàn xã hội để giúp nhân dân miền Trung sớm vượt qua thiên tai, gian khó.

CẢNH GIÁC VỚI KIỂU SUY DIỄN, QUY CHỤP NGUY HIỂM

Người Việt Nam ta vốn có phẩm chất, truyền thống "thương người như thể thương thân", sẵn sàng tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách". Thế nên mỗi khi vùng, miền nào bị thiên tai, hoạn nạn là cả nước lại hướng về, cùng tương trợ, giúp đỡ đồng bào vượt qua gian khó. Lần này cũng vậy, khi bão lũ, sạt lở đất gây thiệt hại nặng nề về người và của ở miền Trung, không chỉ Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và cấp ủy, chính quyền các địa phương, các tổ chức chính trị-xã hội đều nỗ lực vào cuộc, khẩn trương ứng cứu nhân dân, mà đồng bào cả nước cũng tích cực giúp đỡ nhân dân miền Trung bằng những việc làm thiết thực, ý nghĩa. Những ngày này, rất nhiều tổ chức, cá nhân đứng ra quyên góp, ủng hộ bà con vùng bão lũ, từ các cụ già tới em nhỏ đều tích cực hưởng ứng, tham gia. Trong đó, một số người nổi tiếng mà điển hình là ca sĩ Thủy Tiên đã quyên góp được số tiền lớn để giúp đỡ người dân vùng lũ. Đây là một việc làm rất đáng trân trọng, hoan nghênh, được dư luận ghi nhận, đánh giá cao.

Có lẽ bản thân những "người của công chúng" khi đứng ra quyên góp làm việc thiện cũng xuất phát từ tấm lòng nhân ái. Họ phát huy lợi thế được nhiều công chúng mến mộ để kêu gọi cộng đồng ủng hộ nhằm giúp đỡ đồng bào vùng thiên tai, chứ không phải để "cạnh tranh" với trách nhiệm của chính quyền và các cơ quan chức năng, bởi mỗi tổ chức, cá nhân có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau và mọi sự so sánh đều khập khiễng. Thế nhưng đáng tiếc là từ hành động của ca sĩ Thủy Tiên và một số người khác, trên mạng xã hội đã xuất hiện những ý kiến, bình luận mang tính so sánh thiếu khách quan. Đáng báo động là một số đối tượng cố tình lợi dụng sự việc này để suy diễn, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước bằng những luận điệu nguy hiểm, như: Một mình ca sĩ Thủy Tiên làm việc thiện hiệu quả hơn tất cả các cơ quan Nhà nước; cần giải tán các cơ quan làm công tác cứu trợ; thậm chí còn kích động "Đảng, Nhà nước rất thờ ơ"; đừng tin vào cán bộ, đảng viên (!)...

Những đối tượng này cố tình đưa lên mạng xã hội một số vụ việc cán bộ cơ sở có cách làm chưa hợp lý hoặc phạm sai lầm khi lạm dụng quyền hạn để sử dụng tiền, hàng cứu trợ sai mục đích từ nhiều năm trước để minh chứng cho nhận định đó. Từ đó, họ cho rằng, các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội đã làm nhân dân mất niềm tin và cần phải giải thể để trao nhiệm vụ tiếp nhận tiền, hàng cứu trợ cho các tổ chức xã hội dân sự. Mục đích cuối cùng của những đối tượng này không gì khác là thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Trong thực tế, một số cán bộ, công chức có hành vi đáng lên án ấy chỉ là hiện tượng "con sâu làm rầu nồi canh" và các cơ quan chức năng đã rất kiên quyết xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Từ sự việc trên có thể thấy, trên mạng xã hội hiện đang xuất hiện một số người có tư tưởng cực đoan, họ đang lợi dụng vào các sự kiện, sự việc để cố tình bôi nhọ, hòng phủ nhận sạch trơn sự quan tâm, chăm lo, cùng với những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân, cũng như công tác phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta suốt những năm qua và trong đợt lũ lụt lịch sử vừa xảy ra ở miền Trung.


CHIÊU CHỐNG PHÁ NGUY HIỂM CỦA RẬN CHỦ VIỆT TÂN

Có thể nói, trong những ngày này việc Bộ Chính trị thi hành kỷ luật ông Nguyễn Văn Bình (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, nguyên Bí thư Ban Cán sự đảng, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) bằng hình thức cảnh cáo đã thu hút sự quan tâm của dư luận.

Đám bồi bút, rận chủ Việt Tân cũng nhanh chóng lợi dụng vụ việc này để xuyên tạc, chống phá, cụ thể, ngày 8/11/2020, trên trang chủ Việt Tân đăng tải bài viết “Giơ cao đánh khẽ – Cảnh cáo Nguyễn Văn Bình” với nội dung cho: rằng việc kỷ luật ông Nguyễn Văn Bình là quá nhẹ, là một hiện tượng phe cánh của công tác nhân sự đại hội XIII của Đảng.

Chúng ta cần hiểu đúng sự việc, để tránh bị kẻ xấu lợi dụng:

Việc xử lý kỷ luật đối với ông Nguyễn Văn Bình diễn ra đúng trình tự: căn cứ Quy định số 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, xét bối cảnh tình hình, nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm và quá trình công tác, đóng góp của đồng chí đối với Đảng, Nhà nước, hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với ông Bình đúng người, đúng việc chứ không phải nặng hay nhẹ.

Kết quả xử lý kỷ luật ông Bình được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình ủng hộ, vừa có tính chất nghiêm khắc, làm gương, vừa hợp tình, hợp lý.

Tuyệt đối không có hiện tượng bè phái, phe cánh trong việc xử lý kỷ luật ông Nguyễn Văn Bình; bởi những vi phạm của ông Bình ở mức nghiêm trọng cần phải xử lý kỷ luật theo đúng pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, mỗi người dân Việt Nam đều sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có vi phạm cần phải xử lý kỷ luật là đương nhiên, không có ai ngoại lệ.

Quả đúng thật đám Việt Tân “không từ thủ đoạn” để “chọc gậy bánh xe”, mục đích nhằm hạ bệ uy tín của Đảng, Nhà nước, gây nhiễu loạn thông tin, “lèo lái” dư luận, xuyên tạc công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng.

Đây là một chiêu trò quen thuộc nhưng hết sức nguy hiểm, đòi hỏi mỗi người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác trong quá trình tiếp nhận thông tin./.


KẺ XẢO TRÁ BỊA ĐẶT

Dựng chuyện, bịa đặt, đổi trắng thay đen, vu khống, bóp méo, xuyên tạc đời tư cán bộ hòng gieo rắc sự hoài nghi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân là những chiêu trò cũ rích mà các phần tử phản động, cơ hội, bất mãn về chính trị vẫn thường sử dụng để chống phá Đảng, Nhà nước ta, nhất là, trước thềm Đại hội XIII thì những chiêu trò này xuất hiện càng nhiều, trong số đó có bài “Chuyện chưa kể về “thiện tâm” của các quan chức cộng sản” của đối tượng Thu Hà đăng trên trang mạng xã hội. Nội dung bài viết là một sự bịa đặt thô bỉ, trắng trợn dựng chuyện, đổi trắng thay đen, chuyện không nói có, chuyện có nói không, thêu dệt, đặt điều bôi nhọ cán bộ và phủ nhận những thành quả và nỗ lực to lớn của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về công tác trợ giúp và đảm bảo an sinh xã hội.

Không trực tiếp chứng kiến sự kiện, mà chỉ là “bắc chõ nghe hơi” những lời đồn đoán thất thiệt, nhưng Thu Hà đã dựng lên những câu chuyện về ông cán bộ A, bà phu nhân B với những khoản “phát tâm” khủng và bằng lối suy diễn xấu xa, Y cho rằng đó là những món tiền mà các vị đó “cướp được từ ngân sách và mồ hôi nước mắt của người dân”. Thực chất đây là sự thêu dệt, bịa chuyện vu khống trắng trợn của đối tượng với mục đích tạo ra những tin đồn thất thiệt, gây sự hoài nghi trong dân chúng về đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, từ đó phá hoại niềm tin của nhân dân với Đảng với chế độ.

Từ sự thêu dệt, bịa chuyện vu khống thô bỉ đó đối tượng quy kết cho rằng trước năm 1975 xã hội miền Nam Việt Nam như là một xã hội hạnh phúc; sau năm 1975, “các hoạt động thiện nguyện dần trở nên biến tướng. Sự “lấn sân” chi phối của đảng cộng sản, để cài cắm các tổ chức chính trị xã hội… nhằm “dây máu ăn phần” trên những khoản tiền quyên góp trong dân”. Đây là sự xảo trá, trắng trợn đổi trắng, thay đen trên nỗi đau và xương máu của đồng bào miền Nam, phủ nhận hoàn toàn những thành quả và nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị về công tác trợ giúp và đảm bảo an sinh xã hội từ trước tới nay. Chúng ta đều biết rằng trước năm 1975 dưới chế độ Việt Nam cộng hòa, cuộc sống của người dân miền Nam Việt Nam bị kìm kẹp, tù túng, đau khổ trong những “khu trù mật”, “ấp chiến lược” do Mỹ và chính quyền Sài Gòn tạo ra; rồi những hình phạt tàn ác như thời trung cổ. Nhà sử học Gregory Daddis đã nhận xét: “Những hành vi tội ác của quân đội Sài Gòn khiến người dân xem họ như kẻ thù. Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính quyền Sài Gòn, người dân đã trả lời: Vì quân đội Sài Gòn thường xuyên đốt nhà của dân làng, thoải mái đánh đập, giết bất cứ ai và hiếp dâm phụ nữ” (Theo cuốn “Chiến tranh của Westmoreland: Đánh giá lại chiến lược của Mỹ tại Việt Nam”). Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thực hiện quan điểm “dân là gốc, vì lợi ích của nhân dân” công tác trợ giúp, đảm bảo an sinh xã hội luôn là nhiệm vụ ưu tiên, quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Với mô hình an sinh xã hội đầy đủ và toàn diện trên 4 trụ cột chính là hỗ trợ việc làm và giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội; dịch vụ xã hội cơ bản. Trong thời gian qua mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã vận hành hài hòa, đồng bộ, thu được những thành tựu đáng kể được nhân dân trong nước và các tổ chức quốc tế đánh giá cao.

Hằng năm, Nhà nước đã hỗ trợ hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh cho các địa phương để kịp thời hỗ trợ cho người nghèo và người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lụt và huy động hàng nghìn tỉ đồng hỗ trợ người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Gần đây, trong điều kiện rất khó khăn trước tác động, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân, người lao động. Tỉ lệ nghèo ở Việt Nam giảm mạnh, từ năm 2002 đến năm 2018 đã có hơn 45 triệu người thoát nghèo, tỉ lệ nghèo giảm từ hơn 70% xuống còn 3,75% ở năm 2019 và dự kiến còn dưới 3% vào cuối năm 2020. Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện, tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Sự thật đó cho thấy, Thu Hà là một kẻ xảo trá, bịa đặt thô bỉ nhằm hạ thấp uy tín của cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng để chống phá chế độ. Nhưng, những luận điệu ấy có xảo trá đến đâu cũng không thể đánh lừa được dư luận. Bởi đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta luôn cảnh giác, bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt trong việc chọn lọc và tiếp nhận thông tin./.