Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

SỨC SỐNG MỚI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN CÀNG NHẬN THỨC RÕ HƠN VỀ BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

          Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa không chỉ kiên định trụ vững, mà còn từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức, tiếp tục thực hiện cải cách, đổi mới thắng lợi về mọi mặt và nâng cao vị thế quốc tế của mình. Con đường cải cách và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa đã đóng góp nhiều thành tựu về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa đã, đang và sẽ là những chủ thể quốc tế quan trọng trong quá trình thúc đẩy sự hình thành trật tự thế giới mới sau “chiến tranh lạnh”.
Thành tựu cải cách và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua đã chứng tỏ sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội là rất mãnh liệt. Sự khai phá, tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước có một giá trị nhân đạo cao cả, đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn giúp các Đảng Cộng sản vững niềm tin trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội thảo quốc tế "Phát triển và sáng tạo: chủ nghĩa xã hội thế giới đầu thế kỷ XXI" được tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc, tháng 10-2004), học giả nhiều nước đánh giá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường mà các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đã làm cho các Đảng Cộng sản - công nhân và cả thế giới phải chú ý. Tỷ trọng các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay trong nền chính trị và kinh tế quốc tế đã vượt xa thời kỳ Liên Xô đầu thế kỷ XX.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản càng trở nên sâu sắc hơn. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên gay gắt. Toàn cầu hóa hiện nay không "san lấp" mà còn "đào sâu thêm hố ngăn cách" giàu nghèo. Toàn cầu hóa đang làm nảy sinh những vấn đề toàn cầu cấp bách, môi trường sống của con người đang bị phá hủy nghiêm trọng. Do đó, trong mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước tư bản phát triển đã và đang xuất hiện nhiều phong trào xã hội hoài nghi về sự “trường cửu” của chế độ tư bản và đấu tranh nhằm khắc phục chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới bền vững.
Toàn cầu hóa hiện đang dẫn đến tình trạng cường quyền, hiếu chiến ngày càng tăng của chủ nghĩa đế quốc. Lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố sau “sự kiện 11-9-2001”, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh quy mô lớn ở Áp-ga-ni-xtan (2001) và I-rắc (2003). Năm 1999, Mỹ tiến hành can thiệp quân sự ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà Mỹ cho là ở đó có biểu hiện “vi phạm” dân chủ, nhân quyền. Cuối năm 2002 - Mỹ lại thông qua học thuyết “đánh đòn phủ đầu” đối với những lực lượng, những quốc gia mà Mỹ coi là mối đe dọa đến lợi ích chiến lược của Mỹ. Hiện nay, Mỹ "bật đèn xanh”, dung túng cho I-xra-en đàn áp phong trào giải phóng dân tộc của người Pa-le-xtin, gây chiến tranh với Li-băng, đe dọa Xy-ri và I-ran... làm cho tình hình Trung Đông càng thêm căng thẳng...

Những biểu hiện trên càng làm cho nhân loại tiến bộ và trước hết là những người cộng sản nhận rõ hơn bản chất thực của chủ nghĩa tư bản. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, các trào lưu đấu tranh nhằm khắc phục chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới, nhân văn, nhân đạo hơn đã xuất hiện ở nhiều nước. Hướng tới thời đại mới, xã hội mới sau tư bản chủ nghĩa, theo nhận định của các học giả tham dự hội thảo nói trên, là tiếng nói chung của các khu vực rộng lớn ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh. Các trào lưu nhân văn, khắc phục chủ nghĩa tư bản sẽ liên kết với nhau tạo thành những biến động quyết liệt trong thế kỷ XXI. Điều này là cơ sở thúc đẩy sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại tiến bộ trên thế giới nói chung và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói riêng.

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

SỰ KHAI PHÁ CON ĐƯỜNG LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN

        Trong ba thập kỷ qua, nhất là từ những năm đầu thế kỷ XXI đến nay, công cuộc cải cách, đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đặc biệt là về kinh tế, chính trị. Do đó, vai trò và ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên thế giới cũng được củng cố nhất định. Các nước xã hội chủ nghĩa do nâng cao được vị thế quốc tế nên ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng của quan hệ quốc tế hiện đại, chủ động đổi mới chính sách đối nội đúng đắn, phù hợp và chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập với khu vực và thế giới.
          Đánh giá tình hình kinh tế của 5 nước xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên), Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: tỷ trọng GDP của các nước này từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay đã tăng hơn 3 lần, từ mức 1,7% lên 5,1% và có chiều hướng tiếp tục tăng lên.
             Mặt khác, các Đảng Cộng sản cầm quyền đã chủ động tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu và những kinh nghiệm của chính bản thân mình; tích cực nghiên cứu, tìm tòi về lý luận, thực tiễn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và những biến đổi của thế giới đương đại. Điều này được thể hiện nổi bật nhất trong việc sử dụng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc xác định mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; Việt Nam - nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Lào - nền sản xuất hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội; Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên từ năm 2002 cũng bắt đầu cải cách theo hướng kinh tế thị trường, lựa chọn bước đột phá vào lĩnh vực giá, tiền và phân phối. Năm 2003, nước này thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2003 - 2008), chủ trương khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ bao cấp, sửa đổi luật đầu tư để thu hút vốn nước ngoài, phát triển một số khu công nghiệp và đặc khu kinh tế...; Cu Ba tiến hành các bước mở cửa hội nhập quốc tế thu hút đầu tư nước ngoài, cải thiện từng bước quan hệ với Mỹ, Cu Ba và Mỹ đã mở cơ quan ngoại giao (Đại sứ quan) của mình ở mỗi nước. Đây được đánh giá là thành công lớn trong từng bước bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và là thành công lớn trong chính sách đối ngoại của Cu Ba. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Cu Ba đã từng bước phá thế bao vây cấm vận của Mỹ và các nước tư bản khác, đồng thời tạo đà cho phát triển mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, trong đó nổi bật là kinh tế.
            Nhiều Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc và Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nhật Bản thông qua tại Đại hội XXIII (năm 2004) khẳng định: Quá trình tìm tòi tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường của Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI; tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường là hướng đi có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội. Hội thảo quốc tế "Triển vọng của chủ nghĩa xã hội" của 39 Đảng Cộng sản và công nhân được tổ chức tại Pra-ha (Cộng hòa Séc) năm 2005 cũng đánh giá cao sự phát triển nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội và việc gắn những ưu việt của chính quyền nhân dân với những thành tựu mới nhất của khoa học - kỹ thuật, với sự tham gia tích cực vào thị trường quốc tế của Trung Quốc và Việt Nam, coi đây là sự bổ sung, phát triển lý luận độc đáo sáng tạo về chủ nghĩa xã hội.
           Những thành tựu cải cách, đổi mới, mở cửa hội nhập của các nước xã hội chủ nghĩa là một thực tế sinh động minh chứng cho sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên của chủ nghĩa xã hội. Các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế coi đây là thành tựu, là nguồn cổ vũ lớn lao, giúp họ củng cố niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Sự tìm tòi, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các Đảng Cộng sản cầm quyền đã có đóng góp quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong việc phát triển chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình phục hồi của phong trào cộng sản quốc tế, góp phần thiết thực vào việc tìm kiếm những phương thức hoạt động hiệu quả của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2016

Xây dựng bản lĩnh thanh niên, sinh viên thời kỳ mới

           “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không là tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam”. Vấn đề thanh niên, sinh viên hiện nay là vấn đề mang tính chiến lược vừa cơ bản, vừa cấp thiết trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 
           Thanh niên, sinh viên là lực lượng trụ cột, đóng vai trò “cốt lõi” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mọi thời kỳ. Xây dựng bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên là một công việc cốt lõi trong hình thành phát triển nhân cách con người mới, đáp ứng với điều kiện mới. Nó đòi hỏi vai trò của các thành viên trong cộng đồng xã hội tham gia đóng góp vào công tác giáo dục đào tạo, vai trò học tập, lao động, rèn luyện của chính thanh niên, sinh viên; điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình giáo dục và hoạt động; môi trường xã hội tích cực và sự định hướng trong chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này. Đặc biệt, đây là vấn đề mang tính cấp bách hiện nay cần phải được quan tâm và coi trọng. Theo đó, Đảng và chính quyền, đoàn thể, Đoàn Thanh niên và nhà trường phải được tiến hành các biện pháp đồng bộ những giải pháp cần thiết, nhằm xác lập được bản lĩnh chính trị và bản lĩnh khoa học, chuẩn bị hành trang cần thiết để tuổi trẻ đi vào thế kỷ mới thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể, thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:
              Thứ nhất, tăng cường chất lượng hiệu quả giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
             Đây là biện pháp cơ bản mang tính lâu dài, theo đó việc giáo dục nội dung này cần phải hướng vào sự rèn luyện năng lực tư duy khoa học, thế giới quan Mác-xít, nhân sinh quan, đạo đức cách mạng và phương pháp luận. Điều đó, một mặt giúp thanh niên, sinh viên có đủ kiến thức, niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới nền kinh tế trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo cho họ có đủ sức “đề kháng” trước những diễn biến phức tạp của tình hình, trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, khích lệ ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Ngoài ra, trong giáo dục nội dung này cần phải có những cách làm hay, sáng tạo và hấp dẫn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia nhằm tạo hiệu quả thiết thực.
            Thứ hai, tích cực đưa thanh niên, sinh viên tham gia vào các hoạt động thực tế chính trị-xã hội, hoạt động tham quan, thực tập
          Bản lĩnh của con người nói chung và bản lĩnh của thanh niên, sinh viên nói riêng có nhiều con đường để hình thành, phát triển và không ngừng hoàn thiện; song cách hình thành nhanh và bền vững nhất chính là thông qua các hoạt động thực tiễn, trực tiếp tham gia vào các hoạt động cải tạo thực tiễn. Để thực hiện tốt điều này, Đoàn cần phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể trong xã hội tạo ra các hoạt động phong phú, thích hợp và thiết thực nhằm rèn luyện thanh niên, sinh viên giúp họ có điều kiện nhận thức sâu sắc thực tiễn, có tình cảm phong phú. Đồng thời, tổ chức ra các hoạt động thực tiễn gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội và quần chúng nhân dân, thông qua đó từng bước rèn luyện bản lĩnh chính trị và khoa học cho thanh niên, sinh viên. Điểm cốt lõi để thực hiện thành công nội dung này, đó là Đoàn cần phải tạo ra được một phong trào cách mạng sâu rộng trong thanh niên, sinh viên, kiên quyết đấu tranh, phê phán chống lại những tệ nạn xã hội, hành vi tiêu cực trong học tập, trong lối sống, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.
          Thứ ba, xây dựng môi trường sống thật sự nhân văn và giữ vững kỷ cương pháp luật trong xã hội góp phần giáo dục rèn luyện bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên.
         Xây dựng môi trường xã hội, môi trường giáo dục và văn hóa phải thông qua các hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ, các phong trào dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của thanh niên, sinh viên. Thông qua các hoạt động thiết thực, bổ ích như “Câu lạc bộ thanh niên tình nguyện”, “câu lạc bộ nghiên cứu khoa học”,… sẽ có sức hấp dẫn lớn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia, qua đây nhằm xã hội hóa giáo dục, cá thể hóa bản lĩnh nhân cách thanh niên, sinh viên. Đồng thời, phải tích cực đẩy lùi và kiên quyết ngăn chặn những tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội không cho chúng xâm nhập vào thanh niên, sinh viên.
         Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động giao lực và hội nhập quốc tế trong thanh niên, sinh viên.
         Thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học trong tầng lớp thanh niên, sinh viên, bởi đây là những hoạt động mang tính nền tảng trong hình thành nhân cách và xác lập bản lĩnh. Bên cạnh đó, Đoàn cần chú trọng đúng mức tới chuyển giao công nghệ, hoạt động sáng tạo, hoạt động chính trị, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng này giúp cho thanh niên, sinh viên có điều kiện biến những tri thức đã học thành vốn sống cần thiết, vận dụng trong nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đặc biệt, sẽ giúp thanh niên, sinh viên phát huy khả năng độc lập, sáng tạo và năng lực hoạt động khoa học công nghệ, hoạt động chính trị-xã hội. Điều này vừa tạo điều kiện cho thanh niên, sinh viên tự khẳng định mình trước những diễn biến sôi động của những thay đổi tình hình chính trị, kinh tế đất nước, những thay đổi thang bậc giá trị, đồng thời vừa tự định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, những hành trang cần thiết để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Vai trò của Đoàn trong nâng cao ý thức phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mạng Internet cho thanh niên hiện nay

          Khoa học công nghệ thông tin ngày nay đang phát triển với tốc độ “chóng mặt”, nó thực sự đã làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có tác động lớn tới nhận thức và hành động của thế hệ trẻ. Các thế lực thù địch đã nắm bắt, lợi dụng những mặt trái của công nghệ thông tin, cụ thể là Internet để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều biểu hiện mới tinh vi, xảo quyệt. Đối tượng mà các thế lực thù địch “ưu tiên” tập trung chống phá, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mạng Internet không phải ai khác chính là thế hệ trẻ. Điều này trực tiếp đặt ra nhiệm vụ cho Đoàn trong công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; nâng cao năng lực, kỹ năng sử dụng mạng Internet an toàn; đặc biệt phải xây dựng cho được ý thức phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mạng Internet cho thanh niên trước sự tinh vi, xảo quyệt trong âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta.
         Thế hệ trẻ nước ta hiện nay phần lớn đều đã và đang tiếp cận với mạng Internet với nhiều hình thức khác nhau, nghĩa là họ đang trong “tầm ngắm” của các thế lực thù địch trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mạng Internet. Nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không được trang bị những kỹ năng cơ bản và có khối lượng kiến thức cần thiết,… thì không ít bạn trẻ đều có thể trở thành “nạn nhân” của những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch. Biết rằng, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhu cầu sử dụng mạng Internet để học tập, giao lưu là khách quan, một xu thế tất yếu để hội nhập và phát triển. 
          Để tgiúp thế hệ trẻ vững vàng trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thời gian tới Đoàn cần tập trung “xung kích” làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
         Thứ nhất, Đoàn cần tăng cường giáo dục, phổ biến cho thế hệ trẻ hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về cách thức, hoạt động và nội dung chống phá của các thế lực thù địch trên mạng Internet. Đoàn cần tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ nắm được rằng, về cách thức, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch chủ yếu được thực hiện qua các trang thông tin điện tử như: “Website của một số cơ quan thông tin chính thức nước ngoài (đài phát thanh RFA, BBC,…); Website của một số nhóm người Việt phản động ở nước ngoài. Những website công khai này thường xuyên tiếp nhận những thông tin đó, rồi phát tán rộng khắp trên mạng Internet”.
          Về nội dung chống phá, Đoàn tập trung tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ nắm rõ: các thế lực thù địch thường tung ra các quan điểm sai trái nhằm phê phán, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, vu cáo nhằm “hạ bệ thần tượng” đối với lãnh tụ của Đảng, của dân tộc; phủ nhận những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cường điều hóa những yếu kém, khuyết điểm của nền kinh tế-xã hội; vu cáo nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo,…
             Thứ hai, Đoàn kết hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông trong cả nước tích cực định hướng dư luận đúng đắn cho thế hệ trẻ.
           Đoàn cần có kế hoạch cụ thể phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh- nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam và tính đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đồng thời, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
            Thứ ba, Đoàn có kế hoạch tổ chức lực lượng, phát huy trí tuệ của thế hệ trẻ đấu tranh “phản bác” các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng Internet.
           Muốn vậy, Đoàn cần phải lên kế hoạch cụ thể, sát thực tế và tổ chức chặt chẽ vấn đề này. Lực lượng bao gồm những thanh, thiếu niên có trình độ hiểu biết nhất định, có kiến thức, kỹ năng toàn diện trên các lĩnh vực, nhất là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng... Nhiệm vụ chính của bộ phận này là theo dõi các quan điểm sai trái, thù địch thông qua mạng Internet, sau đó tập hợp kết quả về một mối để thống nhất trong chỉ đạo phân tích và xử lý. Đồng thời, lực lượng này phải có năng lực sẵn sàng “đánh trả” lại những luận điệu xuyên tạc, béo méo của các thế lực thù địch một cách kịp thời, hiệu quả. Đoàn bên cạnh việc xây dựng ý thức phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” cho thanh, thiếu niên còn phải tạo sức “đề kháng” cho thế hệ trẻ để họ có thể “chống đỡ” được các tác động xấu từ những thông tin, quan điểm sai trái.
            Thứ tư, Đoàn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý Internet và các trang mạng xã hội hạn chế thấp nhất tác động xấu tới thế hệ trẻ.
           Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với nước ta hiện nay, nếu nhìn sang một số nước như: Hàn Quốc, Singapho,… Họ quản lý rất chặt chẽ hệ thống mạng, giới trẻ muốn truy cập cũng khó khăn. Tuy nhiên, đối với nước ta công tác quản lý mạng Internet vẫn còn nhiều kẽ hở. Hiện nay, nhu cầu khai thác thông tin trên Internet ngày càng nhiều, nội dung rất phong phú, đa dạng và nhiều chiều. Hơn thế nữa, các phương tiện tiếp nhận thông tin cũng ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, tinh vi khó kiểm soát. Chính vì vậy, Đoàn cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng bằng cách kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ những thông tin sai trái xuất phát từ đâu, cần thiết dùng các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn kịp thời, hiệu quả. Đối với các nguồn tin do các thế lực phản động trong nước đăng tải, tuyên truyền cần có chế tài đủ mạnh để xử lý nhằm ngăn chặn triệt để. Về nội dung này, Đảng ta cũng nhấn mạnh: “Phát triển và mở rộng việc sử dụng Internet, đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng Internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh”.




Thế hệ trẻ ngày nay cần nâng cao cảnh giác với chiến lược “diễn biến hòa bình”

Diễn biến hoà bình (DBHB) là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa và các nước có xu hướng chống đế quốc. Đặc trưng của chiến lược DBHB là chủ yếu dùng các biện pháp phi vũ trang, kết hợp với bạo loạn lật đổ, răn đe quân sự và chiến tranh can thiệp. Từ thập kỷ 80 (thế kỷ XX), DBHB đã trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và được thực hiện có kết quả, góp phần quan trọng làm sụp đổ, tan rã Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Đối với Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc chịu thất bại trong chiến tranh xâm lược, nhưng chưa từ bỏ ý định trở lại xác lập vai trò thống trị. Thông qua quan hệ kinh tế, văn hoá, ngoại giao, lợi dụng chiêu bài "nhân quyền","dân chủ", ép ta chấp nhận một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, một nền chính trị "đa nguyên, đa đảng đối lập". Đồng thời, tập trung thực hiện chuyển hóa, đổi màu thế hệ trẻ, biến họ thành những người theo cộng sản nhưng "đỏ vỏ xanh lòng", để nếu bây giờ không dùng "cộng sản lật đổ cộng sản" được, thì sau này thực hiện kế hoạch "cộng sản con lật đổ cộng sản cha".
Từ đầu năm 2001, các thế lực thù địch dấy lên chiến dịch vu cáo Việt Nam về nhân quyền, lấy nhân quyền làm vỏ bọc để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, đòi dân chủ, đòi tự do ngôn luận, tự do lập hội (cho bọn chống đối lập các tổ chức chính trị phản động)... Các tổ chức phản động người Việt lưu vong tích cực tập hợp lực lượng, củng cố tổ chức, tăng cường tác động về nước, đặc biệt chú ý đến tầng lớp thanh niên. Chúng đã triển khai hai chiến dịch "thức tỉnh và hướng dẫn thanh niên" trong cuộc "đấu tranh đòi tự do dân chủ". Đặc biệt, chúng tận dụng khai thác các phương tiện truyền thông với khoảng 50 đài phát thanh, khoảng 600 tờ báo và tạp chí, trên 50 nhà xuất bản, mạng Internet... để hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, kích động, lôi kéo, chia rẽ Đảng, quân đội, công an và nhân dân ta, tuyên truyền quan điểm tư tưởng phản động phương Tây và các luận điệu phản động của bọn chống đối trong nước... Để tác động trực tiếp vào thanh thiếu niên, nhất là những người ít chịu học tập, rèn luyện, chúng đẩy mạnh du nhập văn hóa phẩm độc hại, phản động, đồi truỵ, kích thích lối sống bản năng thấp hèn nhằm làm sa đoạ đạo đức, lối sống thế hệ trẻ.
Các thế hệ thanh niên Việt Nam dưới sự tổ chức, giáo dục, lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, trong các thời kỳ cách mạng đều là lực lượng xung kích thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Từ tổ chức cách mạng cộng sản đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc thành lập năm 1925 là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, các bậc tiền bối cách mạng, các đảng viên cộng sản đầu tiên, kể cả các đồng chí lãnh đạo Đảng, phần lớn đều ở độ tuổi thanh niên. Nhiệm vụ xây dựng đất nước, Bác Hồ coi thanh niên là "đạo quân xung phong tất thắng trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Lịch sử của thế hệ trẻ nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, là lịch sử của một thế hệ "tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên" mà ý nghĩa của huy hiệu Đoàn là thanh niên luôn xung phong gương mẫu mọi nhiệm vụ cách mạng, trong học hỏi cầu tiến bộ, trong tu dưỡng đạo đức cách mạng. Nắm bắt quy luật tự nhiên và xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đặt thế hệ trẻ vào vị trí trung tâm của nước nhà. Người đã từng khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên". Thế hệ trẻ đã có những cống hiến xứng đáng trong quá trình cách mạng. Hiện nay họ cũng là lớp người được hưởng những thành quả cách mạng do các thế hệ cha anh mang lại, được chăm lo, bồi dưỡng toàn diện, có khả năng và điều kiện tiếp tục phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phòng, chống DBHB có hiệu quả, giữ vững và phát huy được vai trò xung kích của thế hệ trẻ, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định phải: chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về phía thế hệ trẻ, phải ý thức đầy đủ trách nhiệm của mình, tiếp thu sự giáo dục, lãnh đạo của Đảng, chủ động, tích cực phòng, chống mọi âm mưu, thủ đoạn DBHB của kẻ thù, giữ vững và phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, thế hệ trẻ ngày nay phải xác lập cho mình một bản lĩnh vững vàng, ý chí kiên cường để có thể thích nghi và chống chọi thành công với những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, để lập nghiệp thành công và cống hiến được nhiều hơn cho đất nước. Việc ra sức học tập, rèn luyện để trưởng thành về mọi mặt, cả kiến thức, năng lực lẫn phẩm chất, đạo đức lối sống, kỹ năng,… chính là những hành động thiết thực để thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay chuẩn bị hành trang tự tin hội nhập thành công. Là lực lượng trụ cột của đất nước, hơn nữa kẻ thù cũng đang tập trung chống phá vào thế hệ trẻ nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, mất niềm tin vào chế độ, vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Do đó, hơn bao giờ hết thế hệ trẻ cần phải thật sự tỉnh táo và hết sức cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay cần phải có được những hiểu biết đúng đắn và sâu sắc về những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, những nội dung mới, cách thức, biểu hiện mới để có cách phòng ngừa và đấu tranh phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, tổ chức đoàn các cấp cần xung kích vào nội dung này, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, nâng cao ý thức phòng, chống cho thanh niên với những âm mưu, thủ đoạn xấu của kẻ thù. Đặc biệt, việc thường xuyên tổ chức cho thanh niên tham gia vào các hoạt động đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các lực lượng thù địch thông qua các bài viết, các trang mạng xã hội (viber, facebook,…) sẽ mang lại hiệu quả thiết thực. Bởi thông qua các hoạt động này, sẽ lôi cuốn được đông đảo thanh niên tham gia, là những người trong cuộc họ sẽ có điều kiện nêu cao tinh thần cảnh giác, hiểu biết, tập trung trí tuệ tập thể đấu tranh. Đây cũng là phương cách hữu hiệu nhất để giúp thế hệ trẻ có khả năng “miễn dịch” với những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Sự khác nhau giữa những “quan điểm sai trái, thù địch” với những ý kiến khác với quan điểm, đường lối của Đảng.

Sự khác nhau giữa những “quan điểm sai trái, thù địch” với những ý kiến khác với quan điểm, đường lối của Đảng.
Thứ nhất, về động cơ, mục đích.
Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra những quan điểm sai trái, thù địch một cách công khai, thẳng thắn nhằm đả kích vào Đảng, phủ nhận vai ừò lãnh đạo của Đảng, đả kích vào chế độ XHCN, phủ nhận con đường XHCN, nhằm lái đất nước đi vào con đường TBCN. Còn có những ý kiến của cán bộ, đảng viên khác, thậm chí có khi trái với một số chủ trương của Đảng trong một thời điểm nào đó nói chung là vì mục đích xây dựng, muốn đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước để làm tốt hơn, lãnh đạo và quản lý đất nước hiệu quả hơn. Thậm chí trước những tiêu cực xã hội, những yếu kém ừong lãnh đạo, quản lý, có thể có những ý kiến của cán bộ, đảng viên tâm huyết quá bức xúc, phê phán mạnh mẽ, gay gắt cũng là vì mục đích, động cơ xây dựng. 
Thứ hai, về nội dung các quan điểm.
Các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận, bác bỏ thẳng thừng những nội dung cốt lõi, then chốt trong đường lối chính trị, quan điểm cơ bản của Đảng. Cụ thể là:
-      Bác bỏ những nguyên lý cơ bản hoặc toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm này bằng nhiều cách xuyên tạc, phủ nhận, nói xấu, bôi đen nền tảng tư tưởng của Đảng và những người sáng lập ra nền tảng tư tưởng đó.
-      Bác bỏ lý tưởng XHCN, con đường đi lên CNXH, ca ngợi, cồ súy cho CNTB, bôi đen CNXH, xuyên tạc CNXH cả trên lý luận lẫn thực tiễn.
Phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quy mọi sai lầm, khuyết điểm về cho Đảng Cộng sản.
-                              Muốn lật đổ chế độ XHCN, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Gần đây họ đưa ra cái gọi là “Diễn đàn xã hội dân sự”, họ tung lên mạng Internet, mạng xã hội đủ loại ý kiến mà mục đích cuối cùng là “chuyển đổi thể chế chính trị Việt Nam”.v.v.. 
           Thứ ba, về phương pháp, cách thức.
Những người có quan điểm sai trái, thù địch không từ một thủ đoạn nào dù là xấu xa, bẩn thỉu nhất để chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chống chế độ XHCN, chống nhân dân. Họ sẵn sàng bịa đặt, nói xấu một cách vô liêm sỉ, đổi trắng thay đen, suy diễn một cách vô căn cứ, đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số cán bộ đảng viên tham nhũng, thoái hóa biến chất, phủ nhận công lao của Đảng, phủ nhận lịch sử, cực đoan, phiến diện, siêu hình., quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm về cho Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy hiện tượng thay cho bản chất V.V..về hình thức diễn đạt, các quan điểm sai trái, thù địch còn dùng những ngôn từ xấu xa, tệ hại, vũ đoán, nói lấy được, thậm chí còn chửi bới bậy bạ, vô văn hóa. 
Thứ tư, về nhân thân.
Những người tung ra các quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu là các thế lực thù địch bên ngoài, các đảng phái chính trị phản động như Đảng Việt Tân ở hải ngoại, các phần tử cơ hội, chính trị trong và ngoài nước, có những người đã từng vi phạm pháp luật Việt Nam, lòng đầy hận thù với chế độ. Trong số này, có cả một số người trước kia là cán bộ, đảng viên song bây giờ họ đã chuyển sang “trận tuyến bên kia”, họ đã sám hối, trở cờ, trở thành thế lực thù địch. Còn những cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với đường lối của Đảng có thể do trình độ nhận thức hạn chế, do phương pháp tư duy giản đơn, không biện chứng, do ngộ nhận hoặc chịu ảnh hưởng nhất đinh của những quan điểm sai trái chứ không phải là thế lực thù địch.
Thứ năm, về cách thức đăng tải ỷ kiến. 
Các thế lực thù địch tìm mọi cách để tuyên truyền, phát tán những quan điểm sai ữái của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng như cho xuất bản sách, báo ở nước ngoài, sản xuất băng đĩa hình, in truyền đơn rồi tìm cách chuyển về trong nước, sử dụng các đài truyền hình, phát thanh của nước ngoài (như RFI, BBC...) nhằm vào Việt Nam. Đặc biệt ngày nay dựa vào thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại, các thế lực thù địch sử dụng mạng Internet, các mạng xã hội (facebook, twiste...) các bloge để tán phát rất nhanh, hữu hiệu quan điểm của họ vào Việt Nam và trên, khắp thế giới.Trái lại, là cán bộ, đảng viên, nếu có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng có thể phản ánh lên cấp trên, cấp có thẩm quyền, có quyền bảo lưu ý kiến, hoặc trình bày, thảo luận trong các hội thảo khoa học, hội nghị nội bộ chứ không được tùy tiện phát tán trên các phương tiện thông tin đại chúng; đảng viên phải chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương về những điêu đảng viên không được làm. Đối với 2 loại ý kiến trên đây chúng ta phải có thái độ và phương pháp đối xử đúng đắn, phù hợp. 
Đối với quan điểm sai trái, thù địch trong và ngoài nước, chúng ta phải đấu tranh, phê phán mạnh mẽ, kiên quyết, kiên tri, không mơ hồ, không thỏa hiệp. Các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn nào để chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta, chống phá Đảng, chống phá chế độ ta. Dã tâm của họ là không thay đổi. Còn đối với những cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với đường lối, quan điểm của Đảng, đây là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chúng ta cũng phải đấu tranh, phê phán, làm rõ đúng - sai thông qua đối thoại, trao đổi, tọa đàm, thuyết phục trên tinh thần đồng chí, tăng cường đoàn kết, đồng thuận, không đẩy họ về phía các thế lực thù địch mà cố gắng lôi kéo họ về phía chúng ta; chúng ta phê phán quan điểm sai chứ không phê phán con người, xúc phạm, đả kích cá nhân. Thông qua phê phán, chúng ta cũng phải xem lại mình, xem lại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có chỗ nào không đúng, còn khiếm khuyết cần phải sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện; những nội dung nào thực hiện chưa tốt cần phải chấn chỉnh, thực hiện tốt hơn để giải tỏa bức xúc của nhân dân và cán bộ, những nội dung nào có vấn đề hoặc chưa rõ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy sự phê phán đã chuyển thành tự phê phán, sự phê phán tiêu cực đã chuyển thảnh phê phán tích cực./.


Thế nào là cộng đồng tộc người?

Cộng đồng tộc người là một phạm trù lịch sử dùng để chỉ một cộng đồng người được hình thành trong những điều kiện lịch sử nhất định, gồm một hay nhiều tộc người cùng sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, gắn bó với nhau bởi các quan hệ xã hội cùng nguồn gốc, ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, đặc trưng văn hóa, tâm lý, ý thức tự giác theo những đặc trưng, tiêu chí chung nhất định.
Cộng đồng tộc người là một loại hình cộng đồng người hình thành lâu dài trong trong lịch sử, khác với các loại cộng đồng người theo tổ chức hành chính (tỉnh, huyện, xã), giai cấp, tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo, kinh tế...
Cộng đồng tộc người có quá trình ra đời, vận động, phát triển và đến một lúc nào đó sẽ tiêu vong. Chẳng hạn, hình thức cộng đồng bộ tộc hiện nay hầu như đã không còn tồn tại ở nhiều tộc người trên thế giới.
Đặc điểm phổ biến là phần lớn các cộng đồng tộc người thường gồm nhiều tộc người thành phần. Mẫu số chung là trong một cộng đồng tộc người thường có một tộc người đa số, chiếm ưu thế, đóng vai trò hạt nhân tập hợp, quy tụ các tộc người thành phần. Như bộ tộc Văn Lang thời Hùng vương có nhiều tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường, Tày Thái, Môn - Khmer tham gia cấu thành, nhưng tộc người đa số là tộc người Việt (Kinh).
Khi nói đến cộng đồng tộc người, người ta thường nhấn mạnh đến với tư cách là cộng đồng chính trị xã hội để phân biệt với tộc người, tính tộc người. Do trải qua các hình thái kinh tế - xã hội, các tộc người chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, giai cấp để tạo thành các hình thức cộng đồng tộc người khác nhau. Nên bên cạnh cốt cách tộc người, các đặc trưng của hình thức cộng đồng ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau cũng có sự khác nhau về kinh tế, thể chế chính trị, đặc điểm cơ cấu xã hội...

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, lịch sử tộc người đã trải qua 3 hình thức cộng đồng phát triển từ thấp lên cao. Do điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nơi mà sự phát triển của các loại hình đó không diễn ra như nhau; có nơi trải qua lần lượt các hình thức cộng đồng tộc người; có nơi có thể bỏ qua một hình thức tổ chức nào đó, hoặc có nhưng không điển hình. Ba hình thức đó là: Thị tộc - bộ lạc (thời cộng sản nguyên thủy), bộ tộc (thời chiếm hữu nô lệ và phong kiến) và dân tộc (thời tư bản chủ nghĩa và xã hội hội chủ nghĩa). Mỗi hình thức cộng đồng tộc người có các đặc điểm, kết cấu xã hội, đặc trưng văn hóa khác nhau, ra đời và tồn tại ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. 

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2016

VIỆT NAM LÀ ĐẤT NƯỚC CỦA TỰ DO TÔN GIÁO

        Ở Việt Nam từ trước đến nay, vấn đề dân tộc, tôn giáo luôn là vấn đề được quan tâm và coi trọng, cụ thể hóa trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam liên quan đến vấn đề này. Là một nước đa tôn giáo, vì vậy Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, đưa ra các chính sách, chủ trương về vấn đề tôn giáo mà trong tháng 10/2016, Quốc hội khóa 14 đã lấy ý kiến về dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Lợi dụng vấn đề đó các thế lực thù địch, các tổ chức phản động đột lốt dân chủ, nhân quyền đã rêu rao trên các diễn đàn, đăng tải nhiều bệnh phẩm với nội dung phản đối, công kích, bôi nhọ, xuyên tạc về dự thảo Luật trên.
          Gần đây các diễn đàn độc hại như anhbasam, Việt Tân, danluan, danlambao đăng tải các bài viết với nội dung như: “Yêu cầu sửa đổi Dự thảo Luật Tôn giáo và Tín ngưỡng mới - Thư ngỏ của 54 Tổ chức Nhân quyền và Xã hội Dân sự Quốc tế”“Nghị sĩ Asean lo ngại luật tôn giáo Việt Nam”. Luận điệu của chúng có đoạn viết: “…Tiếp tục lưu giữ những hạn chế không thể chấp nhận đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như các nhân quyền khác. Đặc biệt, những bảo đảm cơ bản cho quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng tiếp tục bị xói mòn với cơ chế Đăng ký hà khắc, bó buộc, cho phép nhà nước xâm phạm quá đáng vào công việc nội bộ các tổ chức tôn giáo… Đây là điều trái chống với tinh thần và nguyên tắc của quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng…”.
            Về vấn đề này, tác giả xin phép có một vài ý kiến như sau:
           Thứ nhất, các phần tử phản động có tư tưởng chống đối Nhà nước đã không bỏ lỡ sự kiện góp ý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, mà ra sức xuyên tạc, bóp méo, vu khống vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Hay nói cách khác, chúng lợi dụng phản biện, góp ý để công kích, tác động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương - giáo. Động cơ không phải muốn sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam phát triển hơn, văn minh hơn mà chúng chỉ muốn chọc ngoáy, tìm cớ phê phán, góp ý sửa đổi những quy định trong luật theo hướng “có lợi” cho việc tiến hành các hoạt động chống phá núp dưới danh nghĩa tôn giáo.
            Hơn nữa, nhìn vào thực tế hiện nay, nước ta có 13 tôn giáo với 36 tổ chức tôn giáo và 01 pháp môn tu hành đã được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với gần 24 triệu tín đồ, 83.000 chức sắc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, 25.000 cơ sở thờ tự… Qua số liệu này cho thấy chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo các quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, phát triển của các tôn giáo, tồn tại cùng dân tộc lâu dài trong quá trình phát triển của đất nước. Đây là một sự thật không ai có thể xuyên tạc và phủ nhận.
            Đồng thời, việc xây dựng và ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo là rất cần thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo; cụ thể hóa tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nội luật hóa các Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo.
             Nhà nước ta bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời, để quyền tự do đó được bảo đảm thì mọi tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật Nhà nước. Pháp luật sẽ nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để xâm phạm lợi ích cộng đồng, xâm phạm quyền và lợi ích của công dân, làm mất ổn định chính trị, xã hội, ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là lẽ đương nhiên, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
            Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Điều này được ghi rõ trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật của Việt Nam và được bảo đảm, tôn trọng trên thực tế. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước Việt Nam đã và đang thực thi nhiều chính sách và biện pháp cụ thể để đảm bảo người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Chính điều này đã tạo nên một đời sống tôn giáo, tín ngưỡng hết sức phong phú, sinh động ở Việt Nam.


TRÒ HỀ MANG TÊN GIẢI THƯỞNG NHÂN QUYỀN NĂM 2016

          Những tổ chức chống đối trong nước thường được hỗ trợ rất nhiều tiền từ nước ngoài, những gói tiền này được xé lẻ gửi qua tài khoản của nhiều người, đến khi có lời hô hào hưởng ứng thì ngay lập tức có thể gom được vài trăm triệu hỗ trợ cho lực lượng biểu tình. Để hợp thức, tô vẽ bộ mặt cho đẹp đẽ thì những tổ chức chống đối ngoài nước bày ra những giải thưởng nhân quyền để gửi về trong nước qua những cá nhân tiêu biểu trong hoạt động gây rối.
          Sắp tới, tổ chức Viet Nam Human Right đề cử những cá nhân trao giải nhân quyền năm 2016. Trong danh sách có những cái tên như luật sư Võ An Đôn, bà Cấn Thị Thêu, bà Trần Thị Ngọc Anh là những gương mặt thường xuyên ăn vạ tại các trụ sở cơ quan Nhà nước. Thành tích nhân quyền của những người kia thì vô cùng tồi tệ, họ chủ yếu đi khiếu kiện, gửi đơn vượt cấp, cãi cọ nhằm thỏa mãn niềm sung sướng nhân quyền “mồm” của bản thân. Thực chất hành vi gây rối của những con người đội lốt nhân quyền trên chỉ nhằm thỏa mãn niềm sung sướng cái mồm của chính bản thân họ. Họ đi gây rối, náo loạn thì những nhà dân chủ vỗ ngực là vì nhân quyền hết buổi thì chụp ảnh, ghi hình quân số về nhận tiền công. Thành tích nhân quyền của những con người trên chủ yếu là kể lể vì những lần đi gây rối bị Công an ngăn chặn, rồi bị bắt vì gây rối trật tự công cộng, tụ tập biểu tình phá rối an ninh trật tự trên các địa bàn.
            Phải chăng thành tích nhân quyền đó thì sẽ được tiền đô la, phải chăng những việc làm, hành động đó thì được gọi là nhân quyền, đó là nhân quyền thực sự hay chỉ là nhân quyền “mồm”? Nhân quyền “mồm” thì không thể coi là nhân quyền được, tuy rằng nó núp bóng dưới dạng đấu tranh với các tiêu cực xã hội, nhân quyền thực sự là nhân quyền của đông đảo quyền lợi nhân dân chứ không phải trở thành các công cụ cho những nhà dân chủ, dân oan lợi dụng để chuộc lợi cá nhân. Giải thưởng mà các tổ chức chống đối nước ngoài gửi cho những nhà dân chủ trong nước, đấu tranh nhân quyền hay là xin tiền mà tại sao suốt ngày thấy những nhà dân chủ vận động người hải ngoại gửi tiền vào trong nước hỗ trợ cho họ, đó có phải là đấu tranh nhân quyền hay chỉ là một màn kịch được vạch ra để bóc lột tiền của hải ngoại.

             Không biết những phong trào nhân quyền này có thể lôi kéo được đông đảo người dân tham gia hay không, nhưng nếu chỉ thỏa mãn nhu cầu nhân quyền “mồm” thì có lẽ sẽ chẳng thể nào lôi kéo người dân, tầng lớp thanh niên, trí thức tham gia được. Những hình thức đấu tranh nhân quyền này chỉ giành cho những kẻ mặt trơ trơ như viên đá mài. Tốt nhất, với số đối tượng này nên kiềm chế hành động của mình, đừng hung hăng khi xông vào những trụ sử tiếp dân, cơ quan Nhà nước, đừng to tiếng, thô lỗ, tụ tập phá rối an ninh trật tự trên địa bàn thủ đô, nếu không có ngày lại rước họa vào thân.

RSF THÔI ĐỪNG XUYÊN TẠC!

            Thời gian qua, một số tờ báo, trang Blog cá nhân, mạng xã hội đăng tải thông tin sai sự thật, vu khống lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc tình hình Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn tới hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới. Gần đây nhất dư luận không khỏi bức xúc về vụ việc Tổ chức Phóng viên không biên biên giới (RSF) đưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào danh sách “kẻ thù của tự do truyền thông” và xếp Việt Nam đứng thứ 175 trong số 180 quốc gia “đàn áp tự do báo chí”. Chúng hả hê xuyên tạc rằng: Tại Việt Nam báo chí hoàn toàn bị cấm đoán, internet bị theo dõi và kiểm soát chặt chẽ; Nhiều công dân mạng và Blogger bị chính quyền đàn áp vì những cáo buộc mơ hồ…thực hư vấn đề này như thế nào chưa nói chắc bạn đọc củng đã rõ mấy phần.
             Trước tiên tác giả muốn bạn đọc biết được Tổ chức Phóng viên không biên biên giới (RSF) là gì? Đây là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động toàn cầu với mục đích bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức hoạt động dựa trên điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Phóng viên không biên giới do nhà báo người Pháp Robert Ménard thành lập năm 1985. Những năm gần đây dưới sự tài trợ, thao túng của Mỹ và các nhà tài phiệt phương Tây tôn chỉ, mục đích ban đầu mà Tổ chức Phóng viên không biên biên giới đã đề ra đang dần trở nên méo mó hơn bao giờ hết. Mặc dù, đang khoác lên mình cái nhãn hiệu bảo vệ quyền lợi của các nhà báo, nhưng trên thực tế, RSF không hề bảo vệ các nhà báo chân chính mà chỉ chăm chăm tiếp tay một số Blogger và nhà báo giả danh để hoạt động chống phá chính quyền mà không ít Quốc gia đã lên tiếng để phản đối.
             Tại Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được Hiến pháp ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực thi. Theo đó, tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều có những quy định về tự do ngôn luận, tự do báo chí và khẳng định đây là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, của mọi công dân.
             Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định
                Điều 2, Luật báo chí Việt Nam quy định:
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân...”
             Hành động trên của RSF rõ ràng là một sự xuyên tạc, bóp méo, bịa đặt, vu cáo, bôi đen thực tế xã hội và thực trạng tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, thể hiện cái nhìn phiến diện và áp đặt của tổ chức này.
             Hơn nữa, những trường hợp mà RSF gọi là “các Bloggers có tiếng nói đối lập bị đàn áp” như: Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Văn Đài, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hay Hồ Hải họ đã lợi dụng việc tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quan điểm sai trái, thù hằn với Việt Nam tự ý thành lập các trang Blog cá nhân, các website, lợi dụng mạng xã hội facebook, twitter… để tuyên truyền những vấn đề không đúng với sự thật tại Việt Nam, vu khống Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo, không có dân chủ, nhân quyền. Đây là những hành động hoàn toàn sai trái vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam và  phải bị xử lý nghiêm khắc để đảm bảo mọi người dân Việt Nam cũng như trên thế giới có quyền tiếp cận những thông tin chính thống, đúng sự thật về tình hình Việt Nam. Đây là lẽ đương nhiên, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
       RSF thực chất chỉ là một công cụ đắc lực cho các tổ chức phản động bên cạnh các tổ chức như HRW nhằm chống phá tình hình nội bộ các quốc gia, can thiệp sâu vào các sự việc điều này làm lộ rõ bản chất diều hâu của tổ chức này là hoạt động dựa trên sự chỉ đạo của các thế lực thù địch chứ chẳng hề có cái gọi là “tự do” như họ quảng bá.

Phải chăng hiện nay chúng ta không cần tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội?

             Văn kiện Đại hội XI của Đảng yêu cầu phải “kiên định mục tiêu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, vì đây vừa là mục tiêu, lý tưởng, vừa thể hiện bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của thành tựu cách mạng nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới cũng như những thuận lợi và khó khăn ở trong nước hiện nay, việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
            1. Lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan của cách mạng nước ta. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước, chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1924, khi đọc Luận cương của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người thấy “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”1. Trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Người viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Người chỉ ra:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”2. Đó cũng chính là con đường kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, phù hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin, với mục tiêu lớn của thời đại và ý nguyện của nhân dân; được gắn với đặc điểm, tình hình của mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam. Đây không phải do ý muốn chủ quan của Đảng mà là tổng hợp những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc.
              Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, phe xã hội chủ nghĩa đứng trước nguy cơ tan rã, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tạo ra một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Nhờ đó, gần 30 năm qua, nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Có thể khẳng định các sự kiện trong những năm: 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó minh chứng con đường cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu, nội tại. Bởi, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Đúng như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”3.
2. Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Gần 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, đất nước ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là sự cạnh tranh về chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo ngày càng quyết liệt giữa các nước diễn ra ở nhiều khu vực, trong đó có Biển Đông; sự chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, v.v. Trong nước, những hạn chế, khuyết điểm vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết; những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho kinh tế phát triển thiếu ổn định, chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, v.v. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, thậm chí một số cán bộ, đảng viên non kém về bản lĩnh chính trị và sự nhạy cảm về chính trị muốn phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường mù mờ, không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”, “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng”; “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”, v.v. Những quan điểm trên đây không thể đứng vững được trước sự phê phán, bởi lý luận và trước thực tế lịch sử.
               Trong thời kỳ trước đây, ở nước ta, các triều đại phong kiến tiến bộ đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội được đặt ra về lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công. Do đó, nếu đặt vấn đề chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ phong kiến là phi lịch sử và không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Những quan điểm phủ nhận trên đã có cái nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa, nó cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng phát triển, nhất là về kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, v.v. 
               Tuy vậy, về bản chất, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công, dù có những điều chỉnh thích nghi. Những người phủ nhận mục tiêu của cách mạng Việt Nam còn có cái nhìn định kiến với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây ở một số nước. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô - viết trước đây, không thấy những thành tựu trong đổi mới, cải cách đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba. Cần phải rõ rằng: sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới; những giá trị cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Điều này được minh chứng rõ ở phong trào xã hội “cánh tả”, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang từng bước phục hồi.
                Thời gian gần đây xuất hiện trên internet và một số ấn phẩm in, tán phát những quan điểm sai trái, như đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Họ nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị, đang kìm hãm tự do, dân chủ, chia rẽ dân tộc,…”; họ yêu cầu “Việt Nam ngày nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”, v.v. Thực chất, họ muốn chúng ta phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình, từ bỏ hệ tư tưởng Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để chuyển sang dân chủ tư sản, tức là từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
              3. Nắm vững và thực hiện có hiệu quả mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới.
              Chúng ta luôn kiên định và tiếp tục giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, coi đó là định hướng quan trọng cho con đường phát triển của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu đó, Đảng cần phải đánh giá, dự báo một cách khách quan tình hình thời cuộc, nhất là tình hình thế giới và trong nước cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, ảnh hưởng trực tiếp đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
            Chúng ta nhất trí với hệ thống phương hướng, giải pháp nêu trong các văn kiện Đại hội XII của Đảng và làm rõ thêm một số vấn đề có tính nguyên tắc để tiếp tục khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, đó là:
        - Phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
        - Không ngừng đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
       - Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
       - Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
        - Thực hiện đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị với những bước đi phù hợp.
        -  Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
        - Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
       - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược.
       - Phấn đấu nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
       - Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có đầu tư nước ngoài. 
       - Phát huy nhân tố con người cả về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc.
      - Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; giải quyết tốt những vấn đề bức thiết, tăng cường quản lý xã hội, bảo đảm an sinh, phúc lợi cho người dân.
      - Thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
      - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
       -  Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả.

        - Giải quyết tốt quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XII VÀ ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

          Vừa qua, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng diễn ra trong 6 ngày từ ngày 09 đến ngày 14/10/2016. Trong kỳ họp lần này, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký và ban hành Nghị quyết 04/TW của Hội nghị và phổ biến trên diện rộng ở các phương tiện thông tin đại chúng (bạn đọc có thể tìm thấy toàn văn Nghị quyết này trên mạng internet ở các trang báo mạng chính thống). Nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII được tóm tắt lại thành hai chủ đề lớn và quan trọng nhất của Đảng và đất nước trong giai đoạn hiện nay đó là: Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và công tác chỉnh đốn nội bộ Đảng. Có thể khẳng định rằng, thông qua Nghị quyết này, Đảng ta đã đánh giá, hoạch định được đường hướng phát triển kinh tế của đất nước và đồng thời nhìn thẳng vào các tồn tại trong nội bộ Đảng trong giai đoạn hiện nay. Không chỉ vậy, Nghị quyết còn đưa ra các giải pháp để khắc phục những tồn tại, đề phòng trước những nguy cơ có thể xảy ra một cách cụ thể, chi tiết cho từng tồn tại, hạn chế qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước và làm tốt công tác bảo vệ Đảng từ bên trong. Đây cũng là tiếng nói, niềm mong mỏi của nhân dân khi trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều đại án, hiện tượng tiêu cực của cán bộ (kể cả cao cấp) trong Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Do vậy, việc Trung ương Đảng đã mạnh dạn, thẳng thắn nhận ra những thiếu sót của mình qua Nghị quyết này là rất cần thiết.
             Tuy nhiên, cũng như nhiều lần khác, khi mà đất nước ta có những sự kiện lớn có liên quan đến chính trị, kinh tế, đặc biệt là liên quan đến nội bộ thì đều được các tổ chức, cá nhân có quan điểm chống đối với Việt Nam tập trung khai thác, chống phá và việc Đảng ta đưa ra Nghị quyết này và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng không ngoại lệ.
               Trên trang mạng Dân luận mới đây, ngày 11/11/2016 có bài viết: “Căn bệnh nan y và cận kề cái chết” của Thiên Thanh tập trung phân tích, xuyên tạc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cho rằng đó chỉ là chiêu trò mị dân của Đảng. Tuy nhiên, nếu như công tâm mà xét (thực ra là nếu mà thôi bởi lẽ những trang mạng như vậy hoàn toàn không có chuyện công tâm mà các bài viết được viết ra đều nhằm mục đích hướng lái dư luận chống lại chính quyền hiện tại của Việt Nam bất kể nội dung hay chủ đề là gì) thì Thiên Thanh chỉ dừng lại ở mức độ đó là chỉ ra những tồn tại thiếu sót hiện nay của Đảng nhất là trong nội bộ (vì trên thực tế chắc chắn có và có nhiều thực tế đã, đang diễn ra). Tuy nhiên người này đưa kèm vào bài viết của mình những ngôn từ vô cùng kích động, đả kích, quy chụp, thậm chí là vu khống chính quyền Việt Nam kết hợp với đó là những lập luận hướng sự chú ý của người đọc tới sự tự diễn biến, suy thoái trong Đảng mà quên đi các tác động của thông tin ngoài luồng bên ngoài mà những tổ chức đứng đằng sau các trang mạng như Dân luận là “nhà tài trợ” liên tục được đưa ra nói xấu chính quyền một cách rất có chủ đích. Do đó, bỏ qua những màu mè, hoa mĩ ở những đoạn đầu của bài viết của Thiên Thanh nêu trên thì nội dung chính của toàn bộ bài viết mà người này muốn hướng tới không gì khác ngoài việc chia rẽ, nói xấu nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam mà cụ thể là vai trò lãnh đạo của Đảng với nhân dân.
             Còn trên trang mạng “quen thuộc” là Blog Dân làm báo ngày 13/11/2016 có bài viết: “Hãy nghe những gì Trọng lú nói” của Blogger Nguyễn Bá Chổi cũng tập trung xuyên tạc một cách thô thiển nội dung của Nghị quyết nêu trên, thậm chí còn thô thiển hơn rất nhiều bài viết trên Dân luận. Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm mời truy cập vào Blog này để biết thông tin chi tiết…

              Không chỉ thực tại mà từ trước, trong lịch sử và kể cả đến tương lai sau này, chủ đề chính trị luôn là lĩnh vực nhạy cảm mà các thế lực thù địch tập trung chống phá vì suy cho cùng, bằng bất cứ giá nào, điều cuối cùng mà chúng muốn đó là lật đổ thể chế chính trị của Việt Nam hiện tại. Do vậy, công tác chỉnh đốn nội bộ Đảng là khâu quan trọng, cốt yếu nhất của Đảng hiện nay bởi lẽ không có một thế lực nào có thể lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân trừ những người trong Đảng như lời Tổng Bí thư đã nói.