Thứ Hai, 26 tháng 2, 2024

VỀ CÁI GỌI LÀ “CHỦ NGHĨA CHIA RẼ VÀ CỰC ĐOAN THỂ HIỆN DƯỚI HÌNH THỨC CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN”

Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của Hồ Chí Minh”. Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lênin một cách vô căn cứ, vu khống, bịa đặt. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của  chủ nghĩa Mác - Lênin mà đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh... Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên chia rẽ và cực đoan, phiến diện, không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trên thực tế, như chúng ta biết, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Về sau này Lênin bổ sung thêm: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, Mác, Ăngghen, Lênin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã đúc rút bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. 

VẠCH TRẦN CÁI GỌI LÀ “ DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và quyết liệt. Dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền”, họ tự xưng mình là những người có "sứ mệnh" đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam. Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt những vấn đề "dân chủ, nhân quyền" nhằm nói xấu chế độ ở Việt Nam.

Dân chủ, nhân quyền được xem là giá trị chung của nhân loại. Các dân tộc không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa đều có đóng góp nhất định vào giá trị chung đó. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, không có mô hình "chuẩn" về dân chủ, nhân quyền, mà chỉ có những mô hình cụ thể dựa trên những giá trị phổ quát được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Tương tự như quan hệ giữa "cái chung", "cái phổ biến" với "cái đặc thù", "cái đơn nhất" trong triết học, những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền chỉ có thể thông qua các mô hình chính trị - xã hội cụ thể để biểu hiện. Nói một cách đơn giản là, dân chủ, nhân quyền có nhiều mô hình, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Thế nhưng, trên mạng xã hội hiện nay, có một số tổ chức, cá nhân tự nhận mình là "nhà dân chủ", sùng bái mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, coi đó là "chuẩn", là "mặc định". Từ đó, họ ra sức xuyên tạc, vu cáo, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhằm hướng sự phát triển của đất nước ta theo mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây.

Không chỉ phủ nhận chế độ dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch còn ra sức tô vẽ, sùng bái mô hình "dân chủ, nhân quyền" của phương Tây. Họ tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây, cố tình tảng lờ một số quyền con người sẽ bị hạn chế đã được ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966). Theo cách nói của họ, Nhà nước Việt Nam đã vi phạm quyền con người ở Điều 18 (Về quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo), Điều 19 (Về quyền tự do ngôn luận, báo chí), Điều 21, 22 (Về quyền hội họp hòa bình, quyền lập hội...) trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) mà Việt Nam đã ký kết. Tuy nhiên, họ không hề đề cập đến việc thực hiện những quyền nêu trên đều có thể bị hạn chế (trong pháp luật quốc gia) là vì "an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác". Gần đây, họ còn có "sáng kiến": Phát triển blog, hình thành "xã hội ảo", "công dân ảo" và sử dụng các trang mạng xã hội nhằm phát tán, thu gom, lưu trữ các bài viết. Qua đó, họ ra "Tuyên bố", lập bản "Kiến nghị", kêu gọi "ký tên"... ủng hộ các quan điểm cực đoan, sai trái. Chẳng hạn như: Tuyên bố 72 ra bản "kiến nghị" về sửa đổi Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, chế độ cộng hòa tổng thống; Tuyên bố về việc thực thi các quyền dân sự, chính trị, kêu gọi Nhà nước thực thi các quyền tự do, dân chủ theo các "chuẩn mực nhân quyền phổ quát" (không tính tới tính đặc thù, lịch sử và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc); Tuyên bố 258, kêu gọi xóa bỏ Điều 258 (Về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, Bộ luật Hình sự 1999 của Nhà nước ta)...

Gắn liền với những hoạt động trên, các nhà tự xưng là "dân chủ, nhân quyền" còn lợi dụng bầu không khí dân chủ của đất nước để thực hiện một số hoạt động "thực", như: Trao văn bản đến lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đến các cơ quan chức năng, thậm chí trao văn bản tới các đại sứ quán, lãnh sự quán nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Để tránh sự trừng phạt của pháp luật, họ "lách luật" bằng cách lợi dụng quyền "phản biện" (thực chất là để phản bác, phủ nhận), tuyên bố "chỉ thực hiện các quyền con người về quyền tự do, dân chủ được ghi trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia" và chỉ hoạt động "ôn hòa", "bất bạo động"... Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, các cuộc bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội hiện hữu thường bắt đầu bằng những hành động gọi là "bất bạo động", "ôn hòa" kiểu ấy. Do vậy, những hành vi vi phạm pháp luật của họ sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm minh.

Những hoạt động nói trên của những kẻ lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" cũng như của các thế lực thù địch chẳng qua chỉ là trò bịa đặt, "bóp méo sự thật". Hành động của họ chẳng lừa được ai, chắc chắn sẽ bị lên án, bác bỏ.

Nhìn lại những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm dân chủ, nhân quyền, có thể khẳng định rằng, đó là những thành tựu to lớn, không thể phủ nhận được. Những "phát biểu", "điều trần" của cá nhân này, tổ chức nọ nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam chỉ là những tiếng nói lạc lõng, xa lạ với cộng đồng quốc tế. Nó đã, đang và tiếp tục bị cộng đồng quốc tế vạch trần, lên án./. 

SỰ BIẾN THOÁI HÓA BIẾN CHẤT CỦA CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN CÓ PHẢI DO MỘT ĐẢNG LÃNH ĐẠO?

Một số học giả tư sản lớn tiếng cho rằng: chế độ một đảng lãnh đạo là độc tài, khép kín, mất dân chủ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, là nguyên nhân của sự thoái hóa ,biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Thực chất luận điểm trên là phản động, biểu hiện rõ mục tiêu chính trị và sự thù địch đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Luận điểm đó không xuất phát từ động cơ tích cực mà lợi dụng thực trạng xã hội để phủ định vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản, cổ súy cho tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng nền chính trị Việt Nam phát triển theo nền chính trị tư sản.

Thực tiễn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các đảng phái chính trị với tên gọi khác nhau (trừ đảng cộng sản chân chính) nhưng bản chất đều là đảng của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Vì lợi ích của mình, các đảng tư sản cũng đã có sự điều chỉnh sách lược, chiến lược, song dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể xóa bỏ được những ung nhọt của xã hội nảy sinh từ cơ sở xã hội của nó, đó chính là quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

 Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành trên cơ sở tuân theo quy luật chung đồng thời có tính đặc thù do điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam quy định, là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử dân tộc. Kể từ khi ra đời, Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện cơ sở vật chất - xã hội nước ta tạo ra những thuận lợi nhất định nhưng cũng dễ làm nảy sinh những khó khăn rất lớn và lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đảng ta chỉ rõ: có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất. Nhưng hiện tượng đó không phải do bản chất của Đảng hay do một đảng lãnh đạo mà phải xem xét từ nguồn gốc tồn tại xã hội. Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận trách nhiệm của mình với tư cách là tổ chức lãnh đạo, giáo dục, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thoái hóa, biến chất, chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của nó; xác định những chủ trương, biện pháp, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị để đấu tranh ngăn chặn, khắc phục tình trạng suy thoái biến chất, góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. 

PHẢI CHĂNG HỌC THUYẾT CỦA C.MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ SAI LẦM VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỈ LÀ SỰ ẢO TƯỞNG VÀ KHÔNG BAO GIỞ THỰC HIỆN ĐƯỢC?

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng đã luôn bị kẻ thù chống phá quyết liệt. Đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Có thể dễ dàng thấy họ đang điên cuồng bài bác và tung hô luận điệu rằng: Hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ là một lý thuyết về CNXH không tưởng và xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự ảo tưởng và không bao giờ thực hiện được?

Phải thấy rằng sự vận động, phát triển của nhân loại là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại.

Mọi người đều biết, học thuyết HTKTXH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử Việt Nam chúng ta. Học thuyết đó đã chỉ rõ: 

- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH, trong đó sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ tầng, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp. 

- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 HTKTXH. Đó là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Chẳng  hạn, Autralia, các quốc gia Mỹ La tinh đều  bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội phong kiến trong quá trình phát triển của mình. Việt Nam không trải qua hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Việc các quốc gia này bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ, mà do các điều kiện lịch sử khách quan quy định. Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKTXH, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi HTKTXH và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKTXH từ thấp lên cao hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới CNTB, thì sau HTKTXH TBCN ấy phải là một HTKTXH tiến bộ hơn, đó chính là chủ nghĩa cộng sản. Đó là cái tất yếu lịch sử hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra. 

Đặc biệt sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, không ít học giả trong và ngoài nước đã tung hô về “cái chết” của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sự cáo chung” của chủ nghĩa cộng sản dựa trên học thuyết Mác. Cùng với sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới là một số hạn chế, yếu kém trong quá trình cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sự phát triển, “điều chỉnh”, “thích nghi” của chủ nghĩa tư bản hiện đại... càng làm cho những luận điệu chống phá, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội hiện thực nói riêng có “mảnh đất” để phát triển cả về nội dung và hình thức. Họ đưa ra nhiều căn cứ phủ định chủ nghĩa xã hội và cho rằng: chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng không bao giờ thực hiện được.

 

          Hẳn là một suy nghĩ hồ đồ

Trước hết phải thấy rõ là:

Thứ nhất, học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội không phải là “hệ thống tự biện”, vì trong khoa học, để tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì không chỉ nghiên cứu một sự vật, hiện tượng cụ thể mà phải thông qua nhiều sự vật, hiện tượng từ đó tìm ra các thuộc tính chung nhất của nó. Do đó, bất kỳ nghiên cứu khoa học nào cũng cần đến thuộc tính trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nghiên cứu lịch sử phát triển nhân loại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hay những yếu tố cấu thành của phương thức sản xuất tư bản cũng không thể không trừu tượng hóa những đối tượng ấy. vấn đề đặt ra là, sự trừu tượng hóa ấy có phản ánh đúng bản chất, quy luật của hiện thực khách quan không. Nếu phản ánh đúng bản chất, quy luật, chúng ta có cơ sở khoa học để dự báo sự vận động phát triển.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội dựa trên học thuyết Mác ra đời xuất phát từ “mảnh đất hiện thực” khách quan dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của châu Âu từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và những tiền đề văn hóa, tư tưởng của nhân loại đạt được trong suốt chiều dài lịch sử cùng với sự thiên tài trong kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra được quy luật vận động của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản thông qua ba phát hiện vĩ đại: Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư và sau này (như Lênin đã bổ sung) về học thuyết sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, nghiên cứu “mảnh đất hiện thực” của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ đế quốc, bộc lộ tất cả các mặt “thối nát” của chúng. Từ đó, các ông đi đến kết luận: “Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột có thật ấy vào trong tư duy, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột ấy, trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ và sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội: “không cần phải thực hiện một lý tưởng nào cả, mà chỉ cần giải phóng những nhân tố của xã hội mới đã phát triển trong lòng xã hội tư sản cũ đang sụp đổ”.

Như vậy, với học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác cho chúng ta thấy, chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa) ra đời là một tất yếu khách quan. Tất yếu này đã được Đảng Bônsêvich Nga do Lênin đứng đầu lãnh đạo tổ chức Cách mạng tháng Mười thành công, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thực tế.

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội đã và đang là hiện thực của lịch sử nhân loại

          Sau thắng lợi Cách mạng tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của đảng Bônsêvích, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã tiến hành xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt to lớn đánh dấu chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Cách mạng tháng Mười đã chứng minh trên thực tế những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản là có cơ sở khoa học. Nó cũng mở ra cho nhân loại một xu hướng mới về xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, đối lập với chế độ áp bức, bóc lột, bất công tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,  sự đỗ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, không có nghĩa là sự sụp đồ của chủ nghĩa xã hội với tư cách một học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, một học thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn, triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và cho việc xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh thực sự- xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự đổ vỡ này là do sai lầm của những người lãnh đạo đứng đầu của đảng cộng sản ở các quốc gia nêu trên; thêm vào đó, là sự phản bội của một số kẻ cơ hội bên trong kết hợp với những kẻ thù địch từ bên ngoài. Chúng ta biết rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác từng nhấn mạnh, chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động. C.Mác và Ph.Ănghen đã luôn nhấn mạnh, học thuyết của các ông không phải là “khuôn vàng, thước ngọc”, không phải là cái gì đã “xong xuôi hẳn”, C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ.

Thực tiễn cũng chứng minh quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng, từng bước sụp đổ; đã xuất hiện không ít tư tưởng hoài nghi về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đã tự vạch ra cho mình mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam, đồng thời lãnh đạo nhân dân từng bước hiện thực hóa mô hình ấy.

Thực tiễn sau tổng kết 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo những tiền đề quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao... Những thành tựu to lớn trên đã chứng tỏ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta là phản ánh đúng đắn quy luật khách quan và phù hợp với thực tiễn cách mạng của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội không phải là ảo tưởng mà là hiện thực, hiện thực đó đang ngày càng sinh động ở nước ta; hiện thực đó không phải chỉ những người cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự nhận, tự thấy mà được các nước, các tổ chức quốc tế thừa nhận. Hiện thực đó đang là tấm gương cho nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế - xã hội học tập 

PHẢI CHĂNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN KHÔNG BỊ BÓC LỘT?

* Có quan điểm cho rằng: Thời đại ngày nay khi cách mạng khoa học - công nghệ phát triển, sản phẩm làm ra nhiều, đời sống công nhân đã được cải thiện, một bộ phận công nhân đã trung lưu hóa, không bị bóc lột. Cá biệt có quan điểm cho rằng giai cấp công nhân cũng bóc lột các giai cấp khác?

* Chúng ta hiểu vấn đề này như thế nào:

- Công nhân một số nước có cổ phần, cũng được chia lợi nhuận từ cổ phiếu nhưng họ vẫn là công nhân, vẫn bị bóc lột (5% nhà tư bản chiếm 80% thu nhập toàn nước Mỹ).

- Một bộ phận công nhân trung lưu hóa, đời sống đã được cải thiện, nhưng vẫn còn một bộ phận công nhân rất khổ cực (chủ nghĩa Mác - Lênin không lấy sự nghèo khổ để đánh giá tính chất cách mạng của giai cấp công nhân).

Như vậy, thời đại ngày nay khi cách mạng khoa học - công nghệ phát triển, sản phẩm làm ra nhiều, đời sống công nhân đã được cải thiện, một bộ phận công nhân đã trung lưu hóa, nhưng giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột.

Do đó, mọi quan điểm, nhận thức cho rằng, giai cấp công nhân không bị bóc lột là hoàn toàn sai lầm. Phủ nhận bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân./.  

PHẢI CHĂNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY ĐANG BỊ "TEO" ĐI?

Hiện nay, nhiều người vẫn có cách hiểu sai về GCCN, họ quan niệm công nhân là người lao động chân tay, là người làm việc trong nhà máy, xí nghiệp, vất vả, "lấm lem". Đó là cách hiểu sai, hoặc chưa đầy đủ về GCCN hiện đại, và cũng là lý do khiến họ nghĩ rằng GCCN hiện nay đang bị "teo" đi.

Ngày nay trong điều kiện mới, khoa học công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả trong các lĩnh vực khác. Theo số liệu thống kê của Tổ chức lao động thế giới(ILO) cho thấy: Năm 1900, trên thế giới mới có 80 triệu công nhân, năm 1990 có 615 triệu thì đến năm 2003 con số đó đã lên đến 800 triệu người. Như vậy, GCCN vẫn liên tục phát triển chứ không "teo" đi. Cùng với sự biến đổi về cơ cấu và thành phần, trong nội bộ GCCN cũng nảy sinh sự phân hóa không chỉ về thu nhập, mức sống, mà còn cả về lập trường, quan điểm chính trị do thay đổi nhu cầu về lợi ích, quan niệm, hệ giá trị. Điều này đặt ra những vấn đề mới cần phải giải quyết cho các Đảng Cộng sản, đồng thời xuất hiện xu hướng nổi bật – sự đa dạng của các hình thức đấu tranh mới.

Tuy cơ cấu GCCN biến động mạnh mẽ, nhưng nó không xóa bỏ sự phân chia cơ bản về giai cấp xã hội trong chủ nghĩa tư bản – bán sức lao động vẫn là phương thức tồn tại của GCCN hiện đại. Đồng thời, GCCN vẫn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lớn của xã hội hiện nay, bao gồm những người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất, những kỹ sư, kỹ thuật viên. GCCN có mặt trong các ngành kinh tế: Công nghiệp, Nông nghiệp, Lâm nghệp, Ngư nghiệp, Giao thông vận tải, trong đó công nhân công xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại là bộ phận nòng cốt.

Trong giai đoạn hiện nay, GCCN vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ sản xuất. Họ vẫn là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử xã hội quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, với sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. 

PHẢI CHĂNG CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG CÒN LÀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?

Có thể thấy rằng sau sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu, trong giai đoạn hiện nay các thế lực thù địch đang ráo riết, đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa hòng làm suy giảm niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng. Một trong những vấn đề chúng tập trung chống phá là tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ đó tiến tới phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Nhiều chính khách, nhà khoa học ở cả trong và ngoài nước có những bài nói, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Một số học giả tư sản đã thừa nhận, tinh thần của C. Mác vẫn tỏa sáng và dù muốn hay không người ta vẫn phải dựa vào C. Mác mới có thể phân tích đúng chủ nghĩa tư bản đương đại. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành tư tưởng của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó của Người có được trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lê-nin là phép biện chứng duy vật.

Thắng lợi của cách mạng cũng như sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 84 năm qua là kết quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận, đó là nhờ Đảng ta đã được vũ trang bằng lý luận cách mạng và khoa học nhất của thời đại - chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn tới, việc tiếp tục kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vẫn là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận cương chính trị tháng 10-1930 cho đến văn kiện Đại hội VI đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta có sự phát triển, bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng”. Đây là biểu hiện về nhận thức đúng đắn, sâu sắc về mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI của Đảng (tháng 01-2011) đã tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đến Đại hội XII Đảng ta xác định “trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…”. Như vậy, Đảng ta xác định rất rõ ràng: công cuộc đổi mới hiện nay phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong hành động. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều đó càng đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam tuyệt đối không được xa rời hoặc từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trái lại, cần kiên định, vận dụng, linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên chính mảnh đất hiện thực Việt Nam hiện nay. Những “lý sự” cố tình tách rời, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn trái với quan điểm, đường lối của Đảng ta. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch đó để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

“Ở VIỆT NAM CHỈ CẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH” – MỘT LUẬN ĐIỆU XẢO QUYỆT

Trong thời gian gần đây các thế lực thù địch tiếp tục điên cuồng chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng. Một trong các luận điệu mới chúng đưa ra là: Ở Việt Nam hiện nay chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, không cần đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng lập luận rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đến nay đã hết thời, nó là sản phẩm của thế kỷ XIX, đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI là không phù hợp. Bởi vì thế giới trong những năm qua đã thay đổi quá nhiều, thời đại này là thời đại mới, thời đại của khoa học và công nghệ…Bên cạnh đó chúng còn cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện rồi, về khía cạnh nào đó có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh còn cao hơn chủ nghĩa Mác – Lênin…

          Có thế thấy rằng, những luận điệu nêu trên đưa ra là hoàn toàn sai trái, cần phải phê phán. Mục đích là đối lập chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tách biệt ra từ đó làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh không có nền tảng lý luận vững chắc. Từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tiến tới phủ nhận luôn cả tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác – Lênin từ khi ra đời cho đến nay đã thể hiện bản chất cách mạng, khoa học của nó. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn của nước ta, tư tưởng đó đã soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

          Từ đó có thể thấy luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, cần phải đấu tranh bác bỏ. Thực chất là âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. 

Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2024

NHẬN THỨC ĐÚNG NGUYÊN NHÂN TAN RÃ CỦA LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐÔNG ÂU TRƯỚC CÁC LUẬN ĐIỆU CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu diễn ra vào cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 được coi là là thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin bị thách thức nghiêm trọng từ cả bên ngoài và bên trong, gây xáo trộn mạnh về chính trị - tư tưởng đối với các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân, đội ngũ cán bộ, đảng viên và một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực phản động đã ra sức công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội bằng nhiều luận điệu tiêu cực như: chủ nghĩa xã hội là cái thai đẻ non của lịch sử nên tất yếu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp với thời đại mới nên đã thất bại, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh tính chất sai lầm ảo tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tế..v.v. Vì vậy, nhận thức đúng đắn nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Hai sáu năm đã trôi qua, đến nay chúng ta đã có cái nhìn đầy đủ và đúng đắn về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, đó là kết quả tổng hợp của những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại, trong đó nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định.

Thứ nhất, việc duy trì trong một thời gian dài mô hình quản lý tập trung, kế hoạch, bao cấp, đã khiến chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trở thành xơ cứng, giáo điều, là nguồn gốc tình trạng trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội ở các nước này trong thập niên 1980 đến 1990. Trong khi các nước tư bản từ sau cuộc khủng hoảng năng lương thập niên 1970 đã không ngừng cải cách, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, bỏ xa Liên Xô và Đông Âu về nhiều mặt, thì các nhà lãnh đạo ở liên Xô và Đông Âu vẫn chủ quan, kiêu ngạo tự cho mô hình chủ nghĩa xã hội của mình là đúng đắn, không có gì sai sót, không tiến hành sửa chữa, thậm chí còn áp nó đó lên các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Thứ hai, khi nhận thức được sự trì trệ, Liên Xô đã lún sâu vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, nên vội vã tiến hành cải tổ một cách ồ ạt trên cả bốn mặt: tự do hóa kinh tế, dân chủ hóa chính trị, phi ý thức hệ tư tưởng và mở cửa ra bên ngoài. Chính đường lối phiêu lưu, mạo hiểm này đã làm bùng nổ và lan tràn đến mức không thể kiểm soát nổi các mâu thuẫn chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, sắc tộc, các xu hướng ly tâm, cấp tiến hóa, cực đoan hóa... Đặc biệt, việc vi phạm một cách có hệ thống các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội của ban lãnh đạo Liên Xô đứng đầu là Gorbachev trong quá trình cải tổ, nhất là việc "tự nguyện" xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với toàn xã hội, không chỉ tạo điều kiện cho các lực lượng phản động ngóc đầu dậy chống đối Đảng Cộng sản, mà còn hủy hoại triệt để cơ cấu quyền lực của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, khiến cho xã hội lâm vào rối loạn, mất phương hướng, tan rã là điều không thể tránh khỏi.

          Thứ ba, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã tiến hành một cách toàn diện các hoạt động chống phá Liên Xô, Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, vừa trắng trợn, kết hợp gây sức ép bên ngoài với thúc đẩy tự chuyển biến ở bên trong như: khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang tốn kém; liên kết tiến hành bao vây, cô lập phá hoạt kinh tế, ngoại giao; đẩy mạnh cuộc chiến văn hóa-tư tưởng, truyền bá giá trị Mỹ; gây dựng lực lượng đối lập, mua chuộc bộ phận cán bộ lãnh đạo cao cấp... Đặc biệt, chính Mỹ đã bắt tay với các nước thuộc Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ tiến hành hoạt động phá giá dầu mỏ, làm cho ngân sách Liên Xô thất thu hàng tỷ đô la từ việc xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Liên Xô vốn đang đắm chìm trong khủng hoảng kinh tế - xã hội...

Như vậy, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu là kết quả tất yếu từ quá trình tích tụ những sai lầm, khuyết điểm không được sửa chữa, khắc phục đúng đắn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước này, với các hoạt động chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ, chứ không phải như các luận điệu của các thế lực phản động đã và đang tuyên truyền hiện nay. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói cách khác đó là sự thất bại của một cách thức, một hướng đi xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của loài người mà thôi, nó phản ánh tính chất quanh co phức tạp, khi tiến, khi lùi của lịch sử. Những bài học thành công trong quá trình đổi mới, cải cách ở Việt Nam, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại là minh chứng hùng hồn cho sức sống của chủ nghĩa xã hội. Sự phục hồi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự xuất hiện phong trào cánh tả Mỹ latinh và cuộc đấu tranh của nhân loại để thực hiện mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đã phản ánh xu thế tất yếu của loài người là tiến lên lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nhận định của Đảng ta vào thời điểm năm 1991, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào hoàn cảnh khó khăn nhất: "lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, nhưng loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử". 

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” LÀ MỘT YÊU CẦU KHÁCH QUAN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Trong cuốn năm 1999 chiến thắng không cần chiến tranh, Ních xơn đã viết: “Nước Mỹ phải nắm lấy thời cơ lịch sử này, phát động tiến công chính trị tư tưởng, để đẩy nhanh “Diễn biến hoà bình” ở các nước xã hội chủ nghĩa”[1]. Qua đây chúng ta thấy rõ rằng cách đặt vấn đề của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược “diễn biến hoà bình” là phải thắng, không thắng thì sẽ thua. Cách đặt vấn đề thắng - thua một cách trực diện như thế này của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế nói lên tính chất quyết liệt, một mất một còn của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay.

Về quy mô, các chiến lược chống cộng trước đây của chủ nghĩa đế quốc mới giới hạn trong phạm vi giành giật từng địa bàn cụ thể với chủ nghĩa xã hội. Mở cuộc tấn công trên mặt trận tư tưởng để “gieo những mầm mống tư tưởng” chống chủ nghĩa xã hội, chống các đảng cộng sản và công nhân ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tác động về mặt lý luận và tư tưởng đến quá trình “thiết kế” mô hình mới ở các nước xã hội chủ nghĩa hòng làm chệch hướng cải tổ, cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội ngay từ những bước đi lý luận ban đầu. Đồng thời, dùng các hoạt động ngầm để gây dựng các “ngọn cờ” chống chủ nghĩa xã hội, chống các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy tiến trình cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa đi theo hướng kinh tế thị trường tự do, tư nhân hoá và chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập...để gây sức ép “nhằm tạo điều kiện cho những áp lực vốn có này phát triển, qua đó sẽ tạo ra được những chuyển biến hoà bình một cách tích cực”, trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực đế quốc và phản động đề ra phương châm chiến lược tổng quát là: bám sát diễn biến tình hình ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa để tác động đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách vào bên trong các nước.  

“Diễn biến hoà bình” là chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam mà các thế lực đế quốc, phản động đứng đầu là đế quốc Mỹ chủ trương, tổ chức thực hiện từ rất sớm và tăng cường lực lượng, phương tiện, cường độ cao hơn, tính chất, thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt, thâm độc và tinh vi hơn nhằm phá hoại, làm suy yếu và tiến tới lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, lái Việt Nam đi theo quỹ đạo chế độ tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng “Diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc thực sự là nguy cơ và thách thức lớn đối với cách mạng nước ta đang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; do đó, phòng chống “Diễn biến hoà bình” thực sự trở thành nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay và phải được kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng nước ta, thủ đoạn của chúng rất tinh vi, xảo quyệt, nham hiểm và thâm độc, vừa công khai, vừa ngấm ngầm, vừa điên cuồng gây sức ép và thực hiện chiến thuật “đánh mềm”, “đánh hiểm” thông qua nhiều kênh, nhiều đường, nhiều hướng, nhiều phương diện và lực lượng, trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, chúng tiến công phá hoại ta một cách toàn diện.

Về chính trị tư tưởng, địch tập trung xuyên tạc, phủ nhận học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng sử dụng chiêu bài “nhân quyền” kích động đòi Đảng và Nhà Nước ta thực hiện “đa đảng đối lập”, “đa nguyên chính trị”, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, tín ngưỡng tôn giáo phản động, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước

Trên lĩnh vực kinh tế, bằng các hoạt động “Diễn biến hoà bình” địch vừa phá ta về kinh tế, thông qua kinh tế để chống phá ta về chính trị.

Tiến hành chiến lược “Diễn biến hoà bình”, địch rất coi trọng phá ta trên lĩnh vực văn hoá-xã hội của chúng là thực hiện “thẩm thấu hoà bình” về văn hoá, thúc đẩy sự phát triển văn hoá ngoại lai, lấn át, làm suy yếu văn hoá truyền thống-thực chất đó cũng là sự xâm lăng về văn hoá của chủ nghĩa đế quốc đối với các quốc gia độc lập, tiến bộ trên thế giới.

Trên lĩnh vực ngoại giao, kẻ địch thường lợi dụng chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ hợp tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để chống phá, tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế, gây áp lực chính trị, vi phạm thô bạo độc lập tự chủ của dân tộc ta.

Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng chúng tìm cách làm suy yếu tiềm lực của đất nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với lực lượng vũ trang, với âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội nhằm vô hiệu hoá quân đội và công an, hỗ trợ cho các hoạt động bạo loạn lật đổ.

Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua thử thách các cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, càng chứng tỏ vai trò to lớn của quân đội đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Hơn lúc nào hết quân đội phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, khi chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã và đang xâm nhập chống phá cách mạng nước ta và quân đội ta; đòi hỏi quân đội càng không thể đứng ngoài cuộc chiến này, mà phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ này, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách trong tình hình hiện nay.



[1] Từ điển bách khoa- QSVN, Nxb QĐND, H.1996, tr229 

CÓ PHẢI HIỆN NAY SỨ MỆNH LỊCH SỬ ĐÃ THUỘC VỀ TẦNG LỚP TRÍ THỨC?

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nền kinh tế tri thức ra đời, vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng tăng. Vì vậy, có quan điểm cho rằng giai cấp công nhân hiện nay không còn sứ mệnh lịch sử nữa, mà sứ mệnh lịch sử đó đã thuộc về những người trí thức. Vậy có phải tầng lớp trí thức là giai cấp có sứ mệnh lịch sử trong thời đại hiện nay?

          Chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của tầng lớp tri thức đối với đối với sự phát triển của xã hội. Họ là những người đi đầu trong việc tạo ra các phát minh khoa học, có vai trò to lớn đối với việc truyền bá tri thức cho nhân loại. Thế nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình, tầng lớp trí thức không bao giờ có thể trở thành một giai cấp trong xã hội. Họ mãi chỉ là một tầng lớp đặc biệt mà địa vị kinh tế - xã hội phụ thuộc vào giai cấp thống trị. Họ không có hệ tư tưởng độc lập và không có lợi ích đối kháng với giai cấp tư sản cho nên họ không thể dựng nên một chính đảng cách mạng và ngọn cờ cách mạng tiên phong để tập hợp quần chúng lao động để đấu tranh chống áp bức, bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng một chế độ xã hội mang lại sự tư do, bình đẳng cho tất cả mọi người.

          Do đó, dù vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình họ không thể thay thế giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử trong thời đại hiện nay. 

CÓ ĐÚNG LÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY KHÔNG CÒN SỨ MỆNH LỊCH SỬ?

Sự thật không phải là như vậy. Bởi, sự vận động tất yếu của lịch sử thế giới trong gần một thế kỷ qua chính là bằng chứng chân thật để phủ nhận tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn tồn tại và ngày càng phát triển trong cải cách, đổi mới. Ngược dòng lịch sử, việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là công lao của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin và thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), cùng với sự phát triển phong trào cách mạng thế giới thế kỷ XX đã chứng minh một tất yếu không thể phủ nhận vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.

Trong khi đó, bước vào đầu thập niên 1970, thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã có những bước phát triển mới do tận dụng được những thành tựu mới của cách mạng khoa học-công nghệ vào phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng bản chất bóc lột giá trị thặng dư của người lao động làm thuê trong nền sản xuất tư bản không hề thay đổi va ngày càng khắc nghiệt hơn, làm cho giai cấp công nhân ngày càng bần cùng hóa cùng với mỗi bước phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản cũng bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời chống lại “sự bóc lột công nhân, vô sĩ, trực tiếp, tàn nhẫn” của giai cấp tư sản.

Hiện nay, thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng học thuyết C.Mác vẫn sáng ngời, khẳng định giá trị của nó trong nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Với niềm tin vững chắc vào tính tất yếu thắng lợi của sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta đã chỉ rõ “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra những bước phát triển mới, theo quy luật tiến hoá của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghia xã hội.” 

CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN LÀ “MỘT HỌC THUYẾT KHÔNG KHOA HỌC, HIỆN NAY ĐÃ LỖI THỜI”?

Một vấn đề bao trùm lên toàn bộ những quan điểm tư tưởng chính trị sai trái hiện nay là các thế lực thù địch tìm mọi cách phủ nhận tính các mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác, rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin là “một học thuyết không khoa học, hiện nay đã  lỗi thời”? Các thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác-Lênin, với chủ nghĩa xã hội khoa học lớn tiếng rêu rao rằng các nhà kinh đển của chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là những nhà khoa học, vì vậy “lý luận của các ông chỉ là “ý thức hệ hư ảo” chứa đầy tính chất “huyễn tưởng”. Đây rõ ràng là một luận điệu chống Mác, Ăng ghen, Lê Nin một các trắng trợn, mà từ trước đến nay chưa ai dám nói như vậy. Ngay cả đối với những kẻ chống Mác, Ăng ghen, Lê Nin một cách điên cuồng nhất, từ chỗ chống Mác, Ăng ghen, Lê Nin đến căm thù Mác, Ăng ghen, Lê Nin bởi các ông dám tuyên chiến với chế độ tư hữu TBCN và bênh vực quyền lợi của những người lao động, nhưng tuyệt nhiên chưa ai có thể phủ nhận Mác, Ăng ghen, Lê Nin là những nhà khoa học. Bởi lẽ trên thực tế Mác, Ăng ghen, Lê Nin là những nhà khoa học thiên tài, là những “bộ óc kỳ diệu” của nhân loại. Toàn bộ lý luận của Mác - Ăng ghen, Lê Nin là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là một công trình khoa học đồ sộ giải đáp được nhiều vấn đề mà nhân loại đặt ra. Học thuyết của Mác, Ăng ghen, Lê Nin là một học thuyết chặt chẽ, chính xác trong đó tính khoa học rất cao thống nhất với tinh thần cách mạng triệt để. Với sự thiên tài của mình Mác, Ăng Ghen, Lê Nin thực sự đã trở thành những nhà khoa học lỗi lạc nhất của nhân loại mà nhiều học giả, nhà tư tưởng thừa nhận.

Tạp chí truyền tin Châu Âu, Can-Pho-Man nhận xét: Mác là một người vô cùng hiện thực và biện chứng. Tính hiện thực và biện chứng hơn bất cứ ai trong số người đi trước. Nhà xã hội chủ nghĩa Đức B. Phôn - Svây - Xe vốn thường đối lập gay gắt về quan điểm với Mác cũng phải thốt lên: Chủ nghĩa xã hội Mác xít - Đó là một khoa học thực sự. Ngay cả E-Béc-Xtanh đại biểu trứ danh của trào lưu cơ hội xét lại đương thời cũng không thể phủ nhận được rằng: Trong tất cả các khuynh hướng và nhóm phái xã hội chủ nghĩa, học thuyết của Mác giành được sự thừa nhận chung ở tính khoa học mẫu mực và đầy tính thuyết phục. Nhà triết học nổi tiếng người pháp Giắc Đô Ri Đa gần đây cũng đã khẳng định: Mác là một người hết sức vĩ đại- Ông là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI. Bản thân những nhà tư tưởng tư sản cũng phải trân trọng những tri thức của Mác. Họ nghiên cứu chủ nghĩa Mác hết sức tỉ mỉ và nghiêm túc. Thực tế chủ nghĩa Mác đã giúp chủ nghĩa tư bản điều chỉnh một số vấn đề trong cách thức hoạt động của nó, khắc phục được một số nhược điểm cố hữu của nó, xoa dịu phần nào những mâu thuẫn trong xã hội tư bản. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra lối thoát của khủng hoảng là phải có sự can thiệp của nhà nước. Sự thật nhiều nhà nước tư bản hiệnn nay đã vận dụng tư tưởng của Mác vào giải quyết thành công nhiều vấn đề đặt ra trong giải quyết vấn đề khủng hoảng kinh tế, chính trị, như chính quyền Ô - Ba - Ma đã thuyết phục cả Thượng Nghị viện và cả Hạ Nghị viện tài trợ 800 tỷ đô la để cứu các ngân hàng. Ở Đức và ở Pháp đã đưa ra trọn gói để cứu ngành tài chính nước này.  

Trong tình hình phức tạp trong đời sống xã hội chính trị hiện nay, với biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cho dù các thế lực thù địch có tìm mọi cách bôi nhọ, xuyên tạc, đi đến phủ nhận giá trị lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học như thế nào đi chăng nữa thì cũng không làm mất đi tính cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, không làm mất đi tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì sự thắng lợi của mục tiêu thời đại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cũng không làm thay đổi được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân ta đã lựa chọn. Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, vẫn là kim chỉ nam cho hoạt động của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phấn đấu vì sự tiến bộ xã hội.

 

Thứ Hai, 19 tháng 2, 2024

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI LÀ ĐIỀU KIỆN VỮNG CHẮC LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức, cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước không ngừng phát triển, đồng thời là cơ sở vững chắc làm thất bại âm mư, thù đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Thực hiện nhiệm vụ này cần phải tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong tình hình mới; khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013; tuyệt đối không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị sai trái, thù địch đòi đa nguyên, đa đảng.

Tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch./

CƠ QUAN BÁO CHÍ, ĐỘI NGŨ PHÓNG VIÊN CÓ VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC THÔNG TIN XẤU ĐỘC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Các cơ quan báo chí, đội ngũ phóng viên trong năm qua đã phát huy tốt vai trò của mình trong công tác tuyên truyền, định hướng thông tin, ổn định tình hình dư luận xã hội. Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, các cơ quan của nhà nước ở tất cả các cấp, các cơ quan báo chí, hệ thống các Đài phát tranh, truyền hình từ trung ương đến địa phương đã chủ động tăng cường đăng tải, phát sóng tuyến tin bài đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chuyên mục “người tốt, việc tốt”, nêu gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng các chuyên mục, phóng sự đấu tranh “chống diễn biến hòa bình”. Báo, Đài PT-TH tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các chuyên trang, chuyên mục “Vấn đề hôm nay”, “Diễn đàn cuối tuần”, “Phòng, chống diễn biến hòa bình”, “Quốc phòng toàn dân”, Đại đoàn kết”,  “Vì nước quên thân vì dân phục vụ”... phát huy tác dụng tích cực trong nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Đồng thời, trước các vụ việc phát sinh trên địa bàn, bên cạnh việc chỉ đạo các cơ quan báo chí kịp thời đăng tải, cung cấp thông tin chính thống để định hướng dư luận xã hội, các địa phương, đơn vị cũng cung cấp thông tin cho một số cơ quan đại diện, văn phòng thường trú, phóng viên thường trú của các báo để kịp thời đăng bài hoặc sử dụng mạng xã hội giải thích, phản bác thông tin. Đội ngũ phóng viên báo chí đã có sự phối hợp, trao đổi thường xuyên, liên tục với các cơ quan chức năng để nắm bắt thông tin nhanh chóng, chính xác và thể hiện vai trò của mình khi đăng tải thông tin định hướng trên trang mạng xã hội cá nhân. Với lượng theo dõi, tương tác lớn trên các trang cá nhân của phóng viên thường trú, trong thời gian qua cách làm này đã phát huy hiệu quả tích cực trong thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, giải thích, định hướng dư luận.

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đã trải qua 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, có những yêu cầu mới đặt ra đối với đường lối phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu “Đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt được các mục tiêu Đại hội đề ra, không cách nào khác là phải phát huy được khối sức mạnh toàn dân, của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, tranh thủ sức mạnh toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, từ đó đẩy lùi các thế lực thù địch và phản động đang ra sức đẩy mạnh chống phá Đảng ta, đặc biệt là trên mặt trận tư tưởng, chính trị./. 

THƯỜNG XUYÊN ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN SẼ GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

Thường xuyên đổi mới công tác tư tưởng lý luận vửa làm cho lý luận của Đảng thêm sắc bén vừa làm cho đường lối lãnh đạo của Đảng đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và thời đại, đồng thời vừa đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Nghị quyết đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời và hiệu quả. Chúng ta khẳng định rằng, khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công dân trong xã hội có sự giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quán triệt đường lối, quan điểm của Nhà nước, thì không chỉ mỗi người dân mà toàn xã hội sẽ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức trong việc nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của tư tưởng ngoại lai đi ngược lý tưởng xã hội, vô hiệu hóa các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Điều này cũng đã được Nghị quyết Đại hội XIII xác định: “Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương”. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ./. 

GIỮ VỮNG AN NINH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG, LÀ GIỮ VỮNG TRẬN ĐỊA AN NINH TƯ TƯỞNG

 Với ưu thế tốc độ lan truyền thông tin nhanh, diện thông tin rộng, internet, mạng xã hội dần trở thành nhu cầu trong đời sống của con người. Tuy nhiên, đây cũng là công cụ mà các thế lực thù địch, phản động tận dụng tối đa để gia tăng các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là một yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động như hiện nay.

Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quan điểm, phương pháp, cách thức triển khai, cũng như việc xác định đối tượng hướng tới để có những giải pháp hiệu quả, thiết thực, phù hợp với điều kiện mới. Thực tiễn một số nước trên thế giới trong những năm gần đây cho thấy, các phương tiện truyền thông xã hội đã có những tác động, ảnh hưởng lớn đến chính trị. Các phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò là những công cụ tập hợp lực lượng, dẫn dắt trong các cuộc biểu tình, đấu tranh, như các trường hợp của “mùa Xuân Arập” Bắc Phi và Trung Đông (2010), ở Hong Kong (2014), ở Pháp (2018 - 2019)… Các biến động chính trị này xảy ra do nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau, nhưng đều có điểm chung là sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để phát tán những thông tin tiêu cực, kích động nhiều người tham gia biểu tình chống phá…

Ở Việt Nam hiện nay, hằng ngày, có hàng nghìn tin, bài chống phá được các thế lực thù địch tung lên không gian mạng, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Nếu chủ quan, lơ là, mất cảnh giác hoặc thiếu những giải pháp đấu tranh hữu hiệu, để những thông tin xấu độc tràn lan trên không gian mạng sẽ gây nên những hệ lụy khôn lường. Trong các thông tin xấu độc trên không gian mạng, những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch tấn công trực diện vào những vấn đề lý luận cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Sự chống phá này không chỉ ở diện rộng bằng những bài viết dung tục, thù hận, cực đoan một chiều như trước đây, các thế lực thù địch đầu tư xây dựng và sử dụng ngày càng nhiều bài viết đa tầng thông tin, đa quan điểm, với nhiều chiêu trò đánh tráo khái niệm, ngụy tuyên truyền hết sức tinh vi, khiến công tác đấu tranh của ta càng thêm khó khăn, phức tạp

ĐỔI MỚI CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, GÓP PHẦN ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI CÁC QUAN ĐIỂM VÀ HÀNH ĐỘNG SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá chúng ta với những phương thức mới như sử dụng in-tơ-nét, mạng xã hội, các hình thức truyền thông khác nhau để tuyên truyền chống phá; tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội.

Do đó phải đoàn kết, tập hợp lực lượng ở trong và ngoài Đảng, tìm cơ chế, biện pháp, hình thức tổ chức đấu tranh, tuyên truyền phù hợp; tập trung lực lượng mũi nhọn đấu tranh trong từng thời điểm, với từng loại đối tượng, từng vấn đề cụ thể, không để dàn trải, chồng chéo, trùng lặp, thậm chí trái chiều nhau. Ngoài hình thức đấu tranh truyền thống như viết bài đăng tải trên các sách, báo, tạp chí, tổ chức triển lãm, mít tinh…, chúng ta cần bổ sung những hình thức đấu tranh khác như đấu tranh trên không gian mạng bằng những bài viết hoặc xây dựng những tin, bài, video, clip, hình ảnh… để đăng tải trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới trước đây chưa từng có.Tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động là nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết.

Đối với mỗi đảng viên, mỗi tổ chức đảng cơ sở cần xây dựng thành hạt nhân vững chắc tạo nên khối nền tảng và động lực to lớn cho công cuộc đổi mới, góp phần đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, củng cố hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay. 

Ý THỨC CẢNH GIÁC CÁCH MẠNG, TINH THẦN TRÁCH NHIỆM CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN CÓ VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 Thực tiễn cho thấy, cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù giai cấp và dân tộc trên mặt trận tư tưởng- chính trị và cả ngay trong nội bộ Đảng diễn ra hết sức quyết liệt và phức tạp, nhạy cảm, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Cuộc đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ hệ tư tưởng - lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng luôn gắn liền với việc bảo vệ các giá trị lợi ích chân chính của quốc gia, dân tộc. Trong lịch sử cũng như hiện tại, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không bao giờ từ bỏ cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại cách mạng Việt Nam với những thủ đoạn, phương thức, hình thức rất tinh vi xảo quyệt, lúc công khai trắng trợn, lúc ngấm ngầm, âm thầm, thậm chí cũng được che đậy dưới nhiều hình thức, núp dưới những vỏ bọc, danh nghĩa, chiêu bài tinh vi. Vì vậy, phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức trách nhiệm chính trị, bản lĩnh và lập trường giai cấp; kiên định cuộc đấu tranh, gắn việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Kịp thời phát hiện và khắc phục những yếu kém, lạc hậu trong công tác tư tưởng- lý luận. Đây là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu đặt ra đối với mọi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng.

Trên mặt trận tư tưởng - chính trị, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tổ chức những đợt tấn công với quy mô lớn, cường độ cao, có tổ chức chặt chẽ, câu kết trong ngoài nhằm chống phá công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hòng thực ý đồ chuyển hóa chế độ chính trị, tác động thay đổi tư tưởng, tâm lý, làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành “lực lượng chính trị đối lập ở bên trong”, làm ngòi nổ lật đổ, xóa bỏ chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam…Do đó, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải gắn liền với việc không ngừng mở rộng dân chủ trong Đảng, trong xã hội, đề cao trách nhiệm và phát huy vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân trong cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình, “tự soi, tự sửa” theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 các khóa XI và khóa XII để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống trong nội bộ, hạn chế đến mức thấp những nhân tố bất ổn từ bên trong

XÂY DỰNG BỘ MÁY TỔ CHỨC, ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH VÀ MÔ HÌNH, PHƯƠNG THỨC, BIỆN PHÁP, CƠ CHẾ ĐẤU TRANH PHÙ HỢP SẼ GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

Trong quá trình đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận, về mặt tổ chức lực lượng, cơ chế, biện pháp đấu tranh đã bước đầu phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, tính thiết thực, tính chiến đấu, tính khoa học của các công trình phản bác, phê phán luận điểm sai trái, thù địch chưa thật thuyết phục. Mô hình tổ chức bộ máy các Ban Chỉ đạo 35 chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả, thậm chí chồng chéo; việc trao đổi, chia sẻ thông tin, tài liệu còn nhiều bất cập. Vì vậy, cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sắp xếp kiện toàn bộ máy chỉ đạo, mô hình và cơ chế phương thức lãnh đạo cuộc đấu tranh phù hợp, hiệu quả và thiết thực hơn. Đặc biệt, không nên coi nặng về số lượng công trình, bài viết, cá nhân, đơn vị tổ chức đấu tranh phản bác mà quan trọng hơn là tìm cơ chế, biện pháp, hình thức tổ chức đấu tranh, tuyên truyền phù hợp, tập trung lực lượng mũi nhọn đấu tranh trong từng thời điểm, với từng loại đối tượng, từng vấn đề cụ thể, không để dàn trải, chồng chéo, trùng dẫm, thậm chí trái chiều nhau. Nghiên cứu ban hành quy định phổ biến, tuyên truyền công khai, rộng rãi các công trình nghiên cứu, bài viết phản bác có chất lượng, hàm lượng khoa học cao, sắc sảo, thuyết phục về lý luận và thực tiễn; mang tính hệ thống, toàn diện về mặt học thuật...

Trong quá trình tổ chức cuộc đấu tranh phải hết sức quan tâm chăm lo lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận chuyên nghiệp hoặc kiêm nhiệm có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ, tâm huyết tham gia cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng- lý luận. Đây là nguồn lực quan trọng bảo đảm tính chiến đấu, tính Đảng, tính khoa học, tính thuyết phục của cuộc đấu tranh này trên cả bình diện vĩ mô và vi mô. Bên cạnh đó, phải chú trọng phát huy cao độ lợi thế, tính chiến đấu của các công cụ thông tin, truyền thông hiện đại của Đảng, Nhà nước và các cơ quan ban, ngành, địa phương, bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, thiết thực, hiệu quả và tính lan tỏa xã hội./. 

XÂY DỰNG, CỦNG CỐ VÀ HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ SẼ LÀM CHỖ DỰA VỮNG CHẮC CHO CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG - LÝ LUẬN

Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, thành lập các ban chỉ đạo có chức năng, nhiệm vụ là đầu mối cung cấp thông tin, phối hợp chỉ đạo công tác đấu tranh của nhiều lực lượng, như: các cơ quan nghiên cứu, giáo dục lý luận, tuyên giáo, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, truyền thông, báo chí, xuất bản...Điều quan trọng là phải đề ra nội dung phù hợp, kế hoạch, chương trình hành động mang tính toàn diện, có tầm chiến lược trong từng thời kỳ, trên từng mặt, lĩnh vực hoạt động, trên từng địa bàn, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và ở khu dân cư....Đây là những căn cứ, cơ sở lý luận quan trọng để đẩy mạnh cuộc đấu tranh một cách thường xuyên, liên tục, không làm theo lối phong trào.

Thực tiễn, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng diễn ra rất quyết liệt, khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do, tôn giáo, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Việc nhanh chóng cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng để tăng cường, hoàn thiện cơ sở pháp lý thông qua hệ thống luật pháp, các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, của Chính phủ và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là yêu cầu tất yếu, phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay. Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu cụ thể hóa, pháp luật hóa đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ thể chế xã hội chủ nghĩa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước một cách phù hợp, nhất là các bộ luật quan trọng liên quan đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có như vậy các thế lực thù địch, phản động mới không có cơ sở để thực hiện các hoạt động chống phá./. 

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG SẼ HUY ĐỘNG ĐƯỢC SỨC MẠNH TỔNG HỢP ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và các giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra rất quyết liệt, phức tạp, không ngơi nghỉ, dường như chưa có điểm dừng, điểm kết thúc. Mọi biểu hiện mất cảnh giác, lơ là, non kém về chính trị, buông lỏng trận địa đấu tranh tư tưởng đều có thể dẫn đến những kết cục khó lường, gây nguy hại cho chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, làm xói mòn niềm tin, sức sống của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhân dân.

Do vậy, Đảng phải giữ vững và kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, tỏa sáng, phát huy sức sống là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng- lý luận, trước hết là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng từ trung ương đến cơ sở.Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân thấu hiểu bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin; tính mở của học thuyết, tư duy biện chứng lý luận luôn gắn liền với thực tiễn, chứa đựng hơi thở của thời đại, của cuộc sống, như sinh thời Lênin đã từng căn dặn:“Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[5]. Bản chất của tư duy biện chứng là không tách rời thực tiễn và luôn lấy thực tiễn để khẳng định chân lý. Cần kịch liệt phê phán những nhận thức, phương pháp tư duy và cách tiếp cận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo lối cực đoan, một chiều, giáo điều, bảo thủ, nhất là thái độ phiến diện, hẹp hòi, máy móc trong ứng xử với các giá trị văn minh nhân loại, đem đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội một cách gượng ép theo ý muốn chủ quan, minh họa đơn giản. Điều này vô tình biến những nguyên lý cơ bản, hệ thống lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin thành những quan điểm khô cứng, nguyên mẫu, không có mối liên hệ nào với thực tiễn và cuộc sống sinh động của thế giới đang vận động, phát triển; không đến xỉa gì đến tính đặc thù của các quốc gia, dân tộc... Phải tiến hành một cuộc đấu tranh toàn diện trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận, tuyên giáo nhằm bảo vệ tính cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung mũi nhọn đấu tranh bảo vệ vai trò và quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cấp ủy đảng các cấp phải thống nhất nhận thức và hành động, quan tâm chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt các lực lượng, các ngành, các cấp vào cuộc mà lực lượng xung kích, nòng cốt là cơ quan tuyên giáo, cơ quan truyền thông, thông tin tuyên truyền, cơ quan nghiên cứu khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương, các ban đảng các cấp; lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, các nhà nghiên cứu lý luận, các học giả. Tập trung đấu tranh phản bác, vạch trần sự giả dối, xảo biện, phát hiện, ngăn chặn các luận điệu sai trái, độc hại của các thế lực thù địch tấn công phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thông qua các hình thức, phương thức, biện pháp phù hợp để huy động được sức mạnh tổng hợp mọi nguồn lực, trí tuệ, cơ chế chính sách phục vụ cuộc đấu tranh. Điều quan trọng là có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn đưa đất nước phát triển liên tục, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, tăng cường uy tín, vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

TẠI SAO PHẢI ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Xuất phát từ bản chất cách mạng, khoa học và giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được kiểm nghiệm, khẳng định bởi thực tiễn trong 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa cộng sản, ánh sáng chân lý của mọi thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy ở hệ lý luận mácxít con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công – Đây là mong muốn của Nhân dân Việt Nam từ ngàn đời nay: đấu tranh giải phóng dân tộc và nguyện vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của.

Xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ ngày thành lập, Hồ Chí Minh khẳng định là một Đảng kiểu mới - Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Nhận thức sâu sắc về nguy cơ phân liệt, tan rã về chính trị, tư tưởng và tổ chức, từ rất sớm, Đảng ta đã thấy rõ tính tất yếu và luôn chủ động đề ra chủ trương phải bảo vệ đảng. Vì vậy, trong Văn kiện chính thức:  (Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương), tháng 10/1930, Đảng ta chỉ rõ: “Giải thích cho công nhân mục đích và đường lối của Đảng Cộng sản trong các vấn đề liên quan đến cuộc sống của công nhân và thái độ đối với các sự kiện lớn diễn ra trong nước. Giải thích cho họ rằng, Đảng Cộng sản là Đảng của họ, vì vậy họ cần phải bảo vệ Đảng”(12). Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nhà nước Việt Nam – Nhà nước Dân chủ Cộng hòa đầu tiên ở Châu Á, là minh chứng sinh động về tính đúng đắn của Đảng và Bác Hồ khi vận dụng sáng tạo, khoa học Chủ nghĩa Mác – Lênin trong giải phóng dân tộc ở Việt Nam.  

Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tìm mọi cách tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta, thủ đoạn thâm độc của chúng là làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ, lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Điều đó cho thấy việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng.

Hiện nay, sự phát triển, bùng nổ về công nghệ thông tin đã tác động đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đó đã và đang làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nếu chúng ta không tiếp tục đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì không những thành quả cách mạng đã giành được sẽ bị các thế lực thù địch, phản động cướp mất, mà còn dẫn đến tình cảnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chúng ta sẽ rơi vào nguy cơ “tự hủy hoại mình”, không thể thực hiện được khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM GỒM NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN NÀO?

Đảm bảo việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng thiết yếu vùng dân tộc thiểu số; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc.

Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; chú trọng đào tạo nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu nhập ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác.

Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường.

Chủ đầu tư các dự án quy hoạch, xây dựng có ảnh hưởng tới đất đai, môi trường, sinh thái và cuộc sống của đồng bào các dân tộc, phải công bố công khai và lấy ý kiến của nhân dân nơi có công trình, dự án được quy hoạch, xây dựng quy định của pháp luật; tổ chức tái định cư, tạo điều kiện để người dân đến nơi định cư mới có cuộc sống ổn định tốt hơn nơi ở cũ. Chính quyền ở nơi có người đến định cư có trách nhiệm phối hợp với chủ đầu tư đảm bảo định canh, định cư lâu dài, tạo điều kiện để đồng bào ổn định cuộc sống.

Thực hiện quy hoạch, sắp xếp các điểm dân cư tập trung một cách hợp lý đối với những địa bàn khó khăn, đảm bảo cho đồng bào phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm dân tộc, vùng miền.

Thực hiện các chương trình, đề án xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất cho nông dân thiếu đất, nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất, giao rừng cho hộ gia đình ở vùng dân tộc thiểu số, chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.

Tổ chức phòng, chống thiên tai và ứng cứu người dân ở vùng bị thiên tai, lũ lụt. Hỗ trợ kịp thời những dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt để ổn định và phát triển.