Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

CHIẾN THẮNG 30/4/1975, CHIẾN THẮNG CỦA LÒNG YÊU NƯỚC VIỆT NAM

Năm tháng sẽ qua đi nhưng thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử vàng chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc .

Lịch sử tuy đã lùi xa gần 50 năm qua, nhưng tinh thần chiến thắng 30-4-1975 vẫn mãi mãi tỏa sáng và tiếp tục phát huy giá trị trong thời đại ngày nay và cả mai sau.

Vào lúc 11h30 ngày 30-4-1975, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc dinh Độc Lập của ngụy quyền Sài Gòn, đánh dấu thời khắc lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm trường kỳ gian khổ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, tiêu biểu nỗi bật đó là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đặt dấu chấm hết cho sự đô hộ của thực dân Pháp ở Đông Dương nó báo hiệu một mùa Xuân mới của nhân loại đó là mùa Xuân của độc lập và tự do; đó là chiến dịch Tổng tiến công và nỗi dậy Tết Mậu thân 1968 làm thay đổi cục diện chiến trường buộc Mỹ phải ngồi vào bàn Hội nghị Paris; đó là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm tháng 12-1972 không những đập tan âm mưu đưa Hà Nội và miền Bắc “trở về thời kỳ đồ đá” mà đã đánh bại uy danh không lực Hoa Kỳ, làm sụp đổ ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, đồng thời mở ra một thời cơ mới “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và Đại thắng mùa xuân 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, đánh bại tên đế quốc giàu mạnh nhất thu non sông về một mối, chấm dứt ách đô hộ của thực dân, đế quốc đối với dân tộc ta; mở ra giai đoạn mới giai đoạn hoà bình thống nhất, độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời bước đầu làm phá sản chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ trên phạm vì toàn thế giới .

Với ý nghĩa vĩ đại đó, chiến thắng 30-4-1975 không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc ta mà còn là dấu ấn mang tầm vóc lịch sử và có ý nghĩa thời đại sâu sắc - nó chứng minh một dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu nếu có một Đảng cách mạng chân chính, đại biểu cho toàn dân tộc, có đường lối cách mạng đúng đắn, biết tập hợp sức mạnh của toàn dân thì có thể đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược dù chúng có hùng mạnh, hiếu chiến bậc nhất thế giới. Và dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước ta vững bước phát triển cho đến ngày nay .

Những năm tháng gian khổ , khó khăn, ác liệt của chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ; những tàng tích chiến tranh cơ bản đã không còn nữa; thế hệ cha, ông đã góp phần làm nên chiến thắng nhiều người cũng đã đi về với thế giới người hiền. Đất nước đã hồi sinh và thay da đổi thịt: từ một nước nghèo đói đã thoát nghèo vươn lên no ấm, GDP bình quân đầu người đã tăng gấp 50 lần, GDP cả nước tăng trên 100 lần, vai trò, vị thế và cơ đồ của dân tộc đã thay đổi với khát vọng và ý chí vươn lên sánh vai cùng các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những chứng tích chiến tranh tưởng như đã bị thời gian xóa nhòa, song di chứng của sự tàn khốc, hủy diệt và hậu quả của chiến tranh vẫn để lại trên thân thể cũng như trong ký ức, hiện diện tại hàng nghìn nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm trên khắp đất nước. Để có được ngày vui đại thắng, dân tộc ta đã phải chịu bao đau thương, mất mát, hàng triệu đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống trong hai cuộc kháng chiến, hàng triệu người khác để lại xương máu nơi chiến trường và biết bao người vợ , người mẹ, người con đến nay vẫn mong ngóng người thân được trở về. Có được ngày vui đại thắng chúng ta mới thấy cái giá của độc lập tự do là không có gì có thể so sánh .

Để làm nên trang sử vàng chói lọi đó có thể khẳng định bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha của con người Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là lịch sử chống ngoại xâm , giành và giữ độc lập dân tộc, đất nước ta đã phải đương đầu với biết bao cuộc xâm lăng của các thế lực ngoại bang, cũng như sự đe dọa của thiên tai khắc nghiệt. Và lịch sử cũng chứng minh, chính tinh thần yêu nước, đoàn kết ấy đã làm nên sức mạnh của Việt Nam, giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ địch hung hãn, bạo tàn và đại thắng mùa Xuân 1975 là một móc son như vậy .

Chiến thắng 30/4/1975 là chiến thắng của lòng yêu nước, của khát vọng hòa bình, thống nhất, của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân phát huy và nâng lên đỉnh cao trong thời đại mới, xây dựng, củng cố nên khối đại đoàn kết toàn dân - kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Bốn sáu năm qua, những bài học từ chiến thắng 30-4-1975 tiếp tục được phát huy, nhất là bài học về bồi đắp và xây dựng lòng yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được phát huy chính là nhân tố làm nên sức mạnh nội lực để người Việt Nam vượt qua những hậu quả to lớn nặng nề của chiến tranh, vượt lên mọi khó khăn, thách thức của bao vây cấm vận. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê Nin phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, kiên định con đường Độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh ra sức xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo đúng di nguyện của Người. Đất nước ta đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững độc lập và chủ quyền lãnh thổ, ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội, vượt qua thiên tai, đại dịch, phát triển đất nước toàn diện, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế .

Phát huy tinh thần của chiến thắng 30-4-1975 trong giai đoạn cách mạng mới, toàn Đảng, toàn Dân, toàn quân đoàn kết, thống nhất với khát vọng vì một dân tộc Việt Nam giàu mạnh, biết phát huy lòng yêu nước của nhân dân ta, chắc chắn sẽ lại là nhân tố tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp đất nước ta, nhân dân ta tiếp tục chiến thắng dịch bệnh Covid19, nhanh chóng phục hồi, ổn định tăng trưởng kinh tế - xã hội , giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, viết tiếp những trang sử mới trong kỷ nguyên hội nhập và phát triển của dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu : Dân giàu, Nước mạnh , dân chủ, công bằng, văn minh.

“THẦN TỐC, THẦN TỐC HƠN NỮA. TÁO BẠO, TÁO BẠO HƠN NỮA. TRANH THỦ TỪNG PHÚT, TỪNG GIỜ, XỐC TỚI MIỀN NAM. QUYẾT CHIẾN VÀ QUYẾT THẮNG. TRUYỀN ĐẠT TỨC KHẮC ĐẾN ĐẢNG VIÊN, CHIẾN SĨ” ĐƯỢC COI LÀ KIM CHỈ NAM, LỜI HỊCH TƯỚNG SỸ ĐỂ CÁC CÁNH QUÂN TIẾN THẲNG VÀO SÀO HUYỆT CỦA KẺ THÙ

Cách đây 46 năm, lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lịch sử dân tộc đã ghi một mốc son chói lọi khi lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong thắng lợi vẻ vang ấy, không thể không nhắc đến sự lãnh đạo và điều hành trực tiếp của Bộ thống soái tối cao: Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Trong những ngày tháng lịch sử đó, Bộ thống soái tối cao đã tập trung trí tuệ, tài năng ra những quyết định, kế hoạch chiến lược, chiến dịch, những mệnh lệnh, chỉ thị cho quân và dân cả nước biến các nghị quyết đúng đắn của Đảng thành sức mạnh chiến đấu và chiến thắng trên các chiến trường.

Một trong những mệnh lệnh đó do Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ký trong bức điện khẩn ngày 7-4-1975. Bức điện với nội dung “thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ” được coi là kim chỉ nam, LỜI HỊCH TƯỚNG SỸ để các cánh quân tiến thẳng vào sào huyệt của kẻ thù.

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, ngày 31-3-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Quân đoàn 1: 'Quân đoàn 1 (trừ Sư đoàn 308) có nhiệm vụ tổ chức hành quân gấp vào miền Đông Nam Bộ, hiệp đồng với các đơn vị bạn tham gia trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn-Gia Định'.

9 giờ 30 phút ngày 7-4-1975, Quân đoàn 1 nhận được bức điện khẩn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh của Đại tướng lập tức được chuyển đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đang hành quân nhiều ngày, đã khá mệt, nhưng khi nhận được lệnh, anh em phấn khởi cơ động suốt ngày đêm, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, có mặt đúng vị trí tập kết tại Đồng Xoài, tỉnh Phước Long (nay là tỉnh Bình Phước); nhanh chóng huấn luyện bổ sung cách đánh trong thành phố và cách đánh thọc sâu trong hành quân bằng bộ binh cơ giới. Với phương châm: Táo bạo, thọc sâu đánh nhanh các mục tiêu theo kế hoạch; đêm 25-4-1975, cùng với các đơn vị trong Quân đoàn 1, Trung đoàn 27, Sư đoàn 320B đã tập trung ở Bầu Cá Trê, phía bắc Tân Uyên.

Ngày 26-4-1975, chúng tôi được lệnh tiến công đánh vượt qua Tân Uyên theo đường đất đỏ qua Bình Chuẩn; tối 29-4-1975, đơn vị vào tới Búng, cách Lái Thiêu 10km. Đến 20 giờ ngày 29-4, tôi (khi đó là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27) và đồng chí Trịnh Văn Thư, Chính ủy trung đoàn, cùng tổ trinh sát đã bắt được liên lạc với cơ sở cách mạng. Tại xã Thuận Giao, gia đình bà Huỳnh Thị Sáu (má Sáu Ngẫu) rất vui và lấy tấm bản đồ thành Sài Gòn cất giữ từ lâu, trao ngay cho chúng tôi. Má Sáu chỉ tường tận đường đi, các chốt đóng quân, trận địa hỏa lực của địch mà má đã đánh dấu. Nhờ tấm bản đồ chỉ dẫn của má Sáu, sáng 30-4-1975, trong đội hình của Sư đoàn 320B (Quân đoàn 1), Trung đoàn 27 theo trục đường 13, lần lượt đánh chiếm quận lỵ Lái Thiêu, bao vây, chia cắt, cô lập, bức hàng hơn 2000 tên địch tại Trại lính Huỳnh Văn Lương và đánh chiếm cầu Vĩnh Bình; tiếp đó tiến công đánh chiếm Bộ tư lệnh Thiết giáp ngụy, căn cứ Lục quân công xưởng Gò Vấp, tiếp quản Tổng y viện cộng hòa.

9 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, ba mũi tiến công của Quân đoàn 1 đã gặp nhau ở khu vực cột cờ, trước trụ sở Bộ Tổng tham mưu ngụy. 16 giờ ngày 30-4-1975, các đơn vị của quân đoàn đều hoàn thành nhiệm vụ được giao; quân đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về trình độ tổ chức, chỉ huy, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, với nhiều bài học kinh nghiệm quý. Trước hết, là nét độc đáo về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng thọc sâu chiến dịch, tạo ưu thế về sức mạnh, đánh chiếm mục tiêu chiến lược, giành thắng lợi. Thực hiện phương châm: “Thần tốc, quyết thắng”, nên bộ đội ta nhanh chóng đánh vượt qua các trọng điểm đề kháng vòng ngoài, đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu; đặc biệt là đánh chiếm các cầu để đưa quân ta vào đánh các mục tiêu chiến lược trong nội đô Sài Gòn. Đây là nét độc đáo về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng thọc sâu trong chiến dịch; nhanh chóng tiêu diệt các cơ quan đầu não của địch; thực hiện triệt để tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị: “Thần tốc, táo bạo, chắc thắng”.

Các đơn vị quân giải phóng đã tạo lập thế trận thọc sâu vững chắc, sẵn sàng đột kích đánh chiếm mục tiêu đảm nhiệm. Trước khi bước vào chiến dịch, ta đã khẩn trương chuẩn bị tốt các trục đường cơ động trên các hướng, nhất là đường cơ động cho xe cơ giới. Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị tổ chức các đợt chiến đấu tạo ra thế trận thọc sâu vững chắc, bảo đảm có thể hợp vây lớn và chia cắt cả tập đoàn phòng ngự của địch. Đây là nghệ thuật tạo lập thế trận ban đầu rất quan trọng để các đơn vị nhanh chóng tiêu diệt, làm tan rã các đơn vị chủ lực của địch; khiến chúng không thể ứng cứu được cho nhau, dẫn tới sụp đổ nhanh chóng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện nét độc đáo về nghệ thuật kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực với LLVT địa phương; giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Các đơn vị của Quân đoàn 1, cùng với việc xác định hướng tiến công đúng và sử dụng lực lượng hợp lý, đã tận dụng thế trận chiến tranh nhân dân tại chỗ để làm bàn đạp, tạo sức mạnh bảo đảm liên tục phát triển chiến đấu; vừa bảo vệ được đội hình, vừa bảo vệ được lực lượng trên hướng tiến công chủ yếu, nhanh chóng chuyển hóa thế trận, chuyển hướng tiến công, thực hiện đúng ý định và kế hoạch của Tư lệnh chiến dịch.

Mệnh lệnh lịch sử này đã góp phần quan trọng tạo nên tính lịch sử cho chiến dịch quân sự lớn nhất của Quân đội nhân dân việt Nam.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị (ngày 31/3/1975 với quyết tâm của Bộ Chính trị thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất – NV), tôi suy nghĩ nhiều về trận chiến đấu sẽ diễn ra trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn – Gia Định. Sau khi nghiên cứu, trao đổi với Tổng tham mưu phó Cao Văn Khánh và Cục trưởng tác chiến Lê hữu Đức, ngày 1 tháng 4, tôi gọi điện vào B2: Đúng như Bộ Chính trị nhận định, chiến tranh cách mạng ở miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt. Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để dành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều.

Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ, tranh thủ vào trung tuần tháng 4 thì bắt đầu cuộc tấn công quy mô lớn vào Sài Gòn. Làm được như vậy thì thuận lợi nhất, bảo đảm thắng lợi giòn giã nhất. Bất ngờ hiện nay không còn ở phương hướng nữa. Địch biết nhất định ta sẽ đánh vào Sài Gòn nhưng chúng cho rằng ta cần chuẩn bị một hai tháng. Vì vậy bất ngờ hiện nay chủ yếu là khâu thời gian. Một mặt cần cơ động lực lượng nhanh chóng, thần tốc, mặt khác sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động…”. (Trích Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, NXB Quân đội nhân dân).

Quân ủy Trung ương đang theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong ảnh, từ trái sang phải: đại tá Lê Hữu Đức (Cục trưởng Cục tác chiến), thượng tướng Hoàng Văn Thái (Phó tổng tham mưu), thiếu tướng Vũ Xuân Chiêm (Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần), thượng tướng Song Hào (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quận ủy Trung ương), trung tướng Lê Quang Đạo (Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rõ hơn: “Cuộc tiến công lịch sử của Quang Trung – Nguyễn Huệ lại hiện về trong ký ức. Ngày 4-4, tôi gửi điện cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đang hành quân: Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang. Cần hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng…. Ngày 7/4, tôi ra lệnh cho các đơn vị đang dổ vào chiến trường: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ”.

Bức điện khẩn “Thần tốc, thần tốc hơn nữa…” do tự tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy trung ương, Bộ trưởng bộ Quốc phòng ký tên được Ban Cơ yếu lập tức truyền đi khắp các mặt trận trên toàn miền Nam như một lời hịch tướng sĩ. Mệnh lệnh đã truyền đạt quyết tâm cao nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tới các cấp lãnh đạo và chỉ huy chiến trường, tới mỗi đảng viên, chiến sĩ để chủ động sáng tạo, thừa thắng, xốc tới, hướng mọi hành động theo phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Và cả dân tộc đã ra quân với khí thế ấy. Tất cả đều thấm nhuần: lúc này, lỡ thời cơ là có tội.

CHỨC NĂNG ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM

Bên cạnh chức năng lập pháp, chức năng đại diện cũng được thể hiện rõ trong bản Hiến Pháp Việt Nam năm 2013. Điều 69, chương V của Hiến pháp 2013 ghi: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân”. Cụ thể hơn, điều 79 quy định các chiều cạnh của chức năng đại diện: “i) Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; ii) Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo”.

Có thể thấy, Quốc hội Việt Nam đang áp dụng mô hình “đại diện theo cơ cấu hệ thống chính trị và cơ cấu xã hội”. Các đại biểu Quốc hội được phân bố để bảo đảm những đặc trưng của hệ thống chính trị (như khối cơ quan Đảng, cơ quan Chủ tịch nước, cơ quan Quốc hội, cơ quan Chính phủ, quân đội, tòa án, công an, viện kiểm sát, và Mặt trận Tổ quốc); cấu trúc chính quyền (đại biểu trung ương và đại biểu địa phương); cũng như một số phân hệ cơ cấu xã hội chính yếu (đại biểu theo tỷ lệ giới, dân tộc, độ tuổi, tôn giáo, nghề nghiệp).

Hiện nay, có hai vấn đề được quan tâm nhiều nhất liên quan đến chức năng đại diện của Quốc hội Việt Nam là: (i) số đại biểu thuộc khối cơ quan hành pháp quá đông; và (ii) số đại biểu ngoài Đảng còn ít. Nhận thức được điều này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV dự kiến sẽ giảm số đại biểu từ khối hành pháp và gia tăng số đại biểu ngoài Đảng (khoảng 25 đến 50 người) cho Quốc hội khóa XV.

CÁC MÔ HÌNH ĐẠI DIỆN CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI

Đến nay, theo Heywood, có thể khái quát bốn mô hình đại diện chính trị tiêu biểu, gồm: i) đại biểu thông thái; ii) đại sứ của cử tri; iii) đại diện ủy nhiệm; và iv) đại diện theo cơ cấu xã hội. Điểm chung là mỗi mô hình đại diện chính trị đều có ưu điểm và hạn chế nhất định.

Mô hình “đại biểu thông thái”: Các quốc gia theo chế độ đại nghị như nước Anh đã từng áp dụng mô hình “Đại biểu thông thái - Trustee Model”. Trong mô hình này, cử tri đặt trọn lòng tin vào các đại biểu mà họ thừa nhận về tri thức và bản lĩnh hơn người. Các đại biểu này được tin là sẽ suy nghĩ và hành động trên cơ sở lợi ích của những người đã bầu chọn họ. Cá nhân các đại biểu có thể độc lập hoạt động dựa trên tri thức và quan điểm của mình. Tuy nhiên, do sự xuất hiện và vai trò ngày càng nổi bật của các Đảng chính trị cho nên sự độc lập của các đại biểu ưu tú luôn bị đặt dấu hỏi: liệu họ có thể khách quan hay không khi mà họ cũng có thể là đảng viên nên phải tuân thủ kỷ luật của các đảng chính trị khi tham gia Quốc hội?

Mô hình “đại sứ của cử tri”: Các quốc gia theo chế độ Tổng thống như Hoa Kỳ lại vận dụng mô hình “Đại sứ của cử tri - Delegate Model”. Trong mô hình này, các đại biểu sẽ đại diện cho các đơn vị bầu cử, nhận sự ủy nhiệm, và hành động như là những “đại sứ” của các cử tri nơi họ đại diện. Các đại diện chính trị này sẽ không thể tự do hành động theo ý mình muốn, cũng không chịu sự chi phối của các Đảng chính trị mà họ có tư cách thành viên. Để duy trì tư cách đại diện chính trị, họ phải gắn bó chặt chẽ với đơn vị bầu cử và hành động nhất quán theo lợi ích và quan điểm của cử tri nơi đã bầu cho họ.

Mô hình “đại diện ủy nhiệm”: Những bất cập của mô hình “đại biểu thông thái” thúc đẩy sự hình thành của mô hình “đại biểu ủy nhiệm - Mandate Model". Mô hình đại diện này xuất phát từ ý tưởng: với chiến thắng sau cuộc bầu cử, đảng chính trị đã giành được sự ủy nhiệm của số đông cử tri để thực hiện những chính sách mà họ đã đề ra trong chiến dịch tranh cử. Như vậy, chủ thể đại diện là các đảng chính trị chứ không phải cá nhân các chính trị gia. Các đại biểu phục vụ cử tri bằng cách trung thành với đảng chính trị và các chính sách của đảng, chứ không thể hành động độc lập hay thu thập và chuyển tải nguyện vọng hay quan điểm của cá nhân cử tri. Điển hình cho mô hình đại diện ủy nhiệm là Quốc hội của vương quốc Anh, khi mà cử tri thường quan tâm đến các đảng chính trị và chủ trương, chính sách, chứ không phải cá nhân đại biểu ứng cử.

Bản thân mô hình đại diện ủy nhiệm cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, hành vi bầu cử của cử tri có thể bị tác động bởi vô vàn yếu tố khiến họ quan tâm đến cá nhân ứng viên hơn là các đảng chính trị. Cử tri cũng có thể thiếu thông tin và tri thức cho nên họ không thể đủ duy lý để tìm hiểu và bỏ phiếu cho các chủ trương, chính sách của đảng chính trị. Thực tế này dẫn đến một biến thể khác là sự kết hợp giữa mô hình đại diện ủy nhiệm và mô hình “đại sứ của cử tri”. Điển hình cho sự kết hợp này là Quốc hội Đức – nơi cử tri vừa bầu cho đại diện của đơn vị bầu cử (chiếm 50% số đại biểu Quốc hội), vừa bầu cho đại diện của các Đảng chính trị (chiếm 50% còn lại).

Mô hình “đại diện theo cơ cấu xã hội - Resemblance Model”: đây là mô hình đại diện chính trị được áp dụng cho cơ quan lập pháp trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Mô hình này nhấn mạnh đến tính bao trùm của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội. Theo đó, một chính quyền đại diện phải giống như một xã hội thu nhỏ, có đủ đại diện đến từ các nhóm xã hội, các khu vực, các giới, các nghề nghiệp… khác nhau.

CHỨC NĂNG ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM

Ngày 23-5-2021 là ngày cử tri cả nước sẽ đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2016. Với cử tri ở mọi quốc gia, bầu cử Quốc hội luôn là một ngày có ý nghĩa trọng đại, không chỉ bởi vị trí đặc biệt quan trọng của Quốc hội trong cấu trúc quyền lực nhà nước, mà còn bởi Quốc hội chính là thể chế có chức năng đại diện chính trị - nơi phản ánh và chuyển tải các nhu cầu, nguyện vọng của các cử tri đến với chính quyền.

Trong các bản Hiến Pháp của mỗi quốc gia, Quốc hội luôn có được vị thế trang trọng khi vị trí, cấu trúc tổ chức và chức năng của Quốc hội thường được mô tả chi tiết với những thẩm quyền đặc biệt quan trọng. Trở thành đại biểu Quốc hội hay Hội đồng nhân dân các cấp luôn là niềm tự hào của mỗi cá nhân bởi họ có thể tuyên bố: “tôi được tín nhiệm để làm đại biểu của nhân dân”. Diễn đàn Quốc hội cũng là nơi diễn ra những hoạt động chính trị sinh động khi các đại biểu có thể tranh luận và phân tích mọi vấn đề chính sách. Mỗi quyết định được ban hành bởi Quốc hội sẽ trở thành những chính sách có ảnh hưởng đến đời sống của các nhóm xã hội, thậm chí mọi người dân.

Trên phạm vi toàn cầu, vai trò chính trị đặc biệt quan trọng của Quốc hội là cung cấp cầu nối giữa nhân dân và chính quyền. Do đó, “đại diện chính trị” chính là một trong những chức năng căn bản nhất của Quốc hội. Khái niệm “đại diện chính trị” đề cập đến một mối quan hệ mà qua đó cá nhân hoặc nhóm được nêu quan điểm hoặc hành động trên tư cách đại biểu cho một tập hợp người nào đó. Do đó, về bản chất, nguyên tắc đại diện chính trị là cách thức để giảm thiểu khoảng cách giữa người dân và chính quyền, bảo đảm sự kết nối giữa hành động chính sách của chính quyền với nhu cầu, nguyện vọng, và những mong đợi của người dân.

Tuy nhiên, cho đến nay, thế nào là “đại diện chính trị” là chủ đề lý luận vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Trên thực tế, làm thế nào để có thể bảo đảm được nguyên tắc đại diện của Quốc hội luôn là vấn đề phức tạp và khó khăn. Thực tế này dẫn đến việc áp dụng nhiều mô hình lựa chọn đại biểu khác nhau tại các quốc gia trên thế giới.

HÃY SOI MÌNH TRONG NHỮNG ĐIỀU "KHÔNG THỂ NÀO QUÊN"

Không chỉ bắn vào quá khứ, từ bất đồng, mâu thuẫn đến lún sâu vào suy thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”; từ những hận thù cá nhân đến bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo, họ đã bắn vào chính mình.

Có những người từng mang trên mình bộ quân phục nhưng đã đánh mất đi điều thiêng liêng nhất: Danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ. Từ niềm tự hào binh nghiệp cách mạng, họ đã đánh mất tất cả, đánh mất danh dự, đánh mất niềm tin của gia đình, bạn bè, đồng đội, nhân dân và đánh mất chính bản thân mình!

Ngược dòng và đánh mất

Ít ai biết rằng vị tiến sĩ, doanh nhân trên đã từng là một sĩ quan, con trai duy nhất trong gia đình có cha là liệt sĩ chống Pháp và được Đảng, Nhà nước cử đi học ở châu Âu những năm chiến tranh chống Mỹ, được trọng dụng với nhiều vị trí công tác tốt sau này lại trở thành kẻ chống phá đất nước. Vậy mà càng về sau, vị tiến sĩ này càng đổi màu, suy thoái về tư tưởng chính trị. Ông ta đứng tên trong những đơn, thư đòi đổi tên Đảng, tên nước, xóa bỏ Hiến pháp, thay đổi chế độ; từng cùng nhóm “Diễn đàn xã hội dân sự 21” sang Đức trình bày kế hoạch về lật đổ chế độ ở Việt Nam; thường xuyên nói, viết trên các hãng truyền thông nước ngoài để đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá. Ông ta còn lập ra cái gọi là “Quỹ tù nhân lương tâm”, xuyên tạc sự thật về các vụ án Đồng Tâm, Hồ Duy Hải.

Những người từng là đồng đội với ông có lẽ giờ đây sẽ cảm thấy rất xấu hổ khi ông đã làm vấy bẩn bộ quân phục và lún sâu trong vũng bùn đen tối, quay lưng lại với đất nước, với dân tộc, làm tổn thương cả máu xương và sự hi sinh của người cha liệt sĩ.

Có một người “cùng hội cùng thuyền” với ông ta, là một nhà thơ từng đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ với nhiều áng thơ dạt dào lý tưởng thì nay lại có lúc phát ngôn tùy tiện, phỉ báng cả hình tượng Anh hùng liệt sĩ. Chính nhà thơ này từng nhắc người lính thời bình đừng quên ánh trăng nơi chiến trường song chính ông ta lại phản bội ánh trăng bằng việc tham gia các hội, nhóm đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa quân đội.

Sự hi sinh, cống hiến của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng như bộ đội tình nguyện là vô giá, thiêng liêng vậy nhưng gần đây, có những đối tượng xét lại lịch sử, đưa ra những quan điểm lệch lạc trong những bài viết, cuốn sách để muốn xóa nhòa, đảo ngược chân lý. Họ cho rằng, chẳng nên tổ chức ăn mừng chiến thắng, mừng Tết Độc lập, Tết Thống nhất bởi “phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Họ núp bóng hòa hợp dân tộc để đánh đồng công-tội, coi nhẹ xương máu, hi sinh của bao triệu người đã đánh đổi vì hòa bình, hạnh phúc hôm nay.

Thật đau xót khi nghĩ về những trường hợp đó, dẫu họ chỉ là cá biệt. Đất nước đã đổi mới, vươn lên mạnh mẽ từng ngày nhưng họ lại lầm đường, ngược lối và ngã xuống ngay dưới chân mình. Có người đã ngộ nhận về sự phản biện xã hội và thiên chức cao cả của văn học để rồi viết nên những tác phẩm nhìn đời qua đôi kính đen, phỉ báng cả sự nghiệp đổi mới, nổi tiếng bằng kiểu “đốt đền” đâu chưa thấy, chỉ thấy hậu quả nhãn tiền là sự ghê sợ, xa lánh của bạn bè, đồng đội.

Có cả những người từng mang quân hàm, chức vụ rất cao nhưng lúc nghỉ hưu lại bị lôi kéo tham gia những hội, nhóm, đứng tâm thư, thỉnh nguyện có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước núp dưới bóng “yêu nước”, “chống nội xâm”. Việc làm của họ nhiều người đặt câu hỏi: Họ từng chiến đấu, hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nay sao lại làm những việc như vậy. Họ xét lại quá khứ cũng là đánh mất chính mình?

Cách đây vài năm, chúng tôi được dự phiên tòa xét xử trường hợp Trần Anh Kim ở Thái Bình. Là người lính nhập ngũ từ những năm chống Mỹ, trải qua cả đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương, lại là cán bộ chính trị, nhưng từ những sai phạm về kinh tế, Trần Anh Kim bị khởi tố, phải đi tù. Cải tạo tốt, Kim được giảm án nhưng sau đó vì bất mãn, Kim lại tìm đến các tổ chức phản động, tham gia các nhóm khiếu kiện và dần chuyển sang chống phá Đảng, Nhà nước và bị đi tù lần thứ hai. Ra tù vào đầu năm 2015, lẽ ra, với trải nghiệm cuộc đời mình, Kim phải rút ra những bài học đắt giá thì ở tuổi 66, Kim lại bị bắt giam vì đã lập ra một tổ chức kêu gọi quân nhân hai miền Nam, Bắc “dựng cờ dân chủ”. Tháng 5-2017, Kim vào tù lần thứ 3 với mức án 13 năm tù về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Giá như ông ta biết trân trọng phẩm giá, giữ gìn lời thề và danh dự người lính Bộ đội Cụ Hồ thì đâu đến nỗi.

Một trường hợp khác trẻ tuổi hơn là Lê Văn Thương, sinh năm 1988 ở tỉnh Quảng Ngãi. Thương từng là Thượng úy, Phó đại đội trưởng một đơn vị ở Quân đoàn 3. Vì vi phạm kỷ luật, Thương được cho phục viên về quê mở xưởng mộc. Lẽ ra, nếu giữ gìn bản lĩnh và nhân cách, Thương có thể làm lại cuộc đời, sửa chữa sai lầm bởi xưởng mộc của Thương cũng khá đông khách. Nhưng Thương lại bị kích động, lôi kéo, bỏ trốn ra nước ngoài và lên mạng xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, quân đội. Nhiều đồng đội đau xót cho Thương chỉ vì thiếu bản lĩnh mà sa ngã. Đó là bài học đắt giá về việc rèn luyện, giữ gìn phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Nếu không tu dưỡng, rèn luyện có thể sa ngã, thậm chí từ tự diễn biến tự chuyển hóa chuyển rất nhanh sang tiếp tay cho thế lực thù địch đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng cảnh báo: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Soi mình để giữ mình

Một trong những vụ việc mà Cục Bảo vệ An ninh quân đội xử lý gần đây là trường hợp Trung tá, QNCN Trần Nam ở một công ty phía nam tuyên bố ra khỏi Đảng. Trần Nam liên tục đăng tải, chia sẻ nhiều nội dung từ những trang phản động hoặc có thông tin xấu độc, thậm chí còn có cả bài viết với xuyên tạc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Nguyên nhân sâu xa ở Nam là do làm ăn thua lỗ, nợ nần dẫn đến bi quan, tiêu cực. Trong những dòng trên trang cá nhân, có lần Nam kể lại chuyến thăm của một vị thủ trưởng nghỉ hưu đến thăm Nam. Ông thắp hương trên bàn thờ có hình ảnh cha Nam - cũng là một người lính. Nam viết: “Chỉ có hai chúng tôi tâm sự hàn huyên về cuộc đời này của những người lính lúc về già. Thủ trưởng thắp nén nhang trên bàn thờ. Nơi ấy có ảnh hình của một đồng đội, đó là cha tôi. Đất nước này, mảnh đất hình chữ S này, thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, đã có biết bao nhiêu những người lính đã nằm xuống, đã cống hiến cả một cuộc đời cho sự toàn vẹn lãnh thổ của ông cha để lại...”.

Theo cán bộ cơ quan chức năng, qua đấu tranh, Nam cũng ân hận mình từng là quân nhân, là cán bộ từng công tác tại một học viện lớn của quân đội. Giá như ông ta sớm biết ranh giới đỏ, không đi ngược lại với truyền thống gia đình và đồng đội thì đâu đến nỗi.

Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, tác giả bài hát nổi tiếng “Bài ca không quên” từng tâm sự: “Chúng ta phải biết trân trọng quá khứ, là Bộ đội Cụ Hồ đã vào sinh ra tử thì càng phải giữ gìn, trân trọng quá khứ thiêng liêng ấy. Đó cũng là thông điệp tôi gửi trong ca khúc Bài ca không quên viết năm 1981". Ông kể: “Cha tôi hy sinh năm 1946-người cha mà tôi còn chưa được thấy mặt, chỉ được ngắm ông qua những tấm hình. Năm 1964, trong một lần công tác cùng đoàn cán bộ của Ban Tuyên huấn, có vợ tôi và bà vợ của nhà thơ Giang Nam vào thăm chồng, cả đoàn bị lọt trúng ổ phục kích ở Tây Ninh, vợ tôi chấp nhận bị bắt đưa về nha cảnh sát để bảo vệ an toàn cho 18 cán bộ nhưng cô con gái đầu lòng của tôi lúc đó mới vừa được 6 tháng tuổi đã mất trong trận đó”.

Nhạc sĩ cho rằng nỗi đau riêng của gia đình ông có thể là rất lớn nhưng sẽ chẳng thấm tháp gì nếu đem so nỗi đau của mình với hàng ngàn, hàng triệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tiễn cả chục người con lên đường ra trận không có ngày trở lại. Vì thế, “Bài ca không quên” viết cho tất cả sự hy sinh của những người con anh dũng của đất nước, rất nhiều hoàn cảnh đau thương trong chiến tranh mà chỉ nghe kể thôi chúng ta phải soi mình trong đó, để hiểu có hòa bình hôm nay đã biết bao mồ hôi, nước mắt và tính mệnh đã ngã xuống nên chúng ta không được phép quên, không thể nào quên!.

Biết soi mình trong những điều không thể nào quên chính là đòi hỏi cần thiết với bất kỳ ai từng mang trên mình bộ quân phục xanh màu đất nước. Là người chiến sĩ, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ đã biến thành giá trị văn hóa trong mỗi chúng ta. Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành danh xưng cao quý, là báu vật mà nhân dân trao cho quân đội. Nhưng thực tiễn thời gian qua, có những người không có sự tỉnh táo cần thiết hoặc thiếu bản lĩnh mà đã đánh mất đi điều thiêng liêng nhất. Chúng ta phải cảnh giác với các thế lực thù địch nhưng cũng cần cảnh giác với chính bản thân mình bởi nếu không có sự kiên định cần thiết sẽ rất dễ bị “cuốn theo chiều gió”. Không phải cứ mang trên mình bộ quân phục hay cứ từng đội mũ, đeo sao là có thể được yêu mến, trân trọng mà phải luôn rèn luyện, giữ gìn để ngôi sao trên mũ mãi soi sáng, dẫn chúng ta đi trọn lời thề của binh nghiệp cách mạng.

Nguồn: Nguyễn Văn Minh- QĐND

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC KHÁT VỌNG VÀ QUYẾT TÂM CỦA CẢ DÂN TỘC VỀ MỘT NƯỚC VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Từ bao đời nay, một nước Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất luôn hiển hiện trong trái tim mỗi người dân Việt Nam yêu nước chân chính. Tổ quốc Việt Nam giản dị và thân thương chính là khoảng trời, vùng biển, đảo, biên giới thiêng liêng thấm đẫm máu xương của tiền nhân, của các vị anh hùng dân tộc và các thế hệ cha anh. Vì thế, đã có biết bao cuộc khởi nghĩa, có biết bao cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường, không quản máu xương, mồ hôi, nước mắt…; không quản thời gian, trường kỳ bao tháng năm. Và cũng vì thế, khi đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ, khi mỗi người dân của xứ An Nam thuộc địa dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp không còn được thụ hưởng quyền cơ bản của một con người thì người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.

Người đã tìm ra con đường để dân tộc Việt Nam được độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do

Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước qua nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ ở nhiều châu lục, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo nghiệm và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn theo Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Từ đó, Người đã nỗ lực hoạt động trong thực tiễn và lý luận để không chỉ khẳng định vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa, tính chủ động của cách mạng ở các thuộc địa mà còn khơi dậy, cổ vũ và phát huy sức mạnh đoàn kết của nhân dân các thuộc địa trong sự nghiệp đấu tranh để giải phóng dân tộc mình, giai cấp mình và chính bản thân mình.

Đồng thời, Người còn sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ, động viên và tập hợp các tầng lớp nhân dân trong các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể chính trị, các tổ chức hội phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn cách mạng để nhân nguồn sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, tạo dựng và tích bồi nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".

Trân trọng giá trị và ý nghĩa của độc lập, tự do; thấu hiểu sâu sắc rằng, độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính là đích đến của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", để "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "Dân chúng được tự do tổ chức", "Nam nữ bình quyền"…

Từ một sự lựa chọn đúng đắn đó và kiên định con đường đã lựa chọn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phát huy sức mạnh của lòng yêu nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để từng bước đấu tranh để giành lại cho độc lập, tự do. Ngày 28/1/1941, trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương thứ 8 (5/1941): quyết định thay đổi chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; đồng thời, thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp "lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc"…

Rõ ràng là, thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945 chính "là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”[3]. Vì thế, đó không chỉ là hiện thân khát vọng của một dân tộc Việt Nam muốn được độc lập, con người Việt Nam muốn được sống trong tự do, được thụ hưởng những quyền con người cao cả nhất mà còn khẳng định quyết tâm, thành quả sự phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.

Bởi thế, 6 chữ quý giá Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ghi dưới quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hiện thân khát vọng của toàn dân tộc. Đó đồng thời là sự hiện thực hóa tâm nguyện "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” của Nguyễn Ái Quốc từ thập niên 1920; là tinh thần và ý chí của cả dân tộc “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân năm 1975.

Nhân dân Việt Nam kiên trì đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất

Trân trọng giá trị của độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam không chỉ kiên trì trong cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước mà còn tiếp tục xây dựng một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. 46 năm sau khi miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, có thể thấy những thành tựu của Việt Nam trong hơn 1/3 thế kỷ qua không chỉ được truyền thông của Việt Nam đánh giá, khẳng định mà còn được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Giá trị của độc lập, tự do, của một quốc gia thống nhất và những quyền làm người cao cả của mỗi công dân được thực thi ở Việt Nam thông qua chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; được quy định trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật ngày càng được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cho thấy những luận điệu xảo trá của những đối tượng nhân danh yêu nước, dân chủ, những kẻ phản động, cố tình xuyên tạc rằng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta là cuộc nội chiến giữa một bên là chính quyền Sài Gòn và một bên là chính quyền Hà Nội, được Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa giúp đỡ; là quân dân miền Bắc cầm súng sát hại đồng bào ở miền Nam; là Đảng Cộng sản Việt Nam không biết trân trọng giá trị của độc lập, tự do thực sự… chính là âm mưu phản động của thế lực thù địch.

Những luận điệu xuyên tạc sự thật, bẻ cong sự thật đó chính là sự phủ nhận lố bịch của những kẻ vô ơn, bội nghĩa với chính khát vọng về một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tinh thần, ý chí, máu xương của cả dân tộc kiên trì đấu tranh chống lại sự xâm lược thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai; chống lại chính sách độc tài và tàn bạo đối với đồng bào miền Nam như Luật 10/59, lập ấp chiến lược với phương châm “giết sạch, đốt sạch, phá sạch”…; với một cuộc chiến tranh hủy diệt hết sức tàn bạo, biến Việt Nam thành chiến trường đẫm máu, phải hứng chịu một lượng bom đạn lớn chưa từng thấy trên thế giới…

Những luận điệu xuyên tạc sự thật, bẻ cong sự thật đó chính là sự vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam và những người đảng viên cộng sản Việt Nam; đặc biệt là xuyên tạc giá trị và bản chất câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966 và quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam cùng sự chi viện hết lòng, hết sức của quân dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Thực tế, ở Việt Nam không bao giờ có hiện trạng "sau khi cướp chính quyền và lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để đánh Pháp thành công, nhân danh chủ nghĩa tam vô họ đã cướp đoạt độc lập và tự do từ tay nhân dân"; cũng lại càng không có việc "nhân danh “độc lập” và “tự do”, họ cho họ cái quyền xâm lược để chiếm đoạt nốt độc lập và tự do của muôn triệu người khác ở miền Nam" như các thông tin xấu độc của những người mang trong mình ảo tưởng về chế độ Việt Nam cộng hòa thuở nào/của những người ôm mối hận vì không được tự do vô chính phủ chống phá Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tung lên mạng xã hội mỗi khi tháng Tư đến…

Thực tế, lịch sử Việt Nam hiện đại ghi nhận rằng, ở Việt Nam chỉ có một sự thật là, để thực hiện khát vọng giải phóng miền Nam dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, cả nước đã đồng thời tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược: 1) Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc để miền Bắc trở thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam; 2) Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.

Kiên định đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và tự do, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã giành thắng lợi. Miền Nam đã được giải phóng, Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, đồng bào Nam - Bắc đã sum họp một nhà! Cả nước chung niềm tin và khát vọng về một nước Việt Nam ngày càng phát triển phồn thịnh, nhân dân Việt Nam được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Sự thật là vậy và sự thật này là không thể phủ nhận, cũng giống như không thể phủ nhận, càng không thể xuyên tạc khát vọng và niềm tin chân lý: Nước Việt Nam là một. dân tộc Việt Nam là một. Đồng bào Nam Bộ là máu của máu, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định.

Sự thật là, chiến thắng lịch sử mùa Xuân 1975 đã tạo cơ sở cho cả dân tộc Việt Nam có thêm bản lĩnh, niềm tin để vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới để xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Vì thế, chỉ có những người không biết trân trọng độc lập và tự do; không hiểu đúng bản chất của độc lập và tự do mới vi phạm pháp luật Việt Nam, để tự mình hủy đi quyền được độc lập, tự do của chính mình. Chỉ có những người luôn ảo tưởng về "thiên đường độc lập, tự do" vô vọng trong quá khứ mới suy nghĩ và hành động sai để "vượt biển tìm tự do" và "sống vật vờ như chết ở bên lề xã hội", bởi đó không phải là tự do mà là vũng vẫy trong bóng đêm quá khứ!.

Mọi người Việt Nam yêu nước chân chính đều hiểu đúng giá trị của độc lập, tự do và hạnh phúc vì được sống trong một đất nước hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất. Chỉ có những người ‘lạc dòng’ cùng hội cùng thuyền với thế lực phản động, cơ hội mới hiểu sai, cố tình xuyên tạc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và giá trị cao cả của độc lập, tự do mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại!

VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG ĐẤU TRANH TRÊN MẠNG XÃ HỘI

Là một trong những đất nước có tốc độ phát triển Internet cao nhất thế giới, Việt Nam luôn tiềm ẩn những vấn đề hết sức phức tạp như tội phạm mạng, tin tặc tấn công, tình báo, gián điệp đánh cắp, phá hủy thông tin, bí mật Nhà nước,… Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng mạng xã hội để tuyền truyền thông tin chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với hình thức “live stream”, phát trực tiếp các video clip hoặc các cảnh biểu tình, khiếu kiện… để kích động cộng đồng mạng, tạo điểm nóng, khủng hoảng chính trị, tiến tới kịch bản bạo loạn và lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hàng nghìn blog, facebook và các trang mạng nước ngoài đăng tải những bài viết có nội dung sai sự thật, “đổi trắng thay đen” nhằm che mắt, đánh lừa dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân về công cuộc đổi mới và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó kêu gọi sự can thiệp của quốc tế và các tổ chức phản động vào Việt Nam.

Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam đã đẩy mạnh đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”, chống lại các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc trên mạng Internet. Ấy vậy mà, chúng lại xuyên tạc rằng “quân đội đang can thiệp vào quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận”, quân đội Việt Nam “lo sợ” trước những blogger, những “nhà tự do, dân chủ”. Chúng gây chia rẽ khi kêu gọi “cán bộ, chiến sĩ trong quân đội không nên đấu tranh cho một xã hội không có dân chủ, nhân quyền, độc tài, tham nhũng”. Chúng tuyên bố nhiều cán bộ, chiến sĩ đã “nhận ra sự thật”, quay đầu lại tự “chĩa súng” vào tổ chức. Vậy sự thật là gì?

Trước hết, các video clip được sử dụng để “live stream” đều đã được cắt ghép; các sự việc biểu tình, khiếu kiện… đều đã được dàn dựng, mua chuộc, lôi kéo, cài cắm người vào kích động. Chúng hướng đến các vấn đề dễ gây bức xúc như môi trường, đất đai, hay ứng xử của các lực lượng chức năng và chọn những thời điểm khi đất nước có sự kiện chính trị trọng đại (các ngày lễ, tết, các kì họp, các chương trình, chuyến thăm của quốc tế…) Tất cả đều là thủ đoạn rất hiểm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, phải hết sức cảnh giác!

Hơn nữa, cần phải hiểu rõ thực chất: Ai mới là người phải thực sự “lo sợ”? Chính là những kẻ phản dân, hại nước kia chứ không ai khác. Chúng đã ngầm thừa nhận hiệu quả hoạt động của cán bộ, chiến sĩ quân đội bằng việc chặn một số trang facebook, khóa không cho họ bình luận, nêu ý kiến. Chúng lo sợ những bài viết bịa đặt, ăn tiền nói láo của mình sẽ không còn đất sống; những âm mưu, thủ đoạn thâm độc sẽ nhanh chóng bị phơi bày, đưa ra ánh sáng; mục đích lợi dụng, lôi kéo, kích động nhân dân sẽ không thành hiện thực, chiến lược “Diến biến hòa bình” theo đó mà phá sản.

Phải khẳng định rằng hoạt động đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đặt ra cấp bách để bảo vệ chủ quyền, an ninh, uy tín, vị thế, lợi ích của đất nước và nhân dân ta. Điều này được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013, chương IV về Bảo vệ Tổ quốc (Điều 64, 65, 66). “QĐND Việt Nam là lực lượng nòng cốt để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc”; “Nhà nước xây dựng QĐND… làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”. Vì thế, quân đội không chỉ bảo vệ toàn vẹn vùng đất, vùng trời, biên giới, biển đảo của Tổ quốc mà trên không gian mạng. Như vậy, quân đội tham gia đấu tranh trên mạng xã hội là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp.

Trong Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” cũng khẳng định cần “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo vệ an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng…”. Vì vậy, đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Quân đội phải hết sức quan tâm cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ cái đúng, lẽ phải, bảo vệ Đảng, chế độ, cương quyết bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Quân đội phải đi tiên phong và làm quyết liệt hơn nữa trên lĩnh vực này”. Với tinh thần đó, các cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức, trình độ và khả năng phân định tình hình đã tích cực tham gia phản bác lại những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với sự nhiệt tình, trách nhiệm của người lính, họ vừa thực hiện nhiệm vụ, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu tại cơ quan, đơn vị vừa kết hợp đấu tranh với kẻ xấu trên không gian mạng mà không được trả thêm bất kỳ khoản thù lao nào, chứ không giống như những kẻ chỉ ăn tiền, nói xằng, nói bậy.

Những lời kêu gọi bằng cách giả danh, đổ tiếng xấu cho đất nước, quân đội chỉ là những chiêu trò “thọc gậy bánh xe”. Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng, nhân dân ta đã từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng cũng đang được đẩy mạnh và quyết liệt hơn bao giờ hết. Đó là những biểu hiện cụ thể nhất về dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam./.

MẶT TRÁI CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI QUÂN NHÂN

Như chúng ta đã biết trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, nó thúc đẩy sự phát triển xã hội ngày càng nhanh hơn, các thông tin khi cho lên mạng chỉ trong phút chốc đã nan tỏa đi khắp nơi. Nhờ vậy mà con người liên lạc với nhau dễ dàng và tiện lợi hơn trước kia rất nhiều. Cùng với những ưu điểm của mạng xã hội mang lại, thời gian gần đây, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mạng xã hội để đăng tải thông tin xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng; vu khống, bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng và Nhà nước... những thông tin trên đã gây ra sự hoài nghi, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân nói chung và trong môi trường quân đội nói riêng, tạo sự bất ổn, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về lập trường, tư tưởng và bản lĩnh chính trị của quân nhân

Theo số liệu về công nghệ thông tin - truyền thông, tính đến hết năm 2016, nước ta có gần 34 triệu người dùng Internet, chiếm hơn 30% tổng dân số. Ở Việt Nam, mạng xã hội được biết đến và sử dụng phổ biến nhất hiện nay là Facebook với khoảng trên 13 triệu người, cùng với nhiều trang mạng và diễn đàn xã hội khác. Nội dung chống phá của các thế lực thù địch trên mạng xã hội trong thời gian qua tập trung vào một số vấn đề như: Tung ra những thông tin, quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên CNXH của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gây mâu thuẫn nội bộ, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ danh dự các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên, đa đảng; kêu gọi biểu tình gây áp lực đối với Đảng, Nhà nước; âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa quân đội; phát tán những tin, bài, tài liệu có luận điệu sai trái, thổi bùng các vấn đề trong nước để xuyên tạc, bóp méo, lấy hiện tượng quy thành bản chất nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn lợi dụng chiêu bài “Dân chủ”, “Nhân quyền”, “Tôn giáo” để vu cáo, gây sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế, tạo áp lực với Đảng, Nhà nước ta. Nhào nặn, lan truyền những thông tin thất thiệt gây tâm lý bi quan, hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; làm xói mòn niềm tin của nhân dân với Đảng, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, thực hiện mưu đồ xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từng bước lái Việt Nam theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Về thủ đoạn, các thế lực thù địch đã lập ra hàng trăm trang web với phần lớn máy chủ đặt ở nước ngoài, để thu thập, bịa đặt, phát tán những thông tin, hình ảnh xấu độc; tung ra các luận điệu vu cáo, bình luận thâm độc để kêu gọi, thu hút sự phụ họa, “theo đóm ăn tàn” của những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước, nhằm bới móc, thổi phồng, bóp méo sự thật, phá hoại niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Trước tình hình trên, mỗi cán bộ, học viên tự trang bị kiến thức để “miễn dịch” trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Trên cơ sở đó chúng ta là những người sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm cho mọi người nhận thức rõ không gian mạng và các sản phẩm của nó là do con người tạo ra, là thành tựu khoa học công nghệ. Mỗi quân nhân phải chủ động tiếp cận và khai thác có hiệu quả, làm cho không gian mạng không xa cách, đồng thời cũng không quá sa đà vào mạng. Có nhãn quan chính trị đúng đắn và trình độ lý luận sắc bén để nhận diện và đủ sức “phản biện” các thông tin xấu độc trên các trang mạng xã hội. Cần phải nhận thức rõ việc khai thác thông tin mạng là nhằm mục đích xây dựng tổ chức, xây dựng con người, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng Internet và thông tin trên mạng; Quy chế quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet trong Quân đội. Tập trung xây dựng lực lượng, phương tiện đủ mạnh để đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Trước hết, phải củng cố kiện toàn và phát huy vai trò của “lực lượng 47” trong đấu tranh với các thông tin xấu độc của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt công tác quản lý mạng Internet, tăng cường quản lý báo chí, xuất bản, khai thác các ấn phẩm văn hóa, không để văn hóa phẩm xấu độc xâm nhập vào đơn vị. Thường xuyên coi trọng xây dựng các tổ chức Đảng TSVM, đội ngũ quân nhân của đơn vị có kiến thức toàn diện, vững vàng về bản lĩnh chính trị, luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao. Việc chủ động nhận diện, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phản động và những thông tin xấu độc trên mạng xã hội là yêu cầu cần thiết, cấp bách và là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cán bộ, đảng viên trong đơn vị nói riêng và quân đội nói chung./.

LẬT TẨY NHỮNG CHIÊU TRÒ PHẢN ĐỘNG

Theo dõi các làn sóng truyền thông có tác động lớn đến đời sống chính trị xã hội của đất nước trong thời gian gần đây, chúng ta có thể thấy chủ thể tạo ra các làn sóng đó không thay đổi, vẫn là những kẻ do mâu thuẫn cá nhân không giải quyết được hoặc do thất thế trên bàn cờ chính trị dẫn đến trở cờ, phản bội; những kẻ một thời nắm giữ quyền lực đã bỏ chạy hoặc do giấc mơ ảo vọng bên trời Tây ra đi sau ngày 30/4 đến nay vẫn còn khát khao, mơ mộng phục hồi quyền lực đó; tất cả những cụm từ hoa mĩ như “cứu nước”, “yêu nước”, “yêu môi trường”… đi kèm với sự kích động, bạo loạn gây xáo trộn cuộc sống an lành của Nhân dân đều nằm trong âm mưu “bài Trung, phò Mỹ, lật sử, dựng cờ vàng, thay chế độ”.

Những kẻ này tạo ra các sự kiện truyền thông lớn lúc đầu có sức hút khá lớn, số lượng người dân tham gia đông như vụ bạo loạn ở tỉnh Bình Thuận (10/6/2018) và một số thành phố lớn nhưng về sau người dân dần nhận ra đằng sau các làn sóng truyền thông đó là lợi dụng sự cả tin của người dân để phục vụ mưu đồ chính trị của chúng còn cái bóng ma “Trung Quốc xâm lược”, “Trung Quốc nuốt chửng Việt Nam”, “sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc vào năm 2005, 2010, 2015, 2016, 2017, 2020 thực chất chỉ là ông kẹ làm cho người dân sợ hãi một bóng ma vô hình không có thật.

Chúng ta không thể phủ nhận việc Trung Quốc chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa (năm 1974) từ tay của ngụy quyền Sài Gòn và chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 từ tay những người cộng sản là hành vi không thể chấp nhận được của Trung Quốc, dân tộc Việt Nam không bao giờ được quên điều này. Nhưng bảo Trung Quốc sẽ sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc vào năm 2015, 2016,… 2020 theo Hiệp ước Thành Đô là hết sức phi lý. Khi bị hỏi Việt Nam chuẩn bị sáp nhập vào với Trung Quốc vậy Lãnh đạo Việt Nam tăng cường sắm vũ khí, tàu chiến để làm gì, chúng bảo: để quan chức trốn chạy ra nước ngoài; thật phi logich khi mà bán nước cho Trung Quốc rồi, Trung Quốc sẽ kéo qua bảo vệ những người bán nước cho chúng, thế thì chạy đi đâu làm gì?

Luật Nhân quyền quốc tế và Hiến pháp Việt Nam thừa nhận quyền biểu tình ôn hòa, chứ không thừa nhận hành vi bạo loạn thế nhưng đợt truyền thông 2/9 của các trang “Dân làm Báo”, “Đô Thành Sài Gòn”, “Việt Tân”, “Phong trào Dân trị”, “Beny Trương”, David Le, Tầm Nguyên Temple… chính thức kêu gọi người dân treo cờ vàng ba sọc đỏ của ngụy quyền Sài Gòn, “chặt cầu, chiếm công sở, đài truyền hình, quốc lộ”, “đốt đồn công an, trụ sở UBND”, chặt đầu quan tham, tấn công vào nhà cửa, vợ con các quan chức cộng sản”, kêu gọi “các giáo xứ” và “các tổ chức dân sự” hãy “bước từ nhà thờ xuống đường” để “tổng biểu tình” lật đổ chế độ cộng sản vào ngày 02/09, lợi dụng vấn đề Luật Đặc khu, sách công nghệ giáo dục để xúi giục người dân mau lật đổ chế độ để tránh họa Hán hóa trong khi người dân đã đạp đổ tường rào giành giật suất cho con mình vào học các trường có dạy theo sách công nghệ giáo dục gần 40 năm qua mà có bị “Trung Quốc cướp nước hay Hán hóa” gì đâu.

Bình tĩnh lại người dân thực sự hiểu rằng những người Công giáo như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Viết Dũng và Lê Đình Lượng bị kết án vì phạm tội hình sự, chứ không phải vì tôn giáo của họ; những kẻ đang ở bên kia bờ đại dương đang xúi dân ta vi phạm pháp luật và bị xử lý còn chúng ngồi làm ngư ông đắc lợi trong khi bao nhiêu năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã lãnh đạo người dân giành độc lập; với nghệ thuật ngoại giao của mình, Đảng và Nhà nước ta đã giữ vững môi trường hòa bình cho đất nước phát triển đã cùng đồng bào ta đi từ con số không, đổ nát, hoang tàn xây dựng lại đất nước khang trang như ngày hôm nay. Đi trên những cung đường cao tốc, đến những ngôi trường khang trang, vào các khu công nghiệp, các nhà máy rộn vang tiếng máy, ngắm những bãi xe hơi của các phụ huynh đưa con đến trường trong ngày khai giảng 5/9 vừa qua, mình chợt nghĩ thời gian qua bọn phản động đóng góp gì cho những công trình này, mà giờ này chúng có tư cách gì để quản lý những thành quả đó của Đảng, nhà nước và nhân dân xây dựng mà kêu gọi Nhân dân xuống đường lật đổ chế độ.

Đây đó từng địa phương, từng thời điểm nhất định vẫn còn hiện diện sự khó khăn, thiếu thốn (điều này trong nền kinh tế thị trường của quốc gia nào không có, xem phim Hàn Quốc, Ấn Độ có những cảnh xa hoa tráng lệ thì cũng có những phim về đời sống của người lao động rất khổ cực) có những vụ việc, những sự cố ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân hoặc trong một số cơ quan, địa phương có tình trạng cán bộ tham nhũng, hủ hóa nhưng đó không phải là bản chất của chế độ này. Đảng, nhà nước vẫn hằng ngày, hàng giờ dùng nhiều biện pháp để cắt bỏ những mụn, nhọt xấu xí đó trên cơ thể của mình.

Những ý kiến góp ý, xây dựng đúng mực, đúng nơi, đúng chỗ của Nhân dân phải được Đảng, Nhà nước tiếp thu, cầu thị, xử lý cán bộ vi phạm nhưng những hành vi vi phạm pháp luật, đề nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh để tạo ra sự công bằng. Chúng tôi, những người lo làm ăn, lao động sản xuất đóng góp xây dựng nước nhà không thể sống chung với những kẻ không lo làm ăn, suốt ngày lo kích động chống phá, phá hoại cuộc sống yên lành của chúng tôi và tương lai của con em chúng tôi. 90 triệu con tim chỉ một sắc cờ đỏ sao vàng./.

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH VỚI VIỆC LỢI DỤNG DÂN CHỦ ĐỂ CHỐNG PHÁ BẦU CỬ

Ngày 23-5-2021, cử tri cả nước sẽ bước vào Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đây là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Là ngày để cử tri phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân, lựa chọn bầu ra những người tiêu biểu, đủ đức, đủ tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của chính mình trong cơ quan quyền lực Nhà nước từ Trung ương đến địa phương.

Tuy nhiên, trái ngược với khí thế, kỳ vọng, niềm tin, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước ngày hội lớn của toàn dân tộc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại ra sức tìm mọi cách để xuyên tạc, chống phá. Một trong những nội dung chúng tập trung công kích là tính dân chủ trong bầu cử. Chúng cho rằng, cuộc bầu cử của chúng ta chỉ là hình thức; kết quả bầu cử đã được sắp đặt trước, nên nhân dân không nên đi bầu cử cho phí thời gian. Đây là hành động không mới, nhưng chúng ta cũng cần nêu cao cảnh giác, đấu tranh.

Ngay từ khi động viên toàn thể nhân dân tích cực tham gia bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa của việc bầu cử: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết. Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”.

Thấm nhuần tư tưởng có tính nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra ngày 06-1-1946 đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân trong bầu cử.

Trong đó, quyền bầu cử, ứng cử được coi là quyền quan trọng của công dân được Hiến pháp quy định. Gần đây nhất, Điều 27 của Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND”. Ngoài các quy định về độ tuổi là cần thiết bảo đảm độ chín chắn trong sự lựa chọn của cử tri, pháp luật nước ta không quy định điều kiện nào khác.

Cụ thể hơn, tại Khoản 1 Điều 7 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân, toàn diện, công khai và dân chủ rộng rãi của bầu cử. Bầu cử là công việc của mọi công dân, là sự kiện chính trị trọng đại của xã hội, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm để mọi công dân có khả năng như nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt, nhằm bảo đảm sự khách quan trong bầu cử, không thiên vị.

Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, Nhà nước có các biện pháp bảo đảm để đồng bào dân tộc thiểu số và phụ nữ chiếm tỷ lệ thích đáng trong bộ máy của mình. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp bảo đảm để cử tri trực tiếp lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước bằng lá phiếu của mình, không qua khâu trung gian. Đây là nguyên tắc cần thiết, bảo đảm tính khách quan của bầu cử. Nguyên tắc bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn, để sự lựa chọn đó không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài.

Các nguyên tắc bầu cử nêu trên thống nhất với nhau, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn những người có đủ đức, đủ tài, đủ uy tín và trách nhiệm đại diện cho quyền, nguyện vọng chính đáng của mình trong các cơ quan Nhà nước.

Để chuẩn bị cho ngày hội lớn diễn ra vào tháng 5 tới, ngay từ giữa năm trước (ngày 20-6-2020), Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; yêu cầu cả hệ thống chính trị tập trung dốc sức chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử, bảo đảm cuộc bầu cử được tiến hành một cách thật sự dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm.

Trong Chỉ thị cũng nhấn mạnh, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức ra nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước; góp phần thiết lập ra bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội và mang lại ấm no, hạnh phúc cho chính người dân.

Để đấu tranh trước những luận điệu, xuyên tạc về tính dân chủ trong bầu cử, trước tiên, cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc bầu cử.

Trong đó, tập trung tuyên truyền về các quy định của Luật Bầu cử ĐBQH và HĐND; Chỉ thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong bầu cử.

Từ đó, động viên cử tri tự giác, tích cực và chủ động tham gia bầu cử, gắn với việc nắm bắt tư tưởng chính trị, tâm tư nguyện vọng của mọi cử tri; đề ra các giải pháp kịp thời đối với những vấn đề nhạy cảm, những vấn đề có thể phát sinh; tuyên truyền bảo đảm tỷ lệ cử tri đi bầu cao nhất.

Trước, trong và sau khi cuộc bầu cử diễn ra, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang cần phải nâng cao cảnh giác SSCĐ; phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi đơn vị đóng quân, kịp thời đấu tranh với những cá nhân, tổ chức lợi dụng dân chủ để dẫn dắt dư luận xã hội, phá hoại cuộc bầu cử. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải làm hạt nhân trong cung cấp, định hướng thông tin giúp nhau nhận diện rõ bản chất sai trái, bịa đặt về tính dân chủ trong bầu cử, từ đó, cảnh giác với các luồng thông tin xấu, độc liên quan đến cuộc bầu cử do các thế lực thù địch, phản động tung ra.

Để làm được điều đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần có cơ chế thông tin phù hợp, hiệu quả để kịp thời cung cấp các thông tin thường xuyên, liên tục về công tác chuẩn bị và quá trình bầu cử, qua đó giúp nhân dân có điều kiện tiếp cận các thông tin chính thống; hạn chế ảnh hưởng của những thông tin sai trái, xấu độc, đồng thời chủ động đấu tranh kiên quyết với các luận điệu chống phá, phá hoại bầu cử trên không gian mạng; nhất là việc lợi dụng dân chủ để dẫn dắt dư luận xã hội, phá hoại cuộc bầu cử.

Điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cần nâng cao khả năng “tự đề kháng”, tự bảo vệ chính mình trước các thông tin, xấu độc, xuyên tạc tính dân chủ trong bầu cử. Từ đó, có thái độ, trách nhiệm đấu tranh không khoan nhượng với kẻ xấu cả trước, trong và sau thời điểm diễn ra cuộc bầu cử./. 

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC

Thành phần kinh tế nhà nước có sức mạnh kinh tế các nguồn lực vật chất của nhà nước, từ doanh nghiệp nhà nước; sức mạnh kinh tế đứng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, sức mạnh từ sự cộng hưởng giữa hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Với sức mạnh to lớn đó, kinh tế nhà nước có khả năng tạo ra các điều kiện vật chất, làm đầu tàu kéo các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy nền kinh tế vận hành và phát triển. Kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế; là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước còn đảm nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, những lĩnh vực mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao mà các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân không có khả năng.

Ngoài ra, do bản chất về mặt sở hữu nên kinh tế nhà nước gánh vác chức năng và vai trò xã hội to lớn. Điều này thể hiện ở chỗ, các doanh nghiệp nhà nước đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu. Đi đầu trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng, phát triển nhanh với phát triển bền vững là thước đo để đánh giá sự “chủ đạo”, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác của kinh tế nhà nước.

Tuy nhiên, kinh tế nhà nước vẫn còn những hạn chế, yếu kém nhất định như: Hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng suất của một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước còn thấp; sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, thất thoát và thua lỗ còn lớn; tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, độc quyền doanh nghiệp đang hiện hữu... Những yếu kém trên diễn ra trong trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh bắt nguồn từ những sai lầm, yếu kém của một số cá nhân lãnh đạo và nhà quản trị doanh nghiệp,... chứ không phải là sai lầm về quan điểm, chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vậy nên, một số luận điệu cho rằng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam không nên để thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo mà hãy để kinh tế tư nhân dẫn dắt, định hướng, kiểu như ở các nước tư bản là hoàn toàn sai trái. Đây là  mưu đồ của các thế lực thù địch, sâu xa họ muốn phá hoại thành quả cách mạng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU CỔ SÚY CHO VIỆC THỰC HIỆN SỞ HỮU TƯ NHÂN HOẶC ĐA ĐẠNG HÓA HÌNH THỨC SỞ HỮU ĐẤT ĐAI

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia vô cùng quý giá, tư liệu sản xuất đặc biệt, nguồn lực quan trọng của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhưng, có những luận điệu cho rằng, quan điểm về sở hữu đất đai như trên là thiếu thuyết phục, áp đặt, khiên cưỡng nên cần thực hiện sở hữu tư nhân hoặc đa sở hữu về đất đai.

Tư hữu hóa hoặc đa dạng hóa hình thức sở hữu đất đai sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Cần nhận thức rõ rằng: Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đòi hỏi phải chuyển một lượng diện tích đất nông nghiệp vào mục đích phi nông nghiệp, nếu thực hiện tư hữu hoặc đa dạng hóa hình thức sở hữu đất đai sẽ là rào cản thực sự cho quá trình này; việc thực hiện sở hữu tư nhân dẫn đến quá trình tích tụ, tập trung đất đai vào tay một số ít người, đi ngược lại với lợi ích mà chế độ ta đang xây dựng, ngược lại với nguyện vọng của quần chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng. Nếu thực hiện chế độ sở hữu tư nhân đất đai, dù Nhà nước có thể giữ lại quyền quy hoạch mục đích sử dụng từng thửa đất và ràng buộc “chủ sở hữu đất” thực hiện một số quy định vì môi trường sống chung, nhưng không ai có thể ngăn cản người chủ đất sử dụng đất theo ý họ, khi đất là tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến đất đai có xu hướng được sử dụng không hiệu quả, không vì mục đích sinh tồn của toàn dân. Mặt khác, thực hiện đa sở hữu hóa đất đai, về cơ bản giống các nước tư bản, khi đó đất đai sẽ nằm trong tay các chủ sở hữu khác nhau, đối xử thuần túy trên quan điểm lợi ích, trao đổi theo giá thị trường. Và khi đó, những hệ lụy về “địa tô” là bài học đã tồn tại hàng trăm năm ở chế độ tư bản cũng như tình cảnh người nông dân bị địa chủ bóc lột hà khắc trong chế độ phong kiến lại có cơ hội tái sinh dưới những hình thức khác nhau.

Những yếu kém, mâu thuẫn, bức xúc nảy sinh từ đất đai hiện nay không xuất phát từ vấn đề sở hữu toàn dân, mà xuất phát từ thực trạng tổ chức thực hiện, sử dụng và quản lý đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý là tất yếu, một mặt, phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta xây dựng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của Nhà nước; mặt khác, tạo ra những điều kiện thuận lợi để Nhà nước có quyền được sử dụng như một công cụ kiến tạo chính sách, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng công cộng đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong công cuộc đổi mới, do tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, những tiêu cực nảy sinh, phát triển trong đời sống xã hội và trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tháng 1-1994, Đảng xác định tham nhũng, lãng phí là một trong bốn nguy cơ lớn. Ngày 26-6-1992, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết nêu rõ: “Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, gương mẫu trong lao động, cần kiệm xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh; giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của dân tộc”

Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức càng trở nên bức thiết khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 1-2012) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) đã thẳng thắn đánh giá. Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”, “Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đã có được những kết quả rất quan trọng, góp phần củng cố và nâng cao niềm tin trong Đảng và nhân dân. Đảng đã đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng gắn liền với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Kinh nghiệm cho thấy, việc nâng cao đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng về đạo đức phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường giáo dục của Đảng; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương với việc ra sức tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, nêu cao trách nhiệm nêu gương, trong đó có nêu gương về đạo đức, lối sống.