Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

NIỀM TIN VỮNG CHẮC VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Nước ta quá độ lên CNXH tuy không còn có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước, nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học-công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được. Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH. Đó cũng là một khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, không chỉ có thời cơ mà còn có cả những thách thức, những nguy cơ. Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là những trung tâm kinh tế, kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp khó khăn, buộc chúng ta phải chấp nhận những điều kiện có lợi cho họ, hòng lái chúng ta đi chệch khỏi định hướng XHCN. Mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển là xu hướng của thời đại nhưng còn một xu hướng khác đối lập là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu toan của các thế lực cường quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên nhiều khu vực của thế giới, đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển đảo, xâm phạm độc lập, chủ quyền của nước khác.

Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có những chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu. Chúng ta thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc về mục tiêu chiến lược và mềm dẻo linh hoạt về sách lược. Đấu tranh không phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển sự hợp tác. Phải biết khéo tận dụng thời cơ, tranh thủ quan hệ với các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự hợp tác vừa có lợi, vừa bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động hai chiều tích cực và tiêu cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi kinh tế khu vực và kinh tế thế giới ổn định phát triển, tác động tiêu cực khi kinh tế thế giới và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ khủng hoảng. Chúng ta cần có chính sách sử dụng tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực, giữ cho nền kinh tế nước ta ổn định và phát triển. Đây là bài học thực tế đã xử lý trước những tác động tiêu cực của cơn khủng hoảng tài chính-tiền tệ và khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới trong thời gian qua.

Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN theo quan điểm của V.I.Lênin, người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.

Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; nhất định thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


THẾ GIỚI THAY ĐỔI KHÔN LƯỜNG, NỘI DUNG THỜI ĐẠI KHÔNG THAY ĐỔI

Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, CNXH ở Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười cũng chấm hết.

Đây đúng là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng, thành quả mà Cách mạng Tháng Mười đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó quyết không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Lịch sử đã tỏ rõ, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, Anh, Pháp... thì hình thái kinh tế-xã hội TBCN mới thực sự thắng thế trước hình thái kinh tế-xã hội phong kiến.

Sự phát triển của xã hội loài người từ sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ rằng, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười không chỉ là ngọn đèn pha tỏa sáng dẫn đường, mà còn có những đóng góp thực tế to lớn. Cách mạng Tháng Mười là tiếng chuông đánh thức lịch sử, báo hiệu một trang sử mới của thế giới. Thế giới trước Cách mạng Tháng Mười là một thời kỳ u mê, an phận, là thời đại của CNTB. Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười làm cho CNTB bị đổ vỡ một mảnh lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới với sự hình thành và phát triển của CNXH làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thành quả của Cách mạng Tháng Mười tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của CNTB, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của CNTB. CNTB không thể sống tự nó nữa mà đã phải cố gắng vì sự tồn tại của nó. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội... ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều do kết quả đấu tranh của những người lao động để giành quyền sống, quyền tự do, bình đẳng và sâu xa hơn là được ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định rằng, mặc dù tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới có nhiều thay đổi, có khi là thay đổi khôn lường, nhưng bản chất của thời đại không thay đổi. Tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động, nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức.


SỰ THAY THẾ MỘT THỜI ĐẠI NÀY BẰNG THỜI ĐẠI KHÁC KHÔNG THỂ DIỄN RA NHANH CHÓNG ĐƯỢC

Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH, thì nay CNXH sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của CNTB; rằng CNXH và chủ nghĩa cộng sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa.

Cách nhìn nhận của họ rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và rất thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được, mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước tụt lùi. Sự đổ vỡ của mô hình XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản trên thế giới. Ai cũng biết rằng, sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa (TBCN) thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng. Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp, bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.

TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC MONG MUỐN MỖI CÁN BỘ HÃY LUÔN LUÔN TÂM NIỆM MÌNH LÀ CÔNG BỘC CỦA DÂN, HÃY LÀM VIỆC HẾT SỨC MÌNH, TRÊN HẾT LÀ VÌ DÂN, VÌ ĐẤT NƯỚC

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh điều này tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương vào sáng 28/12.

Phân tích những khó khăn, thách thức ở phía trước đang còn nhiều, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chia sẻ trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, đã có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã bị thi hành kỷ luật, thậm chí một số cán bộ bị xử lý hình sự.

Đáng lưu ý là, trong số đó có đến 53 cán bộ công tác ở các cơ quan chính quyền, 31 cán bộ lực lượng vũ trang nhưng các vi phạm phần lớn là thuộc các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực. Việc phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình thật khổ tâm, đau xót, nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, phải kỷ luật một vài người để cứu muôn người.

Nhiệm vụ thời gian tới hết sức nặng nề, phức tạp, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ có chức, có quyền, đang nắm trong tay quyền và tiền, sống và làm việc trong môi trường có rất nhiều cám dỗ, rất dễ xảy ra tham nhũng, hư hỏng, tiêu cực, phải luôn đấu tranh với chính mình để không phạm phải những cám dỗ đời thường.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng mong muốn từng cán bộ hãy luôn luôn tâm niệm, khắc sâu mình là cán bộ rường cột của nước nhà, là công bộc của dân, hãy làm việc hết sức mình, trước hết, trên hết là vì dân, vì đất nước; luôn trau dồi, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, luôn tự soi, tự sửa lại mình để không xảy ra những điều không ai muốn.

Nếu để xảy ra, không chỉ Đảng, Nhà nước, cơ quan, đơn vị và nhân dân mất cán bộ mà chính các đồng chí mất uy tín, danh dự, làm ảnh hưởng và mang đến nỗi đau không chỉ cho chính mình mà cả gia đình, người thân, đồng chí, đồng đội mình.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết, năm 2020 có nhiều khó khăn, thách thức, bất ngờ lớn, tác động nhiều mặt tới nước ta và toàn thế giới. Kinh tế toàn cầu suy thoái nặng nề, tăng trưởng âm 4%.

Dù trong nước, khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng trong bối cảnh đặc biệt đó, Việt Nam vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và nhiều dấu ấn nổi bật.

“Trong những thời khắc đầy khó khăn thách thức, tính ưu việt của chế độ, các truyền thống tốt đẹp, ý chí của dân tộc ta được phát huy và đưa lên tầm cao mới. Các giải pháp đưa ra phù hợp tình hình và thực lực đất nước, chấp nhận hy sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân, chống dịch như chống giặc…", Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh khi phát biểu tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương, sáng 28/12.

Nước ta ứng phó nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh; Củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ Xã hội Chủ nghĩa.

Theo người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Việt Nam tuy còn khó khăn về kinh tế nhưng là một hình mẫu về phòng chống dịch bệnh, với chi phí thấp nhất, có trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế. Đại sứ EU đã nói, ở lại Việt Nam thời đại dịch là một may mắn xa xỉ.

Cùng với đó, Việt Nam nỗ lực phục hồi duy trì tăng trưởng cao nhất có thể, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới, với nhiều chủ trương chính sách ban hành kịp thời và thực hiện tốt.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc tới hàng loạt kết quả nổi bật như tăng trưởng GDP, xuất khẩu, nợ công, giải ngân vốn đầu tư công. Cùng với đó là những kết quả toàn diện về bảo đảm an sinh xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh.

Trong bối cảnh gồng mình chống thiên tai dịch bệnh, nước ta vẫn tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp và đang chuẩn bị tổ chức Đại hội XIII theo đúng kế hoạch đề ra, chặt chẽ, kỹ lưỡng, bài bản, đúng quy định, nhiều đổi mới.

"Dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương năm ngoái, tôi có chúc mọi người rằng phấn đấu làm sao để năm 2020 phải hơn 2019. Đến nay, dù còn những hạn chế, có chỉ tiêu chưa làm được, nhưng như trong báo cáo của Chính phủ, năm 2020 đã thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua", Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Chỉ đạo các giải pháp, nhiệm vụ lớn trong năm 2021 và thời gian tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn vì mục tiêu đặt ra trong năm 2021 là rất cao trong bối cảnh chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới thời gian tới sẽ diễn biến rất phức tạp, khó đoán định, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về nhiều mặt dưới tác động của đại dịch COVID-19.

VU CÁO, BỊA ĐẶT “LỪA, MỊ NGƯỜI DÂN” - CHIÊU TRÒ ĐÃ CŨ

Thời gian gần đây, lợi dụng việc tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã tán phát nhiều tin, bài trên các trang mạng, blogger cá nhân có nội dung xuyên tạc, vu cáo đại hội Đảng các cấp “dùng tiền thuế của dân để chi tiêu sai nguyên tắc” nhằm kích động chia rẽ nội bộ Đảng, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chúng kêu gọi “đa đảng cạnh tranh, tam quyền phân lập, tự do ứng cử, bầu cử, phát triển xã hội dân sự”; trong các bài “Các đại hội đảng dùng tiền thuế của dân chi tiêu vô tội vạ, nguồn cơn từ đâu ?”; hoặc “Chống lãng phí bắt đầu từ đại hội đảng”; “Chuyên mục hoang phí của mùa đại hội đảng”. Theo tôi, đây là miệng lưỡi của những kẻ “dựng chuyện, vu cáo” xuyên tạc bừa bãi; chúng hiểu gì về tiền thuế của dân mà bịa chuyện vào việc nội bộ Đảng ta, chúng chỉ là những con sâu, mọt chuyên đứng ngoài “sỏ, xiên” thêm thắt gây mâu thuẫn “đục nước béo cò” nhằm “đánh lừa” những ai nhẹ dạ cả tin.

Phải hiểu cho đúng rằng “quỹ vốn chi tiêu cho đại hội Đảng không liên quan đến tiền thuế của nhân dân đóng góp”, tất cả đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều có nghĩa vụ đóng đảng phí hàng tháng và đều có quyền được chi tiêu nguồn quỹ vốn đó trong các dịp đại hội trọng đại… Vì vậy, không có lý do gì để các tổ chức đảng phải dùng tiền nộp thuế của dân để chi tiêu; miệng lưỡi của chúng thật thâm độc, điêu xảo; chúng tưởng rằng, tung tin, bài như vậy có thể làm lệch hướng tin của người dân, “lừa, mị dân” tin chúng. Âm mưu kích động, chia rẽ người dân với Đảng nhằm lung lạc niềm tin giữa cán bộ, đảng viên trong Đảng với nhân dân là sự vu cáo trắng trợn vô căn cứ.

Tiền quỹ vốn do đóng thuế của dân không phải dùng cho tổ chức đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng. Số tiền quỹ đóng thuế đó là tiền chi cho các mục tiêu quốc gia, kiến thiết đất nước, xóa đói giảm nghèo mà mỗi người dân đang được thụ hưởng từ các chính sách an sinh của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đất nước được khang trang, hệ thống cầu đường, trường, trạm được xây mới, tất cả là nhờ vào số quỹ vốn mà nhân dân đóng góp…

Vì vậy, không có lý do gì để nói “các đại hội Đảng dùng tiền thuế của dân”;thật là “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường”, miệng, lưỡi phản động, xảo trá vu cáo trắng trợn của những kẻ “ăn không ngồi dồi” dỗi việc chuyên tìm cách “chọc gậy bánh xe” chiêu trò dựng chuyện đã cũ, không sức thuyết phục; người dân thừa hiểu Đảng đang làm mọi cách để cho đời sống nhân dân no ấm; bênh cạnh đó người dân cũng có nghĩa vụ phải giữ gìn an ninh trật tự, không nghe theo kẻ chuyên gây rối, làm đảo lộn đời sống bình yên của mình như vụ bị bọn xấu súi dục nghe theo làm ảnh hưởng đến đời sống của bao người dân ở Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội mới xảy ra vừa qua.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện các chính sách an sinh xã hội rất hiệu quả, có được kết quả đó là nhờ vào sự nỗ lực chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, của Chính phủ trên cơ sở kiên định con đường XHCN, đời sống nhân dân đang được nâng lên, các công trình quốc gia đang từng ngày được xây dựng mới, mặc dù diễn biến của dịch bệnh Covid - 19 đang diễn ra liên miên trên thế giới, khu vực và các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp vẫn còn đan xen ở nhiều nước. Song, chúng ta có thể nói rằng, Đảng và Nhà nước ta điều chỉnh phát triển nền kinh tế - xã hội một cách tích cực; ảnh hưởng của dịch bệnh Covid - 19 đã làm nhiều gia đình người dân không có việc làm, họ đang phải sống những ngày khó khăn, Nhà nước đã điều hành hỗ trợ giảm bớt gánh nặng tài chính lên nhiều gia đình được nhân dân hoan nghênh.

Với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, toàn xã hội đồng lòng cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thử thách, mọi chiêu trò bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, chống phá Nhà nước chỉ là những trò đã cũ rích không đáng để quan tâm./.

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020

VIỆT NAM - ĐIỀU THẦN KỲ MỚI Ở CHÂU Á

Năm 2020 là một năm thách thức chưa từng có với thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua một cách ngoạn mục với những kết quả tích cực.

Tăng trưởng Việt Nam thuộc nhóm cao nhất trên thế giới

Năm 2020, đại dịch COVID-19 như một phép thử khắc nghiệt nhất, trong khi hầu hết các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái thì với việc chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt "mục tiêu kép", Việt Nam vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương ở mức 2,91%. Mức tăng trưởng này là một trong những mức tăng trưởng tốt nhất thế giới. Bên cạnh Việt Nam, Indonesia có mức tăng trưởng -5,32%, Thái Lan -12,1%.

Năm 2020, dịch bệnh, thiên tai hoành hành hơn 300 ngày khiến GDP thấp nhất trong nhiều năm với mức tăng trưởng cả năm ở mức 2,91%. Trong đó, ngành nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, dịch vụ tăng 2,34%…

Với mức tăng trưởng này, Việt Nam là một trong số ít những nền kinh tế duy trì được tăng trưởng dương trong bối cảnh kinh tế thế giới rơi vào suy thoái sâu nhất kể từ Đại khủng hoảng 1929 - 1933. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),Việt Nam có thể là quốc gia duy nhất có tăng trưởng kinh tế dương ở khu vực Đông Nam Á.

Liên tiếp trong 4 năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong đó, chất lượng tăng trưởng mỗi năm đều có bước tiến. 2019 - năm thứ hai liên tiếp có 12/12 chỉ tiêu hoàn thành, trong đó 7 chỉ tiêu vượt; GDP ở mức cao hàng đầu thế giới. Cả hai năm 2018, 2019, GDP đều tăng vượt ngưỡng 7% bất chấp bối cảnh tăng trưởng ảm đạm trên toàn cầu.

Nỗ lực tăng trưởng

Tăng trưởng không chỉ là riêng GDP, mà còn thể hiện ở các chỉ số về tăng trưởng doanh nghiệp, cơ cấu đóng góp tăng trưởng của các lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong giai đoạn vừa qua, mỗi 1 năm Việt Nam tăng trung bình là hơn 128.000 doanh nghiệp, tức đã tăng khoảng 63% so với giai đoạn trước. Cơ cấu đóng góp của các ngành nghề lĩnh vực cũng đã có sự dịch chuyển đáng kể. Những chỉ số này thể hiện rõ về chất của tăng trưởng.

Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước đã đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng chung. Tăng trưởng nhanh, nhưng quan trọng hơn là thay đổi về chất. Nếu trước đây, tăng trưởng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, nay tỷ lệ này đã giảm xuống.

Trong khi đó, các ngành chế biến chế tạo đang dần trở thành động lực. Năm 2020 ngành này tăng 5,82%, giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.

Là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, với những biến động khó khăn chưa từng có ở mức toàn cầu trong năm nay, các chuyên gia kinh tế thế giới đánh giá cao nội lực của kinh tế Việt Nam.

"Chúng tôi ấn tượng với con số tăng trưởng của Việt Nam bởi vừa kiểm soát dịch bệnh, vừa phải đối mặt với mức độ suy giảm kinh tế của toàn cầu khi các thị trường xuất và nhập khẩu đều bị ảnh hưởng mạnh, nhưng cả hai chiến trường dịch bệnh và kinh tế Việt Nam đều đã làm rất tốt. Điều này là do nội lực và cách điều hành phù hợp linh hoạt của Việt Nam", ông Jean – Jacues Bouflet - Phó Chủ tịch Euro Charm nói.

Nỗ lực của mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề đang góp phần vào sự tăng trưởng nội lực của Việt Nam ngày càng vững mạnh hơn.

Kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm nay ở mức 3,23% đạt mục tiêu Quốc hội đề ra và trong vòng cả nhiệm kỳ qua chỉ số này luôn được kiềm giữ dưới 4% đã tạo điều kiện để Việt Nam giữ được ổn định bền vững, tăng trưởng thực chất.

Lạm phát tăng ảnh hưởng đến mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp. Chính vì thế, mục tiêu kiểm soát luôn được đặt ra là nhiệm vụ quan trọng trong điều hành của nhà nước. Nhưng thời gian qua, việc giữ được lạm phát dưới 4% là điều không hề dễ dàng.

Lạm phát là một chỉ tiêu quan trọng trong việc giữ nền kinh tế vĩ mô ổn định. Có sự ổn định mới có môi trường đầu tư kinh doanh an toàn và hiệu quả. Điều này thể hiện qua con số các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam thời gian qua.

Dù dòng vốn đầu tư toàn thế giới sụt giảm nhưng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn ở mức khá cao 28,53%. Trong cả 5 năm, Việt Nam thu hút được 167,8 tỷ USD, cao hơn gần 89% số dự án và 67,3% số vốn so với giai đoạn trước đó.

Ông Hong Sun - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam cho biết: "Chính phủ đã đưa ra những chính sách đúng đắn, điều đó đang dẫn đến sự quan tâm theo dõi của các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng tôi hy vọng rằng sang năm Chính phủ Việt Nam cũng như nhân dân Việt Nam phải tận dụng thời gian này thu hút nhiều nhà đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam".

Lạm phát luôn được kiểm soát chặt chẽ có nghĩa là thị trường ổn định đó là nền tảng cho tăng trưởng và ngược lại tăng trưởng cũng sẽ nâng sự ổn định lên nấc phát triển mới.

Có thể thấy, năm 2020 là năm vô cùng đặc biệt, khó khăn chồng chất. Để con thuyền Việt Nam vượt qua được giông tố một cách ngoạn mục như vậy đó là nhờ nhưng các chính sách rất linh hoạt, chuẩn xác và kịp thời của Đảng, Nhà nước ta.

Việt Nam đã biến khủng hoảng thành cơ hội thành công. Có lẽ phải nói rằng năm 2020 Việt Nam là một ngoại lệ. Còn như tờ New York Times của Mỹ thì bình luận: "Việt Nam - Điều thần kỳ mới của châu Á".

“GIA ĐÌNH LÀ HẠT NHÂN CỦA XÃ HỘI”

Đây là câu nói trích trong bài viết “Phải thật sự bảo đảm quyền lợi của phụ nữ” Hồ Chí Minh viết, đăng trên Báo Nhân dân, số 3199, ngày 28 tháng 12 năm 1962.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò của gia đình, bởi theo Bác nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Vậy nên, quan tâm đến gia đình nhỏ trước tiên là phải thực hiện nam - nữ bình quyền. Với quan điểm đó, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, vấn đề gia đình đã được Hiến pháp đầu tiên của nước ta thông qua với nhiều điểm tiến bộ. Trong quan hệ gia đình, nam - nữ bình đẳng như nhau, chế độ hôn nhân được pháp luật quy định là một vợ một chồng...

Trải qua các thời kỳ lịch sử, quan hệ gia đình ngày càng được củng cố, hoàn thiện, góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền dân chủ trong quan hệ gia đình ở Việt Nam, trở thành môi trường tốt để giáo dục nhân cách con người, là cơ sở để xây dựng đời sống mới của xã hội mới, trở thành hạt nhân của xã hội Việt Nam.

Nhận thức gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nước, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm công tác chăm lo xây dựng gia đình bằng nhiều chủ trương, chính sách cụ thể: Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị 49-CT/TW, ngày 21 tháng 02 năm 2005 về “Xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”; ngày 29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” với mục tiêu hướng tới là xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội. Như vậy, gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nên nhân cách con người. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn, gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con người.

CẢNH BÁO LÀN SÓNG COVID - 19 TỪ ĐƯỜNG MÒN, LỐI MỞ

Việc bệnh nhân 1440 mắc Covid-19 “xuyên” qua nhiều nước Đông Nam Á, nhập cảnh trái phép qua đường mòn lối mở vào Việt Nam, cho thấy việc kiểm soát đường biên có nơi vẫn còn sơ hở.

Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long, để lọt 1 - 2 trường hợp nhập cảnh trái phép, nguy cơ gây ra hậu quả khôn lường. “Các trường hợp nhập cảnh trái phép ở biên giới là điều rất quan ngại trong kiểm soát dịch. Đề nghị các tỉnh, đặc biệt tỉnh có vùng biên, hết sức quan tâm, kiểm soát chặt”, ông Long đề nghị.

Tăng cường kiểm soát các “điểm nóng”

Theo Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 (BCĐ), mỗi ngày có khoảng 100 - 150 trường hợp nhập cảnh trái phép ở biên giới, là yếu tố rất khó khăn cho kiểm soát, phòng chống dịch Covid-19. Từ Tết Nguyên đán 2020 đến nay các lực lượng đã duy trì 1.600 điểm chốt ở các vùng biên kiểm soát nhập cảnh trái phép, và việc này tiếp tục được tăng cường để bảo đảm chốt chặn.

“Nguy cơ dịch bệnh do nhập cảnh trái phép này quá hiển hiện, ai cũng thấy rõ. Vì nhập cảnh trái phép nếu là ca dương tính sẽ là yếu tố mầm bệnh xâm nhập. Bản thân họ đi lại không kiểm soát, còn làm lây lan dịch trong cộng đồng. Do đó, nhập cảnh trái phép cần được kiểm soát chặt, xử lý nghiêm; và khuyến khích người dân phát hiện, thông báo với cơ quan chức năng”, ông Đặng Quang Tấn, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), nhấn mạnh.

Đại tá Văn Ngọc Quế, Phó chủ nhiệm Chính trị Bộ đội biên phòng, đánh giá “nóng” nhất hiện giờ là tuyến biên giới tây nam, khi dịch Covid-19 ở Campuchia, Thái Lan đang diễn biến phức tạp. Điều này cũng khiến Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng rất lo lắng. Người Việt Nam lao động ở các quốc gia này cũng đang tìm cách trở về nước, trong khi đường biên giới tây nam chủ yếu là đồng bằng, 2 bên biên giới đều có nhà dân nên việc kiểm soát xuất nhập cảnh trái phép vô cùng khó khăn. “Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng có chủ trương và đã chính thức phát lệnh, sẵn sàng điều động lực lượng biên phòng ở các tuyến duyên hải, ven biển tăng cường cho khu vực biên giới tây nam, mục tiêu là kiểm soát chặt chẽ, triệt để ngăn chặn nhập cảnh trái phép”, đại tá Quế nói.

Đại tá Nguyễn Phi Khanh, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng Lào Cai, cho biết toàn tỉnh Lào Cai có trên 186 km đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc. Trong khoảng hơn 1 tháng gần đây, lực lượng biên phòng không còn phát hiện các đường dây tổ chức xuất nhập cảnh trái phép, nhưng để ứng phó với diễn biến mới, lực lượng vẫn đang duy trì 54 điểm chốt kiểm soát ở các đường biên, đường mòn biên giới với chế độ trực 24/24 giờ.

Còn tại Quảng Ninh, theo Bộ đội biên phòng tỉnh, hiện đơn vị đang duy trì 90 chốt cố định, 8 tổ công tác lưu động với trên 500 cán bộ, chiến sĩ thường trực 24/24 giờ dọc 200 km biên giới Việt - Trung trên địa bàn, nhằm kiểm soát chặt tất cả trường hợp nhập cảnh, để vừa đảm bảo chống dịch, vừa tạo điều kiện phát triển kinh tế.

“Vẫn phức tạp”

Tây Ninh có đường biên giới dài 240 km, tiếp giáp 3 tỉnh Vương quốc Campuchia với 16 cửa khẩu (trong đó 3 cửa khẩu quốc tế) và nhiều đường mòn, lối mở, địa hình bằng phẳng, thuận tiện qua lại. Tây Ninh được xem là địa bàn trọng điểm phòng, chống dịch bệnh Covid-19 xâm nhập, nhất là dịp Tết Nguyên đán.

Ngày 27.12, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh Nguyễn Thanh Ngọc cho biết UBND tỉnh đã họp khẩn ngay sau khi có thông tin bệnh nhân 1440 bước đầu khai nhập cảnh trái phép qua cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh). Theo ông Ngọc, từ nay đến Tết Nguyên đán, lượng người nhập cảnh trái phép có thể tăng cao, do người Việt Nam ở nước ngoài về ăn tết đi qua đường biên giới Campuchia về Việt Nam. Hiện Tây Ninh đã đề nghị các lực lượng trên tuyến biên giới rà soát lại toàn bộ các khu vực có nguy cơ các đối tượng nhập cảnh trái phép thẩm thấu vào, để kiểm soát chặt chẽ.

Với tuyến biên giới dài khoảng 90 km, Gia Lai tiếp giáp với tỉnh Rattanakiri (Campuchia), đa số là đường rừng và có hàng trăm đường mòn, lối mở nên việc quản lý, kiểm soát biên giới còn gặp nhiều khó khăn. Trung tá Bùi Quốc Chính, Đồn trưởng Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (H.Đức Cơ, Gia Lai), cho biết: “Từ đầu năm đến nay, chúng tôi đã tiếp nhận 1.449 người nhập cảnh từ phía Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh, sau đó bàn giao cho Sở Y tế Gia Lai cách ly theo quy định. Bên cạnh đó, chúng tôi đã phát hiện, bắt giữ 21 vụ với 29 đối tượng nhập cảnh trái phép qua biên giới”.

Sát Gia Lai, Kon Tum có trên 150 km đường biên giới với 2 tỉnh Sê Kông và Attapư (Lào), trong đó có nhiều lối mòn. Đại úy Nguyễn Văn Hoài, Trưởng trạm Kiểm soát biên phòng cửa khẩu quốc tế Bờ Y, cho biết trung bình mỗi ngày có từ 12 - 13 người nhập cảnh vào Việt Nam qua cửa khẩu Bờ Y. Tất cả những trường hợp này đều phải thực hiện cách ly đủ 14 ngày.

Tại Quảng Trị, dù đặt ra yêu cầu cao và kiểm soát khá tốt việc nhập cảnh nhiều tháng qua, nhưng ông Nguyễn Cường, Phó giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh, cùng nhìn nhận lực lượng y tế cửa khẩu chỉ có thể kiểm soát được với những người nhập cảnh chính ngạch, còn đối với người vượt biên, đi chui thì... chịu. “Chúng tôi không đủ nhân lực nên việc kiểm soát đường mòn do lực lượng biên phòng phụ trách”, ông Cường nói.

Còn đại tá Lê Văn Phương, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Quảng Trị, cho biết trong thời gian tới, nhất là dịp giáp tết, lực lượng biên phòng địa phương sẽ tiếp tục triển khai quân giám sát chặt hơn nữa đường biên.

HÃY THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC!

Như vậy chiếc xe thứ 2, cũng mang biển số 17A chở người Trung Quốc nhập cảnh trái phép qua địa bàn thành phố Đà Nẵng bị bắt giữ.

Xe trước bị bắt lúc 1 giờ sáng, xe này là 0 giờ. Các đối tượng đã chọn thời điểm đêm khuya để đưa người đi qua địa bàn, trên thực tế chúng đã lọt nhiều tỉnh thành, nhưng đến Đà Nẵng thì bị "tóm ngay tại trận". Chỉ có thể dành lời khen ngợi, Cảnh sát giao thông Đà Nẵng quá giỏi!

2 vụ đưa người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam bằng phương tiện vận tải đường bộ bị lực lượng Cảnh sát giao thông Đà Nẵng phát hiện trong tuần qua cho thấy tình hình nhập cảnh trái phép vẫn diễn biến hết sức phức tạp.

Tết đã cận kề, với đường biên giới trên đất liền 4.550 km núi non hiểm trở, trải dài từ Bắc đến Nam, nói thật quá gian nan cho lực lượng chức năng trong việc kiểm soát người nhập cảnh trái phép. Chúng ta chỉ có thể kêu gọi lòng tự hào yêu nước, thương nòi của mỗi người dân nước Việt.

Mỗi người dân Việt Nam hãy thể hiện tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, hãy sống có trách nhiệm với gia đình, quê hương bằng cách không tiếp tay đưa người nhập cảnh trái phép, phát hiện có người nhập cảnh trái phép hãy báo ngay cho chính quyền và lực lượng Công an.

Hãy thôi là Trần Ích Tắc, hãy thôi "cõng rắn cắn gà nhà" có được không?

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN GẦN ĐÂY

Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu và các hoạt động “phi chính trị hóa” lực lượng CAND, tìm mọi cách làm cho cán bộ, chiến sỹ Công an suy yếu về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, từ đó thúc đẩy các hoạt động “tự diễn biến”, phá vỡ bức tường thép quan trọng trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Do vậy, cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động mà các đối tượng thường sử dụng trong thời gian qua như sau:

Thứ nhất, các đối tượng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng CAND, cho rằng “Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản”, hay rêu rao rằng “Bộ Công an lấn quyền và tạo hình ảnh bất khả xâm phạm”; tìm mọi cách chia rẽ Công an với nhân dân, với Quân đội và các lực lượng khác trong hệ thống chính trị ở nước ta.

Thứ hai, lợi dụng việc một số tin báo điện tử trong nước đăng tin bài, hình ảnh phản ánh sai phạm của lực lượng Công an địa phương trong điều tra một số vụ án và hành vi tiêu cực của CSGT để thổi phồng các vụ việc, lấy sai phạm của một số cá nhân để quy kết, xuyên tạc, vu cáo, bóp méo sự thật nhằm bôi đen, làm mất uy tín lực lượng Công an, kích động quần chúng chống cán bộ Công an thi hành công vụ.

Thứ ba, cố ý bôi nhọ, hạ bệ hình ảnh cán bộ, chiến sĩ CAND, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an.

Thứ tư, đối với một số vụ việc gây rối trật tự công cộng, có tính chấy nguy hiểm đối với xã hội, phải sử dụng lực lượng Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm để giải quyết, các đối tượng cho rằng lực lượng CAND ngày nay không còn là của nhân dân, bảo vệ nhân dân, mà là công cụ để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người có chức, có quyền, qua đó nhằm đối trọng nhân dân với lực lượng Công an.

Thứ năm, lợi dụng không gian mạng như: Youtube, Blog, Facebook…, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tạo lập hàng trăm tài khoản ảo, cắt ghép một số hình ảnh, video liên quan đến lực lượng Công an để đưa ra những bình luận ác ý, tung tin sai sự thật, bịa đặt nhằm công kích vào tâm lý người dân, gây sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin đối với chế độ.

Những âm mưu, thủ đoạn trên cần có cách nhìn khách quan, toàn diện, cụ thể như sau:

Trước hết, cần khẳng định rằng, trong bất kỳ một xã hội có giai cấp nào thì điều tất yếu đó là phải tổ chức ra lực lượng bảo vệ chế độ, nhà nước đó.

Đối với nước ta, lực lượng CAND ra đời trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân, dân tộc sâu sắc.

Khi đề cập đến đặc điểm công tác, chiến đấu của CAND và công tác Công an, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, lực lượng CAND phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với QĐND và các ngành, các đoàn thể quần chúng trong công tác giữ gìn an ninh, trật tự.

Theo Người: “Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”; vì vậy, Công an phải thường xuyên thực hiện tốt quan hệ hợp đồng tác chiến vì mục tiêu chung bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ và nhân dân. Tại lễ thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), tháng 3-1959, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng”.

Thực hiện chỉ dạy của Bác, CAND đã phối hợp chặt chẽ với QĐND và các tổ chức trong hệ thống chính trị; tập trung xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận lòng dân vững chắc, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thế trận liên hoàn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.

Hai là, ở Việt Nam, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của lực lượng CAND được quy định trong Luật CAND (sửa đổi) đã được Quốc hội Khoá XIV thông qua ngày 20/11/2018, tại Kỳ họp thứ 6. Luật CAND (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019 quy định rõ:

Vị trí CAND: Là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Chức năng: CAND có chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Luật cũng xác định những nhiệm vụ, quyền hạn của CAND.

Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CAND:

1. Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.

2. Được tổ chức tập trung, thống nhất, chuyên sâu, tinh gọn và theo cấp hành chính từ Trung ương đến cơ sở.

3. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Ba là, thực tiễn đã chứng minh CAND Việt Nam thực sự là đội quân tiên phong, nòng cốt trong đấu tranh chống phản cách mạng, chống gián điệp, phản động, phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, chế độ, chính quyền cách mạng và bảo vệ nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ Công an từ trong quá khứ, hiện tại và tương lai luôn cố gắng rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên của Đảng, hệ thống tổ chức đảng trong CAND không ngừng được củng cố và phát triển lãnh đạo mọi mặt công tác công an. Lực lượng Công an được tôi luyện qua các thời kỳ cách mạng đã trở thành đội ngũ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, “chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, trung thành vô hạn với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CAND đã được pháp luật quy định và trong thực tế không có chuyện Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản Việt Nam, hay Công an lấn quyền như những điều bịa đặt, vu khống mà họ tạo ra.

Với sự chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, sự tin yêu, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân, lực lượng CAND không ngừng trưởng thành, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, vững về pháp luật, sắc bén về nghiệp vụ và đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Bốn là, đất nước ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, những kết quả đạt được trong công tác phòng chống dịch COVID-19, những nỗ lực không biết mệt mỏi trong phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai ở miền Trung vừa qua là sự quyết tâm đồng lòng của cả nước, đó là sự thống nhất ý chí và hành động của toàn dân và hệ thống chính trị, trong đó có những đóng góp quan trọng của cán bộ, chiến sĩ CAND; sự cống hiến, hy sinh của lực lượng CAND trong thời chiến cũng như thời bình là điều không thể phủ nhận, chối bỏ như cách mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã làm trong thời gian qua.

Mặt khác, chúng ta không thể lấy những sai phạm, thiếu sót của một vài cá nhân để quy kết đó là sai phạm của cả tổ chức, lực lượng. Mọi sai phạm dù đó là ai đi chăng nữa đều phải xử lý theo pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ sai phạm.

Âm mưu, thủ đoạn và những việc làm của các thế lực thù địch là rõ ràng, càng chứng minh tính chất phản động, phản cách mạng của họ, thay vì có những đóng góp cho việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội thì họ lại cố ý phá vỡ tính ổn định đó bằng những luận điệu phi lý, lố bịch./.

“NẾU BẮN B52 ĐỊCH KHÔNG RƠI TẠI CHỖ, TÔI XIN LAO THẲNG VÀO NÓ”

Anh hùng Vũ Xuân Thiều sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở Nam Định, cư trú tại phố Đặng Dung, Hà Nội. Từng theo học tại trường THPT Chu Văn An và Đại học Bách khoa Hà Nội, ông trốn gia đình để nhập ngũ khi đang học đại học năm thứ 3, vào năm 1965. Sau khi được tuyển chọn vào không quân, ông mới báo tin cho gia đình biết.

Trung tuần tháng 12 năm 1972, khi Mỹ mở rộng cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B-52 vào thành phố Hà Nội và Hải Phòng, Vũ Xuân Thiều cùng đồng đội quyết tâm diệt B-52. Để đánh chắc thắng ông đề xuất phương án công kích gần, mặc dù có khả năng nguy hiểm cho cả máy bay và người lái.

Theo tin tình báo, đêm 28-12, sẽ có 50 lần/chiếc B-52 vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Bộ Tư lệnh không quân yêu cầu tất cả các sở chỉ huy và các đơn vị trực chiến phải theo dõi chặt chẽ và sẵn sàng cất cánh chiến đấu. Trong khi đó, phi công Vũ Xuân Thiều trực ban chiến đấu tại sân bay Cẩm Thủy, phi công Đinh Tôn trực ban chiến đấu ở sân bay Nội Bài đã sẵn sàng. Ngày 28 tháng 12 năm 1972, lúc 21g41, Vũ Xuân Thiều được lệnh cất cánh từ sân bay dã chiến Cẩm Thủy, Thanh Hóa.

Lúc 21g52, Sc B-1 (Thọ Xuân) lệnh Vũ Xuân Thiều vòng phải, bay hướng 360 độ, thông báo mục tiêu phía trước 50 độ, cự ly 15 km, nhưng do nhiễu quá nặng, Vũ Xuân Thiều vẫn chưa phát hiện được mục tiêu. Lúc này tại sở chỉ huy, sĩ quan dẫn đường trên hiện sóng rađa Trần Xuân Mão, bằng kinh nghiệm của mình đã phát hiện chấm trắng đục giữa nền nhiễu, anh khẳng định đó là B-52, chúng đã đổi hướng, bay ngược lên Sơn La rồi mới vòng xuống đánh phá Hà Nội. Sở chỉ huy lập tức lệnh Thiều vòng phải gấp, bay hướng 90 độ, qua Sầm Nưa, lên hướng bắc đuổi theo tốp B-52 đang bay về hướng Nà Sản, Sơn La.

Lúc 21g58, khi đến Sơn La, Vũ Xuân Thiều phát hiện mục tiêu, anh lập tức báo cáo và tăng tốc độ bám sát. Trong bầu trời tối đen, rađa lại bị nhiễu rất nặng nên rất khó phán đoán cự ly, Vũ Xuân Thiều phán đoán cự ly bằng mắt, theo tín hiệu đèn hàng hành của B-52. Lúc này tại sở chỉ huy tiền phương phó tư lệnh Trần Mạnh nhắc: "046 bật công tắc bắn cả loạt, kiên quyết tiêu diệt địch". Phi công Vũ Xuân Thiều trả lời: "046 nghe rõ!". Ông đã phóng cả hai quả đạn tên lửa nhưng chưa hạ được nó. Ông liền tăng tốc liều mạng đâm thẳng vào chiếc B-52 còn mang đầy bom chưa ném. Anh hùng Vũ Xuân Thiều đã hy sinh oanh liệt và hạ chiếc B52, Đây là chiếc B-52 thứ hai bị hạ bởi Không quân Nhân dân Việt Nam.

Tuy được ghi nhận đã hạ B-52 nhưng Vũ Xuân Thiều không được truy tặng danh hiệu ngay vì các cấp chỉ huy e ngại các phi công khác sẽ học theo lối tấn công "cảm tử" này.

Tới tháng 12 năm 1994, ông đã được Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân./.

ĐÃ VI PHẠM CÒN KHAI GIAN, ĐỀ NGHỊ PHẢI XỬ LÝ THẬT NGHIÊM ĐỐI TƯỢNG NÀY!

Liên quan bệnh nhân mắc COVID-19 là L.T .T., 32 tuổi, trú tại huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long (BN 1440), tối 26/12 trao đổi với PV Tiền Phong, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh Nguyễn Thanh Ngọc cho biết, vào chiều tối 26/12, ông được báo cáo, qua khai thác của cơ quan chức năng tỉnh Vĩnh Long, đối tượng T. khai báo lịch trình di chuyển từ Campuchia về Việt Nam qua cửa khẩu Long Bình (tỉnh An Giang) chứ không phải cửa khẩu Mộc Bài tỉnh Tây Ninh.

Khi vào đã nhập cảnh vào Việt Nam, đối tượng di chuyển bằng xe máy và bằng ghe để băng rừng và sông, ngách nhỏ tới Thành phố Tân An (tỉnh Long An). Tại Tân An, đối tượng tiếp tục di chuyển bằng xe khách về tỉnh Vĩnh Long.

Cũng theo ông Nguyễn Thanh Ngọc, với khai nhận này, đối tượng không di chuyển qua cửa khẩu Tây Ninh bằng xe tải như lời khai trước đó.

Cũng theo Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh Nguyễn Thanh Ngọc, trước khi nhận tin đối tượng L. không nhập cảnh vào Việt Nam qua đường Tây Ninh, bằng tin thần trách nhiệm cao nhất, tỉnh Tây Ninh cũng phối hợp với ngành chức năng các tỉnh lân cận, để xác định rõ vị trí, phương tiện khi T. nhập cảnh trái phép làm cơ sở truy vết, cách ly những người tiếp xúc gần đồng thời thực hiện truy xuất camera khu vực biên giới Tây Ninh, truy xét và thực hiện các biện pháp phòng chống dịch theo quy định.

Đồng thời, truy xuất camera khu vực biên giới để truy xét, thực hiện các biện pháp chủ động cách ly, kiểm soát dịch bệnh.

Hiện, lãnh đạo tỉnh Tây Ninh đã đề ra các biện pháp chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát biên giới, đảm bảo bịt kín toàn tuyến, nhất là cao điểm giáp Tết Nguyên đán 2021 để phòng chống dịch COVID-19, như vận động người dân khu vực biên giới chủ động cung cấp thông tin về người nhập cảnh trái phép’.

“Tây Ninh sẽ thưởng nóng cho người có thông tin chính xác để phòng chống dịch COVID-19” – Ông Nguyễn Thanh Ngọc "cam kết".


27/12/1972: TIÊM KÍCH MIG-21FM (Liên Xô chế tạo, viện trợ) LẦN ĐẦU HẠ B52

MiG-21FM của Phạm Tuân cất cánh 22h16p đêm 27-12-1972 từ sân bay dã chiến Yên Bái, theo chiến thuật "đi thấp kéo cao" nhằm tránh radar máy bay Mỹ. Sau khi mặt đất thông báo cách phi đội Mỹ 8-9 km, Phạm Tuân kéo cao rồi tăng tốc máy bay, dùng tốc độ cao để bất ngờ bay vọt qua hai tốp F-4 hộ tống, khiến những chiếc F-4 không kịp phản ứng. Sau khi vọt qua đội F-4 hộ tống, ông tiếp cận hai chiếc B-52, khi còn cách B-52 khoảng 4 km, dẫn đường mặt đất ra lệnh bắn, nhưng Phạm Tuân chờ thêm mấy giây để tiếp cận gần hơn rồi mới bắn.

Do B52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên ông áp sát B-52 ở cự ly 2-3 km rồi phóng tên lửa (dù tầm bắn tên lửa là 8 km), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới mục tiêu nên B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm từ vụ Vũ Đình Rạng (chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ hạ tại chỗ B-52) nên ông phóng cả hai tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2 vào mục tiêu, không giữ lại tên lửa dự phòng. MiG-21 tắt radar và thiết bị liên lạc để B-52 không phát hiện đang bị áp sát.

Sau khi bắn, Tuân giảm tốc, kéo máy bay lên cao và lật ngửa thoát ly thì nhìn thấy chiếc B-52 nổ, sau máy bay lao vượt qua phía trên điểm nổ. Tuy nhiên do cơ động thoát ly cấp tốc nên máy ảnh phía mũi MiG-21 đã không thể chụp lại khoảnh khắc đó làm tư liệu, hạ cánh an toàn xuống sân bay Yên Bái.

Phạm Tuân kể tiếp: Khi lên trời rồi, phi công phải nhanh chóng đi vào điều kiện thuận lợi, vậy chúng ta phải phán đoán F-4 thường chặn chúng ta ở đâu, tầm cao nào để chúng ta tránh. Nếu F-4 bay ở độ cao 3 km thì chúng ta phải bay cao hơn, tốc độ hơn. Tất cả những kinh nghiệm đó để xây dựng thành phương án bay để tránh F-4. Lên thấy F-4 nhiều lắm, bên phải có, bên trái có. Bên dưới chỉ huy là vượt qua mà đi.

Vậy vượt qua bằng cách nào? Ở đây là bản lĩnh của phi công, phải phán đoán được tình huống như thế nào. Trận đánh B-52 của tôi rất nhanh, tiếp cận B-52 chưa đầy một phút. Khi tiếp cận đằng sau B-52 với tốc độ rất cao, 1.500 km/h so với tốc độ của B52 là 900 km/h nên đã vượt qua tất cả. Vượt qua phải bao gồm tất cả nỗ lực, từ tổ chức chỉ huy, sân bay cất cánh, dẫn đường, để có được điều kiện tốt nhất.

Hiệp đồng với binh chủng tên lửa phải chặt, khi tên lửa bắn lên F-4 phải dạt ra tránh, chúng tôi tranh thủ để vượt qua. Rồi lựa chọn hướng vào tiếp cận B-52 như thế nào. Tất cả tạo nên điều kiện thuận lợi nhất đánh B-52. Tôi bắn B-52 xong rồi mà F-4 vẫn ở đằng sau nhưng không làm gì được.

Với chiến công này, sáng hôm sau (ngày 28/12) ông được đại tướng Giáp gửi điện khen. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3-9-1973, khi đó ông mang quân hàm Thượng úy, biên đội trưởng thuộc Đại đội 5, trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371.

Phạm Tuân chia sẻ, chiến công của ông có "80% là may mắn", nhưng may mắn ở đây là có thời cơ, và phải biết chớp được thời cơ đó thì mới làm nên chuyện. Ông cho biết: "Trận ấy không thực sự phức tạp. Nhưng thành quả đó có được là do chúng ta đã từng đổ xương máu, đổ mồ hôi cho những trận chiến đấu trước."

KHÔNG ĐỂ “KHOẢNG TRỐNG VỀ TƯ TƯỞNG” ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG CHỐNG PHÁ

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch luôn xác định chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một “mũi đột phá”. Thực hiện mũi tiến công này, các thế lực thù địch luôn thay đổi cách thức, thủ đoạn tiến công để tác động vào tư tưởng, tâm lý, tình cảm, tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, gây mơ hồ, làm nhụt ý chí, suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Qua đó tạo ra mảnh đất tốt cho hệ tư tưởng tư sản ngày càng xâm nhập sâu rộng hơn vào đời sống tinh thần của xã hội, nhằm tiến tới là xóa bỏ hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam khỏi đời sống tinh thần của đất nước.

Chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm giảm niềm tin của nhân dân vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng trắng trợn vu cáo Đảng ta đem tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào Việt Nam là một sự gán ghép, gượng gạo dẫn đến sai lầm. Đồng thời, chúng ra sức ca tụng mô hình phát triển và thích ứng “vạn năng” của chủ nghĩa tư bản. Bằng nhiều thủ đoạn mới hết sức thâm độc, các thế lực thù địch tìm cách tạo ra sự phân hóa, đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm của nhân dân đối với CNXH, tạo ra “khoảng trống” và từng bước rơi vào vòng xoáy của tư tưởng, giá trị tư sản. Mặt khác, chúng còn hướng nhận thức của nhân dân tin theo con đường “CNXH dân chủ”, “CNXH nhân văn”, “nhân bản”, mà thực chất là từ bỏ CNXH khoa học.

Chúng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng xuyên tạc cho rằng: Hồ Chí Minh du nhập Chủ nghĩa Mác-Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt”. Rằng “Con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải CNXH”. Chúng tìm mọi cách để thực hiện ý đồ “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”, dựng chuyện, xuyên tạc bôi nhọ thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra chúng còn dùng thủ đoạn tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc, lối sống XHCN. Đồng thời, ra sức cổ súy tuyên truyền, quảng bá, tìm cách du nhập văn hóa, lối sống phương Tây vào nước ta. Coi đây là một vấn đề then chốt trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa hiện nay. Chúng luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, văn nghệ. Chúng đưa nhiều thông tin sai lệch, độc hại lên internet, qua đó tác động xấu tới nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ, văn hóa, lối sống của nhân dân ta.

 Các thế lực thù địch, phản động đã triệt để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng, như: Sách, báo, phim ảnh, internet, mạng xã hội… để phá hoại trận địa tư tưởng của ta. Chúng triệt để lợi dụng các con đường hợp tác văn hóa để tiếp xúc, “trao đổi” văn hóa; đặc biệt quan tâm tìm cách tiếp cận giới trẻ, văn nghệ sĩ để tác động, làm cho họ xa rời lý tưởng XHCN và say mê với lối sống, văn hóa phương Tây. Thúc đẩy việc truyền bá văn hóa phương Tây đối với học sinh, sinh viên, cán bộ đi học tập, công tác ở nước ngoài. Chúng coi đây là biện pháp tốt nhất, hiệu quả nhất để chuyển hóa tư tưởng văn hóa đối với lớp trẻ theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong tình hình mới, cần nâng cao chất lượng giáo dục, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong toàn xã hội. Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Chủ động tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thực hiện nghiêm việc định hướng chính trị trong các sinh hoạt văn hóa và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng. Chống mọi biểu hiện “thương mại hóa”, “phi chính trị” trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, văn hóa văn nghệ; kịp thời ngăn chặn những quan điểm lệch lạc, xa rời tôn chỉ mục đích. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng chính trị trong các hoạt động văn hóa, làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam theo ý đồ của chúng, bảo vệ và phát triển nền văn hóa truyền thống, cách mạng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tình hình mới./.

Nguồn: https://nhanvanviet.com

SỰ XUYÊN TẠC TRẮNG TRỢN CỦA JACKHAMMER NGUYỄN

Càng gần đến ngày Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ XIII thì các thế lực thù địch, bọn cơ hội chính trị lại càng điên cuồng chống phá. Điều đáng nói ở đây là, chúng “rêu rao” phê phán Đảng ta từ trước đến nay lúc nào cũng thực hiện sự lãnh đạo theo kiểu “phát xít Hitler” đối với toàn xã hội. Thật đê tiện khi lấy “chủ nghĩa phát xít của Hitler” ra so sánh với sự lãnh đạo của Đảng ta. Thực chất của những quan điểm này ai cũng có thể thấy được âm mưu, dã tâm của bọn cơ hội muốn gì.

Thứ nhất, thực tiễn  hơn 90 năm từ khi thành lập đến nay, Đảng ta lãnh đạo đất nước bằng các chủ trương, định hướng chiến lược, bằng Nghị quyết của Đảng.

Một xã hội muốn phát triển thì các thành viên trong xã hội đó phải có tiếng nói chung, cùng quan điểm và cùng chí hướng vì một mục tiêu. Một xã hội mà nhiều đảng lãnh đạo thì dân biết nghe theo ai đây? Cứ như các người rêu rao thì có ngày dẫn đến một xã hội “lộn xộn, bát nháo”, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” như các cụ ta vẫn nói. Nếu ai đó nghĩ rằng, Đảng ta độc tôn lãnh đạo là mất dân chủ, là độc quyền, là nguồn gốc của lạm quyền và thực hiện chế độ “phát xít Hitler” đối với con người thì phải có cái nhìn nhận lại cho đúng. Đảng ta lãnh đạo có phải bằng một người đâu? Đảng lãnh đạo tập thể, có các cơ quan và nhân dân giám sát, theo dõi, đánh giá. Tham nhũng đâu có phải do Đảng độc tôn lãnh đạo mà sinh ra? Thế thử hỏi trên thế giới, các nước thực hiện chế độ đa đảng thì ở đó không có tham nhũng? Thực tế trong cuộc phòng chống tham nhũng vừa qua, nhiều cán bộ của Đảng kể cả cán bộ cấp cao, Ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị bị truy tố, bị thi hành kỷ luật Đảng là quyết tâm chính trị của toàn Đảng trong công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đối với Đảng và Nhân dân ta, người có công thì được thưởng, người có tội thì phải bị phạt là điều đương nhiên. Mọi người dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Đảng và nhân dân ta vô cùng đau lòng phải xử lý những đồng bào của mình, nhưng không thể khác được. Đảng kiên quyết chống suy thoái, tham nhũng đã lấy lại niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Kỷ luật Đảng là kỷ luật sắt vừa nghiêm minh nhưng đầy tính nhân văn cao cả đối con người. Làm sao lại có những kẻ đem so sánh sự lãnh đạo của Đảng với chế độ “phát xít Hitler” đã bị cả thế giới tẩy chay? Đảng ta dứt khoát quan điểm đấu tranh không khoan nhượng với những cá nhân vi phạm kỷ luật Đảng, làm giảm thanh danh và uy tín của Đảng đối với nhân dân, đối với xã hội.

Thứ hai, lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam và lợi ích của quốc gia, dân tộc và Nhân dân Việt Nam là hoàn toàn thống nhất.

Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời trong Chính cương vắn tắt đã xác định rõ mục đích của Đảng lãnh đạo toàn dân tộc phân đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc, no ấm của nhân dân. Lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân luôn luôn thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, với lợi ích của toàn dân tộc. Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai lợi ích của Đảng ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế. Cũng từ đó, Đảng ta vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, lợi ích của giai cấp, của dân tộc và của nhân dân là hoàn toàn thống nhất, không thể tách rời. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác ”. Lợi ích của Đảng là như vậy sao các người lại đi so sánh với chế độ phát xít xấu xa đã bị tẩy chay trên thế giới?

Bài viết của Jackhammer Nguyễn là tiếng kèn lạc lõng với thực tế hiện tại những gì đã và đang diễn ra đối với sự lãnh đạo của Đảng ta và những thành tựu nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không ai là công dân Việt Nam có thể tin được những gì bọn cơ hội xuyên tạc, rêu rao trên những tờ báo lá cải hiện nay. Còn bọn cơ hội ở hải ngoại, muốn biết thực tế về Đảng Cộng sản Việt Nam, về nhân dân Việt Nam như thế nào thì hãy đến với Việt Nam ắt sẽ rõ./.

Nguồn: https://nhanvanviet.com