Thứ Năm, 25 tháng 2, 2021

NGỌN CỜ TƯ TƯỞNG CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

Cách đây 173 năm, ngày 24-2-1848, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do Karl Marx và Friedrich Engels soạn thảo đã được xuất bản. Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự hình thành cơ bản của chủ nghĩa Marx và là văn kiện đánh dấu bước ngoặt sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, K.Marx và F.Engels trình bày rõ những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, K.Marx và F.Engels còn trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách mạng... K.Marx và F.Engels khẳng định rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội. Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính đảng của giai cấp. Đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.

Những nguyên lý được K.Marx và F.Engels trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phản ánh đúng đắn, sâu sắc các quy luật vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Giá trị thực tiễn của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được minh chứng sống động bằng Công xã Paris, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917; bằng sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận; bằng sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân ở chính trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa; bằng phong trào đòi độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên phạm vi toàn cầu và bằng sự thành công của mô hình CNXH hiện thực ở một số nước hiện nay, trong đó có Việt Nam. Lãnh tụ V.I.Lenin từng nhận xét: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách, tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu của thế giới văn minh”.

Là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Marx-Lenin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, huy động được mọi nguồn lực của đất nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để giành những thắng lợi vẻ vang và vững bước đi lên CNXH.

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam trong 35 năm qua là minh chứng sống động thể hiện sự vận dụng, phát triển đúng đắn, sáng tạo tinh thần của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trong điều kiện mới. Trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng ngày 26-1 vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được trong những năm qua tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của đất nước ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam. Điều đó một lần nữa khẳng định, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” sẽ tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng soi sáng con đường đi tới chủ nghĩa cộng sản của nhân loại, trong đó có Việt Nam.

SỬ DỤNG ĐÚNG KHẨU HIỆU “MỪNG XUÂN MỚI, MỪNG ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI, MỪNG ĐẢNG QUANG VINH"

Cứ mỗi độ Tết đến, xuân về là thời gian diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng. Đặc biệt là sự kiện đón chào mừng năm mới, tổ chức lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tổ chức tiễn đưa thanh niên nhập ngũ…

Đây cũng là thời gian mà chúng ta tổ chức xây dựng nhiều khẩu hiệu, nhiều cụm cổ động ngoài trời phục vụ cho các sự kiện này.

Đi khắp các địa phương, cơ sở trên địa bàn cả nước đều thấy khẩu hiệu chào đón năm mới, chào mừng ngày thành lập Đảng được xây dựng ở các khu dân cư, các trung tâm xã (phường, thị trấn), huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) và các tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương). Tuy nhiên, khi xây dựng khẩu hiệu chào mừng các sự kiện này, nội dung khẩu hiệu lại không thống nhất mà mỗi nơi xây dựng theo một cách hiểu khác nhau.

Ví dụ: có địa phương xây dựng nội dung khẩu hiệu “Mừng Đảng, mừng xuân, mừng đất nước đổi mới”; Nơi khác lại xây dựng nội dung khẩu hiệu “Mừng Đảng quang vinh, mừng xuân mới, mừng đất nước đổi mới”; Có nơi xây dựng nội dung khẩu hiệu “Mừng Đảng, mừng xuân” …

Những nội dung khẩu hiệu này tồn tại từ năm này qua năm khác, nghe mãi, đọc mãi trở thành thói quen và nghĩ rằng nội dung đó đúng, nhưng thực ra là chưa chính xác.

Vậy sử dụng nội dung khẩu hiệu thế nào là đúng?

Theo Hiến pháp năm 2013, theo Hướng dẫn số 3420/HD- BVHTTDL, ngày 02/10/2012 về việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc ca và chân dung Hồ Chí Minh và Nghị định số 111/2018/NĐ, ngày 31 tháng 8 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định về ngày thành lập, ngày truyền thống, ngày hưởng ứng của các bộ, ban, ngành, địa phương, đã thống nhất quy định trang trí trên lễ đài như sau: Nếu nhìn từ dưới lên, vị trí quan trọng nhất (vị trí số 1) phía tay phải là vị trí để treo Quốc kỳ, vị trí bên trái (vị trí số 2) là vị trí để treo Đảng kỳ. Điều đó cũng có nghĩa là, đất nước là quan trọng nhất và Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc nhưng Đảng sinh ra trong lòng đất nước, trong lòng dân tộc, cho nên Đảng kỳ chỉ được treo ở vị trí số 2. Trong nghi lễ ngoại giao cũng vậy, khi đón khách nước ngoài, thì cờ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao giờ cũng được treo ở vị trí quan trọng nhất (vị trí số 1), cờ của nước là khách chỉ được treo ở vị trí số 2.

Vì thế, khi vận dụng quan điểm, tư tưởng này vào việc xây dựng khẩu hiệu chào mừng năm mới, chào mừng ngày thành lập Đảng, chào mừng sự nghiệp đổi mới của đất nước chúng ta nên thống nhất rằng: có vũ trụ, có đất trời thì mới có đất nước; có đất nước thì mới có Đảng. Điều đó có nghĩa là, Đảng được sinh ra từ trong phong trào đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam được hình thành từ vũ trụ, trời đất này. Do vậy, cần nhận thức đúng và xây dựng nội dung khẩu hiệu chào xuân mới, chào mừng sự nghiệp đổi mới đất nước, chào mừng ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tổ chức xây dựng khẩu hiệu này cho thống nhất trên địa bàn cả nước là: “MỪNG XUÂN MỚI, MỪNG ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI, MỪNG ĐẢNG QUANG VINH” ./

THÊ LƯƠNG TIẾNG KÊU LẠC BẦY CỦA PHẠM TRẦN!

Lại vẫn là Phạm Trần rả rích chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng khi viết: “Không phải vô cớ mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phải dằn mặt đảng viên “không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”, mà phải “thật sự vững vàng, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, vì đó là “vấn đề sống còn đối với chế độ” trong bài viết “Tư tưởng đảng đã lâm nguy” đăng trên Danlambao ngày 18/2/2021.

Về vấn đề này, Phạm Trần cùng một nhóm người đã/đangvà chắc chắn là sẽ còn “nhai đi nhai lại” chứ không chỉ dừng ở đây. Chuyện này vốn không lạ, chỉ là nhân Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa kết thúc thành công, Phạm Trần lại tự suy diễn khi cho rằng “Tư tưởng đảng đã lâm nguy”.

Không ngoài mục đích đòi xóa bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, xỏa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phạm Trần hồ đồ kết luận: Việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng 2 lần nhắc tới việc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động” trước và trong ngày họp chính thức của Đại hội đảng XIII (28/12/2020 và 26/1/2021) là điều “không bình thường”, là “tư tưởng của Đảng lâm nguy”, là do “tình trạng suy thoái tư tưởng trong đàng viên không còn bình thường nữa”…

Đã vốn quen với giọng điệu ủ ê này của Phạm Trần, song cũng thấy cần phải nhắc lại với Phạm Trần mấy điều cốt lõi sau:

Một là, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng là yêu cầu tất yếu, nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng; đồng thời, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những luận điệu sai trái, thù địch giống như Phạm Trần và nhóm người như Phạm Trần đã/đang đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời/trực tiếp lãnh đạo là minh chứng cho thấy, trên nền tảng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng đã vận dụng sáng tạo, đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời tiếp tục đạt được những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Sau đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[1]. Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[2]. Gần nhất, nội dung văn kiện tại Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Điều này cho thấy, việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng hay bất cứ một đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nào; bất cứ một cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu một cơ quan, địa phương, đơn vị, hay một cán bộ, đảng viên nào có nhắc đến nội dung này trong các bài viết, bài phát biểu đăng tải trên các cơ quan truyền thông… thì cũng là bình thường, chứ không phải là “không bình thường” như Phạm Trần suy diễn.

Hai là, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đương nhiên/tất nhiên là không thể phủ nhận, càng không thể xóa bỏ. Vì thế, điều này chỉ “không bình thường” qua góc nhìn thiển cận, cố chấp, nhìn hiện tượng mà không thấy bản chất của chính Phạm Trần.

Điều “không bình thường” nữa theo Phạm Trần là: “Có nhiều lý do chồng chất, nhưng cơ bản là từ bản chất tham ô quyền lực, bảo thủ, giáo điều và lạc hậu nên tư duy đổi mới của Lãnh đạo đã tàn lụi. Đảng sợ đổi mới chính trị, không chấp nhận có đảng đối lập, không dám tổ chức tranh cử và bầu cử tự do, và cấm dân ra báo vì đảng sợ mất quyền độc tôn lãnh đạo” lại là nhận định sai, cho thấy sự thiếu hiểu biết của người viết.

Bởi rằng, không phải chỉ cơ quan ngôn luận của Ban Tuyên giáo Trung ương mà tất cả các cơ quan báo chí truyền thông của Việt Nam; tất cả cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tầng lớp nhân dân yêu nước chân chính đều cùng chung quan điểm rằng, dựa trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn thì Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng.

Vì thế, Phạm Trần không cần và càng không nên nhắc đi nhắc lại vấn đề đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam; phủ nhận vai trò/đòi xóa bỏ sự độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng; đồng thời, cũng không vì thế mà suy diễn chủ quan rằng: “Chình vì sợ mất quyền và mất ăn nên Tuyên giáo đảng, Hội đồng lý luận Trung ương và hai Tạp chí Cộng sản và Tuyên giáo đã hợp đồng với báo Quân đội Nhân dân và Nhân dân để ra sức chống những chỉ trích độc tài và phi dân chủ của các mạng báo xã hội và cá nhân đấu tranh trong và ngoài: Việt Nam”.

Thực tế, không ít những người giả danh dân chủ, đòi dân chủ, tự do, và quyền được lên tiếng; mượn tiếng “yêu nước, thương dân” như Phạm Trần để tung tin xấu độc, bẻ cong sự thật, xuyên tạc và chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó đích thị là những phấn tử bất mãn, cơ hội hoặc đã phản bội, phai nhạt lý tưởng cộng sản, hoặc đã bị các thế lực thù địch mua chuộc.

Chừng nào còn sự khác biệt giữa ý thức hệ tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản thì chừng đó cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn tiếp tục, để đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận, quan điểm của Đảng – đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; để bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, cũng đồng thời là bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ bao xương máu, hy sinh mới có được.

Ba là, không có chuyện “Báo chí mơ hồ” như Phạm Trần nhận định, mà chính là yêu cầu để phòng và chống sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phòng và chống tình trạng “nhạt Đảng, xa chính trị” đã xuất hiện…, thì các cơ quan báo chí truyền thông cần phải tập trung thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải cảnh giác với những luồng dư luận, thông tin không phù hợp tư tưởng chỉ đạo, định hướng báo chí, xa rời nhiệm vụ chính trị, hạ thấp chức năng tuyên truyền, giáo dục của báo chí cách mạng.

Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa, các cơ quan báo chí truyền thông và mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chú trọng thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; phải coi đó “là nội dung quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, vừa có vai trò nền tảng, vừa có vị trí then chốt trong tình hình hiện nay” gắn với Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 để triển khai nghiên cứu lý luận”.

Đồng thời, đội ngũ những người làm báo cần phải nâng cao bản lĩnh chính trị, nhận thức đúng và thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, giữ gìn đạo đức người làm báo, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ để luôn “bút sắc, lòng trong”; để có những tác phẩm báo chí hấp dẫn, thuyết phục, phản ánh sinh động sự đổi thay hàng ngày, hàng giờ cuộc sống của nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam…

Thực tế là, không có phút giây nào các thế lực thù địch định dừng lại sự chống phá, dừng lại sự “chĩa mũi nhọn” bằng các thủ đoạn tinh vi/ngày càng xảo quyệt vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước để nhằm phá hoại và làm mọt ruỗng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như Phạm Trần đã/đang làm.

Vì thế, hơn bao giờ hết là phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không được phép sao nhãng, bỏ trống trận địa thông tin tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đi liền cùng đó là “chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; các biểu hiện cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác; không để suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh./.

NHẬN DIỆN CÁI GỌI LÀ “DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và quyết liệt. Dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền”, họ tự xưng mình là những người có "sứ mệnh" đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam. Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt những vấn đề "dân chủ, nhân quyền" nhằm nói xấu chế độ ở Việt Nam.

Dân chủ, nhân quyền được xem là giá trị chung của nhân loại. Các dân tộc không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa đều có đóng góp nhất định vào giá trị chung đó. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, không có mô hình "chuẩn" về dân chủ, nhân quyền, mà chỉ có những mô hình cụ thể dựa trên những giá trị phổ quát được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Tương tự như quan hệ giữa "cái chung", "cái phổ biến" với "cái đặc thù", "cái đơn nhất" trong triết học, những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền chỉ có thể thông qua các mô hình chính trị - xã hội cụ thể để biểu hiện. Nói một cách đơn giản là, dân chủ, nhân quyền có nhiều mô hình, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Thế nhưng, trên mạng xã hội hiện nay, có một số tổ chức, cá nhân tự nhận mình là "nhà dân chủ", sùng bái mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, coi đó là "chuẩn", là "mặc định". Từ đó, họ ra sức xuyên tạc, vu cáo, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhằm hướng sự phát triển của đất nước ta theo mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây.

Không chỉ phủ nhận chế độ dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch còn ra sức tô vẽ, sùng bái mô hình "dân chủ, nhân quyền" của phương Tây. Họ tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây, cố tình tảng lờ một số quyền con người sẽ bị hạn chế đã được ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966). Theo cách nói của họ, Nhà nước Việt Nam đã vi phạm quyền con người ở Điều 18 (Về quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo), Điều 19 (Về quyền tự do ngôn luận, báo chí), Điều 21, 22 (Về quyền hội họp hòa bình, quyền lập hội...) trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) mà Việt Nam đã ký kết. Tuy nhiên, họ không hề đề cập đến việc thực hiện những quyền nêu trên đều có thể bị hạn chế (trong pháp luật quốc gia) là vì "an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác". Gần đây, họ còn có "sáng kiến": Phát triển blog, hình thành "xã hội ảo", "công dân ảo" và sử dụng các trang mạng xã hội nhằm phát tán, thu gom, lưu trữ các bài viết. Qua đó, họ ra "Tuyên bố", lập bản "Kiến nghị", kêu gọi "ký tên"... ủng hộ các quan điểm cực đoan, sai trái. Chẳng hạn như: Tuyên bố 72 ra bản "kiến nghị" về sửa đổi Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, chế độ cộng hòa tổng thống; Tuyên bố về việc thực thi các quyền dân sự, chính trị, kêu gọi Nhà nước thực thi các quyền tự do, dân chủ theo các "chuẩn mực nhân quyền phổ quát" (không tính tới tính đặc thù, lịch sử và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc); Tuyên bố 258, kêu gọi xóa bỏ Điều 258 (Về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, Bộ luật Hình sự 1999 của Nhà nước ta)...

Gắn liền với những hoạt động trên, các nhà tự xưng là "dân chủ, nhân quyền" còn lợi dụng bầu không khí dân chủ của đất nước để thực hiện một số hoạt động "thực", như: Trao văn bản đến lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đến các cơ quan chức năng, thậm chí trao văn bản tới các đại sứ quán, lãnh sự quán nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Để tránh sự trừng phạt của pháp luật, họ "lách luật" bằng cách lợi dụng quyền "phản biện" (thực chất là để phản bác, phủ nhận), tuyên bố "chỉ thực hiện các quyền con người về quyền tự do, dân chủ được ghi trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia" và chỉ hoạt động "ôn hòa", "bất bạo động"... Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, các cuộc bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội hiện hữu thường bắt đầu bằng những hành động gọi là "bất bạo động", "ôn hòa" kiểu ấy. Do vậy, những hành vi vi phạm pháp luật của họ sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm minh.

Những hoạt động nói trên của những kẻ lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" cũng như của các thế lực thù địch chẳng qua chỉ là trò bịa đặt, "bóp méo sự thật". Hành động của họ chẳng lừa được ai, chắc chắn sẽ bị lên án, bác bỏ.

Nhìn lại những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm dân chủ, nhân quyền, có thể khẳng định rằng, đó là những thành tựu to lớn, không thể phủ nhận được. Những "phát biểu", "điều trần" của cá nhân này, tổ chức nọ nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam chỉ là những tiếng nói lạc lõng, xa lạ với cộng đồng quốc tế. Nó đã, đang và tiếp tục bị cộng đồng quốc tế vạch trần, lên án./.

Thứ Tư, 3 tháng 2, 2021

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, YẾU TỐ “XÂY” MANG TÍNH CHẤT QUYẾT ĐỊNH

Bên lề Đại hội Đảng lần thứ XIII, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã chia sẻ về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trao đổi với các phóng viên báo chí về nội dung này, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ, lịch sử gần 91 năm của Đảng cũng như quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới cho thấy, Đảng ta xác định trong các bài học về thành tựu của đất nước, đầu tiên chính là bài học về giữ vững và tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải toàn diện, kể cả về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và về công tác cán bộ. Trong Báo cáo Chính trị cũng như báo cáo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước trình bày trước Đại hội, chúng ta thấy yếu tố xây dựng Đảng phải gắn liền với bảo vệ Đảng.

Chính vì vậy, trong tất cả giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thời kỳ đổi mới cũng như 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng nói chung, trong đó có bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Theo đó, tất cả các nghị quyết, chỉ thị, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Gần đây nhất, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, góp phần đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nhấn mạnh, cấn chú trọng cả hai yếu tố “xây” và “chống”. Hai nội dung này cần được tiến hành song song, trong đó yếu tố “xây” mang tính chất quyết định. 

“Xây” là phải khẳng định rõ và bảo vệ cho được nền tảng của Đảng chính là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng. Quan điểm đó đã được thể hiện trong văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, vừa thể hiện tính kiên định, tính đổi mới, tính lý luận, vừa cho thấy tính kế thừa và phát triển từ tổng kết thực tiễn, từ đó khẳng định những thành tựu sau 35 năm đổi mới. Thành tựu 5 năm qua chúng ta đạt được cho thấy đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn; con đường mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn đúng đắn. Đây là lời tuyên ngôn để phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, quá trình lãnh đạo nhiệm kỳ qua, Đảng ta hết sức chú ý đến công tác tổng kết, nghiên cứu phát triển về mặt lý luận, trong đó làm rõ thêm những luận cứ, quan điểm mang tính cách mạng, khoa học, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để khẳng định con đường đúng đắn, hình thành những luận cứ sắc bén nhằm phản bác lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Thực tiễn cho thấy, chính những điều đó cũng góp phần giúp nhân dân ngày càng hiểu sâu hơn, tin tưởng hơn vào đường lối, chủ trương của Đảng; để bạn bè quốc tế ngày càng tin tưởng vào Việt Nam hơn. Chính những niềm tin đó đã góp phần vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.  

Trong 5 năm qua, để tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đã có sự thống nhất từ công tác lãnh đạo, tổ chức, xây dựng lực lượng, đặc biệt là phát huy vai trò của hệ thống cấp ủy, hệ thống chính trị và vai trò của nhân dân. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, chiến lược về an ninh mạng... đều có lực lượng chuyên trách, nhưng bản chất chính là nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng. Trong thế trận này, lực lượng vũ trang, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, các lực lượng khác là lực lượng nòng cốt. Đồng thời, công tác tuyên truyền, sức mạnh của báo chí, truyền thông cũng như các hình thức tuyên truyền khác góp phần rất quan trọng. 

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa cũng khẳng định, Quân đội luôn là lực lượng chiến đấu, lực lượng công tác tuyệt đối tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Toàn quân gửi gắm niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị đã chủ động xây dựng kế hoạch và định hướng về việc triển khai thực hiện, nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng vào cuộc sống. 

CƠ SỞ THỰC TIỄN KHẲNG ĐỊNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ LỰC LƯỢNG LÃNH ĐẠO XỨNG ĐÁNG VÀ TIN CẬY CỦA DÂN TỘC VÀ NHÂN DÂN VIỆT NAM

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong thực tế tiến hành cách mạng và được nhân dân thừa nhận.

Thực tiễn Việt Nam đã từng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Hai đảng này không đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân, mà bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận.

 Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 - 1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 - 1988), nhưng các đảng ấy cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân giao phó, ủy thác. Sau đó hai đảng này tuyên bố tự giải thể và chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng  không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào.

Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền chính là thông qua việc nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng thuận.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên CNXH. 

Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm nghiêm trọng. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và quy kết Đảng không đủ năng lực lãnh đạo trong điều kiện mới của đất nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.

Thứ ba, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

Quan hệ Đảng - dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng lớp nhân dân mong muốn Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chia sẻ quyền lực với các lực lượng khác khác trong vai trò cầm quyền của mình. Bởi đó là nguyên tắc đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam, không thể thay đổi

Thứ tư, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội.

Tuyệt đại đa số nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các khuyết điểm, yếu kém để hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tóm lại, quan điểm cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa học, phi thực tế. Quan điểm này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ khoa học, bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện và phi lôgic. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân./.

CƠ SỞ LÝ LUẬN KHẲNG ĐỊNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI LÀ CHÍNH DANH, HỢP HIẾN VÀ HỢP PHÁP

Trên thế giới, việc quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính phổ biến. Chẳng hạn: Hiến pháp của Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc có 1 điều; Hiến pháp của Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Ba Lan có 2 điều; Hiến pháp Udơbêkixtan có 3 điều,… quy định về đảng chính trị.

Các bản Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có 1 điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, là phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay, không phải là cá biệt.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ được quy định tại Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác ở Việt Nam.

Thứ ba, Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trên thực tế, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

CƠ SỞ LÝ LUẬN KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI LÀ CẦN THIẾT, TẤT YẾU VÀ KHÁCH QUAN

Vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn CNTB. Nhưng muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo. Đội tiên phong chính là Đảng Cộng sản - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Ph.Ăngghen cho rằng, Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng XHCN giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu giai cấp.

Kế thừa tư tưởng trên của Mác - Ăngghen, Lênin khẳng định: “Về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”(1). Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới. Lênin cũng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản…. cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh đạo cả xã hội”. Và trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.

Giải đáp vấn đề “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LUÔN ĐỦ KHẢ NĂNG ĐỂ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC

Giả định rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước thì lực lượng nào sẽ có đủ khả năng để thay thế vai trò đó? Các thế lực thù địch thừa hiểu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là như thế nào, và ở Việt Nam hiện nay không một tổ chức nào có thể thay thế và làm tốt vai trò lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc nói là cứ nói, “đòi” là cứ đòi, dù biết là “nói lấy được”, mà đòi thì không được! Vì thế, trong các luận điệu chúng tung ra, rất ít thấy xuất hiện một lực lượng cụ thể, một gương mặt “sáng giá” khả dĩ có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đâu đó họ có nói đến “lực lượng chính trị mới”. Nhưng cái gọi là “lực lượng chính trị mới” mà các thế lực thù địch tung hô có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước và xã hội, thực chất chỉ là lực lượng được các nước tư bản và các thế lực phản động quốc tế nuôi dưỡng, ủng hộ, cung cấp tài chính, hậu thuẫn về chính trị, quân sự, ngoại giao. Đó là một tổ chức ô hợp gồm nhiều đại diện của nhiều lực lượng có thù hận với cách mạng Việt Nam, có tội ác với nhân dân, những kẻ muốn lợi dụng dân tộc ta làm lá bài chính trị để phục vụ cho lợi ích ích kỷ của chúng.

Với lực lượng chính trị như vậy thì chắc chắn con đường mà họ lựa chọn cho đất nước ta sẽ là con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Khi nắm được quyền lãnh đạo, họ sẽ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), xóa bỏ thành tựu mà nhân dân ta đã hy sinh bao xương máu mới giành được, sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản (CNTB).

Với một mục tiêu chính trị và một nhân thân như vậy, chúng biết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ trao cho chúng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, các chiêu bài được tung ra cũng chỉ nhằm gây chú ý, tạo dư luận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân ta, trong xã hội ta, đồng thời để tranh thủ sự ủng hộ của các nước tư bản và các thế lực phản động quốc tế hòng gây sức ép, đặt điều kiện với chúng ta… để từng bước vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về thực chất, cái gọi là “lực lượng chính trị mới” không phải là lực lượng vì dân vì nước, mà chủ yếu là vì quyền lợi giai cấp, vì mục tiêu chính trị phản động.  Do đó, một khi lực lượng này lãnh đạo đất nước thì hệ quả tất yếu sẽ là: lái đất nước đi theo con đường TBCN. Theo đó, thì cái lợi trước hết không phải cho nhân dân lao động, cho dân tộc ta mà cho giai cấp bóc lột, cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Còn nhân dân ta phải đổ bao xương máu mới giành được độc lập, mới thoát khỏi kiếp nô lệ, là người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, thì sẽ phải quay lại địa vị cũ, đất nước lại rơi vào vòng lệ thuộc của các nước tư bản, đế quốc.

Thực tế lịch sử đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giành lại độc lập, thống nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH. Đất nước chuyển sang giai đoạn mới, vừa có hòa bình vừa có chiến tranh; vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, vừa chống lại sự bao vây, cấm vận và cô lập tứ phía. Khó khăn chồng chất khó khăn. Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những năm lãnh đạo miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh trước đây tuy rất quý báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức xây dựng và quản lý phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mô và tầm vóc mới. Mọi việc dường như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập và vừa bước ra khỏi các cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm. 

Chưa hết, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã giáng một đòn mạnh vào hệ thống XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng chưa từng có và đang đứng trước nguy cơ của sự sụp đổ. Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được phát huy và thể hiện trong điều kiện thực tiễn mới. “Đổi mới hay là chết” đó không chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh của những con tim và khối óc có đủ sự nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước thoát khỏi sự hiểm nguy. 

Trớ trêu thay, trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã không có một lực lượng nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác trách nhiệm trước non sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy nhưng tiếng kêu la, oán thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm ngã lòng người từ phía các thế lực thù địch và cơ hội... Thực tiễn lịch sử lại cho thấy một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xứng đáng và tin cậy của dân tộc và nhân dân Việt Nam; lịch sử và nhân dân Việt Nam lại một lần nữa tin tưởng trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, dẫn dắt giống nòi tiến bước cùng thời đại. Đó là sự thật hiển nhiên không phải bàn cãi.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mục đích và thủ đoạn của các thế lực thù địch là gì khi chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”? 

Về chính trị, chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp chưa phát triển, số lượng, chất lượng công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến”. Vì thế, “giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam” (!). “Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc Đảng ta đã sai lầm về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã hội, “tạo điều kiện cho Đảng Cộng sản độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt tự do, dân chủ”. Chúng kêu gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó không ai chịu chấp nhận”; đòi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.

Về tư tưởng, chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây, nên không còn phù hợp với Việt Nam”; rằng “Học thuyết Mác là sản phẩm của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học” (!); “chủ nghĩa Mác đã đóng góp khá nhiều cho lịch sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó không còn phù hợp với thời đại ngày nay”; v.v.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”; “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là để “an dân” chứ thực chất không theo Hồ Chí Minh (!?).

Về phương diện tổ chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền, còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong xã hội, không có nhân đạo.

Chúng còn cho rằng, trong Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng còn có các nhóm lợi ích, v.v.

Về đạo đức, chúng bịa đặt, bôi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, đánh vào sinh hoạt, đạo đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều chuyện giật gân trong sinh hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên ngày càng suy thoái, biến chất; tham nhũng, tham ô, lãng phí là căn bệnh trầm kha không thể chữa trị được. Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà nước tham nhũng”...

Thực chất, những “lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

PHÒNG NGỪA, NGĂN CHẶN THÔNG TIN XUYÊN TẠC ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Về phía các cơ quan chức năng: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đang diễn ra, đây là thời điểm mà các đối tượng phản động, chống đối chính trị ra sức tuyên truyền chống phá để phục vụ cho âm mưu, ý đồ xấu. Đối với các cơ quan chức năng có nhiệm vụ trong bảo vệ Đại hội cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho các lực lượng tham gia đảm bảo an ninh Đại hội Đảng, cần xác định vai trò, vị trí và tầm quan trọng trong việc thực hiện các chức trách nhiệm vụ được giao.

Cần có sự hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn Đại hội, đặc biệt là việc chia sẻ các thông tin cần thiết, đột xuất có liên quan đến hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội của các đối tượng phản động, chống đối chính trị để kịp thời đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm.

Các cơ quan chức năng cần chủ động, linh hoạt trong việc nắm thông tin tình hình, đưa ra các dự báo có khả năng xảy ra để có phương án đấu tranh, xử lý. Kịp thời cung cấp các thông tin thường xuyên, liên tục về tình hình Đại hội để người dân có được thông tin chính thống. Các lực lượng đặc trách về nhiệm vụ quản lý an ninh về thông tin mạng cần chủ động bám sát các hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội để có các phương án xử lý kịp thời...

Về phía người dân: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tương lai, vận mệnh của quốc gia trong giai đoạn tiếp theo. Mỗi người dân cần chủ động nâng cao tinh thần tự bảo vệ chính mình trước các thông tin, chiến dịch tuyên truyền của các đối tượng phản động đang ra sức chống phá.

Cần có thái độ, trách nhiệm rõ ràng trước các luồng thông tin xấu lan truyền trên mạng xã hội trước, trong và sau thời điểm diễn ra Đại hội. Việc tiếp xúc với các luồng thông tin sai trái, cần phải nhận rõ được trách nhiệm của mình khi có những phát ngôn, hành động không gây ảnh hưởng, tác động đến tình hình an ninh, trật tự, không chia sẻ, bình luận cổ súy. Bên cạnh đó, cần có trách nhiệm trong việc lên tiếng, đẩy lùi các thông tin sai trái, xuyên tạc để bảo vệ Đảng, bảo vệ Đại hội.

GIA TĂNG CÁC CHIẾN DỊCH TUYÊN TRUYỀN CHỐNG PHÁ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Những ngày vừa qua, các thế lực thù địch, phản động ráo riết tiến hành chiến dịch tuyên truyền với mưu đồ gây sự chia rẽ trong Đảng, trong Đại hội, gây mất uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tìm cách hạ uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thông tin tuyên truyền được các thế lực phản động dàn dựng công phu, tỉ mỉ. Các website với tên miền ở nước ngoài, các tài khoản mạng xã hội được thiết lập mới để tiến hành các chiến dịch tuyên truyền chống phá trước và trong những ngày diễn ra Đại hội đã được các đối tượng phản động, chống đối lên sẵn dây cót.

Trong những ngày qua, hàng loạt chiêu trò “truyền thông đen” được các tổ chức phản động chống phá Việt Nam sử dụng để xuyên tạc, đả kích nội dung, chương trình Đại hội đang diễn ra, đặc biệt là liên quan đến công tác nhân sự. Trang “Dân làm báo” gia tăng hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội, trong đó bài viết “Đại hội 13 đảng CSVN: Một tương lai đen tối cho dân tộc” với nhiều thông tin phân tích sai trái, bịa đặt nhằm hướng lái người đọc theo ý đồ xấu.

Tổ chức phản động lưu vong Việt Tân đưa nhiều bài viết xuyên tạc công tác nhân sự Đại hội, bày ra quan điểm cho rằng trong Đảng đang có sự đấu đá giữa các phe cánh, tranh chấp nên công tác chốt nhân sự trở nên khó khăn, chậm trễ.

Một số KOLs (người có ảnh hưởng) mang màu sắc chính trị cũng tích cực đăng tải các bài viết dưới dạng “rò rỉ thông tin”, tạo bộ hiểu biết để phân tích về công tác nhân sự, từ đó vu cáo, bôi nhọ cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nguyễn Văn Đài là đối tượng từng lĩnh án tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, nay đang sinh sống tại Đức, cũng thường xuyên sử dụng Facebook cá nhân để đăng tải các video, bài viết, chia sẻ các link về tình hình công tác nhân sự trong Đại hội nhằm thu hút sự chú ý của công luận. Đài đưa ra nhiều bài viết dưới dạng “phân tích tứ trụ” với lời lẽ miệt thị, đả kích, đó cũng là cách mà đối tượng tự tạo “điểm nhấn” cho mình để gây chú ý trên mạng xã hội.

Rõ ràng, tất cả các luận điệu xuyên tạc về công tác nhân sự mà các đối tượng phản động, chống đối chính trị đưa ra đều hướng đến mục đích gây sự hoang mang trong dư luận, tạo ra các thông tin sai sự thật nhằm phá hoại tư tưởng, tác động hướng lái dư luận đi theo ý đồ xấu. Sau phiên khai mạc Đại hội, những luận điệu này tiếp tục được các đối tượng vẽ ra, từ phân tích, đánh giá đến “trò chuyện chuyên gia”, tất cả đều chụp mũ bình luận về nhân sự Đại hội XIII để xuyên tạc, chống phá. 

Thực tiễn công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng được tiến hành chặt chẽ, khoa học, trái ngược với những luận điệu rêu rao đả kích của các thế lực xấu. Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, quy trình công tác nhân sự Đại hội XIII được chuẩn bị rất chặt chẽ, công phu và có nhiều điểm mới so với nhiệm kỳ trước. Trong đó, số lượng cán bộ được quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa mới ít hơn; trước đây, công tác nhân sự thực hiện theo quy trình 3 bước thì lần này là 5 bước. Điều này cho thấy sự chặt chẽ trong khâu lựa chọn nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng, qua đó lựa chọn những nhân tố thực sự xứng đáng để Đại hội lựa chọn.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 15, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm và biểu quyết thông qua danh sách nhân sự đề cử bổ sung một số đồng chí lần đầu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, bổ sung một số đồng chí Ủy viên Trung ương khoá XII thuộc trường hợp "đặc biệt" tái cử khoá XIII và một số đồng chí lần đầu thuộc trường hợp đặc biệt tham gia Ủy viên Trung ương chính thức; thông qua nhân sự là Ủy viên Bộ Chính trị khoá XII thuộc trường hợp "đặc biệt" tái cử khoá XIII và danh sách đề cử các đồng chí vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước nhiệm kỳ khoá XIII với số phiếu tập trung rất cao.

Ban Chấp hành Trung ương cũng đã thảo luận và thống nhất cao với Tờ trình của Bộ Chính trị về dự kiến Danh sách Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký và Ban Thẩm tra tư cách đại biểu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

THỦ ĐOẠN ĐÁNH LẬN, XUYÊN TẠC CÔNG TÁC BẢO VỆ ĐẠI HỘI ĐẢNG

Đại hội Đảng lần thứ XIII vừa diễn ra tại Hà Nội là sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân, quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Thế nhưng, đây lại là dịp các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phá hoại Đại hội.

Hoạt động chống phá này có tính quy luật, có từ lâu, nhất là việc “tung hỏa mù” thông qua các tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo của các phần tử xấu. Hiện nay, các đối tượng đã tận dụng tối đa không gian mạng cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ nên hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng diễn ra với quy mô rộng lớn hơn, dày đặc và nguy hiểm hơn, những hoạt động xấu độc từ bên ngoài cũng có thể len lỏi vào trong nước thông qua mạng xã hội.

Nhiều chiêu trò chống phá theo kiểu “rập khuôn” như: Lấy lý do các cơ quan chức năng nhận được những đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo liên quan một số cán bộ sẽ tái cử hoặc đang trong diện quy hoạch, ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ tới. Chúng tung lên các trang mạng xã hội, trang web tự lập đủ loại thông tin sai trái, bóp méo, bôi nhọ, đồn đoán vô căn cứ về công tác cán bộ nhằm gây nhiễu loạn thông tin và kích động chia rẽ nội bộ...

Đáng chú ý, tại kỳ đại hội này, các thế lực thù địch ở nước ngoài, số đối tượng phản động, cơ hội chính trị, các trang báo mạng thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFA, RFI... không chỉ tập trung xuyên tạc vấn đề nhân sự theo lối mòn, mà tập trung vào cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Trước và sau phiên khai mạc Đại hội, các đối tượng tập trung công kích, tìm cách nói xấu, hạ uy tín những đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, đưa ra các giả thuyết về “phương án nhân sự” rồi tìm cách xiên xỏ, bôi nhọ từng người.

Một số tổ chức thù địch tìm cách xuyên tạc, chống phá công  tác bảo vệ Đại hội Đảng, trực tiếp là bôi nhọ lực lượng CAND, QĐND. Với vai trò là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, danh dự, uy tín của lực lượng CAND, QĐND cũng luôn là mục tiêu các thế lực thù địch nhằm vào để xuyên tạc, phá hoại. Mới đây, sau lễ xuất quân diễn tập phương án bảo vệ Đại hội XIII của Đảng tại Quảng trường Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình (Hà Nội), do Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành liên quan, trên fanpage của Tổ chức khủng bố Việt Tân, số cơ hội chính trị đã đăng tải tràn lan những thông tin xấu độc công kích, bôi lem hoạt động trên.

Trang fanpage của Việt Tân đăng bài “Nghi ngờ dân, sợ dân, ĐCSVN diễn tập chống dân” cùng với luận điệu như: “Đảng quang vinh vĩ đại muôn năm, và các ông các bà đều khẳng định được nhân dân tin tưởng, yêu mến... vậy các ông các bà lo sợ điều gì mà phải diễn tập hoành tráng để bảo vệ ĐH Đảng lần thứ 13 vậy”. Đáng chú ý, các đối tượng này còn cố tình đánh lận bản chất khi so sánh rằng: “Diễn tập để bảo vệ ĐH Đảng chứng tỏ đảng không hề tin tưởng nhân dân, vẫn sợ nhân dân nổi loạn...”.

Khi lực lượng CAND triển khai các phương án bảo vệ Đại hội Đảng, các đồng chí trong Tiểu ban An ninh Đại hội đi kiểm tra công tác bảo vệ an ninh, trật tự, nhiều đối tượng cũng tìm cách xuyên tạc, chế nhạo, tung tin rằng đang có dấu hiệu “bất an” ngay trong Đảng, trong nước nên lực lượng Công an phải dàn quân, thiết lập các vành đai bảo vệ như vậy…

Đây đích thực là giọng điệu của những kẻ “miệng lưỡi không xương”, “bán trời không văn tự”. Thực tế từ lâu nay, sự lớn mạnh của lực lượng CAND chính là “cái gai” trong mắt của các đối tượng chống đối chính trị, phản động. Do vậy, để chống phá Đại hội Đảng XIII, việc số đối tượng chống đối tìm cách bôi đen, chia rẽ giữa lực lượng CAND với Đảng, với nhân dân, thủ đoạn này nguy hiểm, nhằm phủ nhận tầm quan trọng của lực lượng Công an với vai trò là chỗ dựa, là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân. Chúng luôn muốn tìm mọi cách đòi phải “phi chính trị hóa” lực lượng CAND, làm cho lực lượng này suy yếu, nằm ngoài vai trò lãnh đạo của Đảng, không còn là chỗ dựa thì ắt sẽ dẫn đến Đảng, chính quyền không còn được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành đất nước và chế độ sẽ sụp đổ.

Đây là luận điệu rất trơ trẽn, lố bịch. Với tính chất hệ trọng của Đại hội, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, an toàn phải được đảm bảo ở mức tuyệt đối. Ở bất cứ quốc gia nào, các sự kiện chính trị, ngoại giao quan trọng đều phải có phương án bảo vệ an ninh. Ở Việt Nam, tất cả các sự kiện chính trị xã hội quan trọng của quốc gia cũng như của khu vực, thế giới tổ chức ở Việt Nam đều được lên phương án đảm bảo an ninh tuyệt đối, được quốc tế đánh giá cao. 

Người dân hiểu rõ về tầm quan trọng của Đại hội Đảng XIII nên hoạt động diễn tập, xuất quân và triển khai các phương án bảo vệ Đại hội là nhiệm vụ tất yếu nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động của các loại tội phạm và hoạt động chống phá, đảm tuyệt đối an ninh, an toàn Ðại hội XIII của Ðảng. Yêu cầu đặt ra là “bảo đảm an ninh là yêu cầu nghiêm ngặt nhất, chủ động phòng ngừa là chính”, chứ không phải là “diễn tập chống dân” như luận điệu của những kẻ phá hoại.

Về vấn đề này, trả lời phỏng vấn báo chí, Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, Bộ Công an đã xây dựng Chỉ thị, kế hoạch bảo đảm ANTT Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; ngày 10/1/2021 đã tổ chức lễ ra quân bảo vệ ANTT trước, trong và sau dịp diễn ra Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Mục tiêu đặt ra là: “Tổ chức đồng bộ, quyết liệt các kế hoạch, biện pháp công tác Công an bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ về ANTT ảnh hưởng đến công tác chuẩn bị, tổ chức Đại hội, góp phần vào thành công chung của Đại hội”.

Bên cạnh vai trò đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của các cơ quan chức năng, mỗi người dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác bằng việc lắng nghe và tiếp nhận các thông tin từ phía cơ quan ngôn luận chính thống, tỉnh táo để nhận diện các thông tin xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Để từ đó tạo sức đề kháng, tăng khả năng “miễn dịch”, tránh rơi vào bẫy tin giả hoặc a dua, tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động. Chủ động lên án, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

GIỮ VỮNG BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ TÍNH TIỀN PHONG CỦA ĐẢNG

Một sự trùng hợp ý nghĩa: Dịp kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng năm nay cũng đúng dịp cả nước chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Phát biểu tại lễ ra mắt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: "Chúng tôi xin hứa trước Đại hội, trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII chúng tôi sẽ hết sức cố gắng, ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, tiếp nối, kế thừa những thành quả cách mạng đã đạt được, cùng với toàn Đảng, toàn dân phát huy những truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta, dân tộc ta, tăng cường đoàn kết nhất trí, thống nhất tư tưởng và hành động; luôn luôn rèn luyện, trau dồi phẩm chất, đạo đức cách mạng để không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực công tác, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới và lòng mong đợi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta".

91 năm trước, ngày 3/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đã minh chứng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với biết bao kỳ tích. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.

Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nhìn lại chặng đường hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đất nước càng phát triển, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, càng chứng tỏ tư tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai.

Ngày nay, trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, thường xuyên phải đối mặt với những cám dỗ của tiền bạc, của cải vật chất, quyền lực, lợi ích cá nhân, càng đòi hỏi phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu sao nhãng, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực kiên trì rèn luyện và học tập thì rất dễ bị thoái hoá, biến chất. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng - một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ. Tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.

Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tuỵ, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng đó có sức mạnh vô địch, dẫn dắt dân tộc đi lên. Việc làm rõ, xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, đảng viên sai phạm với quan điểm "không vùng cấm, không ngoại lệ" trong nhiệm kỳ qua đã thể hiện sự quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, được nhân dân đồng lòng ủng hộ, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ "xử một số người để cứu muôn người".

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Đại hội XIII đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng QĐND, CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND, CAND cách mạng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.