Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG THỰC HIỆN CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Việt Nam là quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định công tác tôn giáo (CTTG) là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy khóa IX của Đảng chỉ rõ: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Quân đội nhân dân Việt Nam là một thành tố của hệ thống chính trị nước ta, có chức năng, nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Từ truyền thống, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và chức năng nhiệm vụ của quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì dân, đặt dước sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta có vị trí, vai trò quan trọng, trách nhiệm lớn  trong tham gia thực hiện CTTG của Đảng, Nhà nước hiện nay. Trong quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, với đồng bào các tôn giáo. Do đó, quân đội tham gia thực hiện CTTG là vinh dự, trách nhiệm và tình cảm sâu nặng của quân đội đối với đồng bào các tôn giáo, thể hiện mối quan hệ quân dân “cá nước”, thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Hơn nữa, cán bộ, chiến sĩ trong quân đội là con em của đồng bào các dân tộc, tôn giáo cả nước. Quân đội tham gia thực hiện CTTG của Đảng và Nhà nước là thực hiện chức năng của đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, góp phần hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

Mặt khác, quân đội tham gia thực hiện CTTG cũng chính là tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội trên địa bàn vùng tôn giáo vững mạnh. Bởi thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng trên các lĩnh vực trong tham gia thực hiện CTTG, quân đội không chỉ góp phần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn, giúp đồng bào các tôn giáo phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, mà còn củng cố mối quan hệ mật thiết với chính quyền và nhân dân địa phương, tăng cường tình đoàn kết quân dân. Những yếu tố đó là cơ sở và điều kiện thuận lợi để quân đội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình và xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt.

Cùng với đó, tình hình tôn giáo ở nước ta hiện còn tiềm ẩn phức tạp. Quân đội tham gia thực hiện CTTG đã góp phần đấu tranh, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá ta của các thế lực thù địch. Bởi vậy, toàn quân đã thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, pháp lệnh, luật... về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã xác định: “Thực hiện công tác tôn giáo là nhiệm vụ chính trị của quân đội, các cấp, các ngành, của mọi quân nhân”. Cấp ủy, tổ chức chỉ huy các cấp trong quân đội đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân thống nhất triển khai tham gia thực hiện CTTG của Đảng, Nhà nước đến các đơn vị cơ sở. Từ nhận thức đúng đắn, tinh thần trách nhiệm cao đối với vấn đề tôn giáo và CTTG ở nước ta, các cơ quan, đơn vị quân đội đã chủ động, tích cực phát huy vai trò trong tham gia thực hiện CTTG, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

NGUYÊN TẮC, NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở các nguyên tắc: Thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các dân tộc; tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân các dân tộc; đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, lâu dài, chặt chẽ; đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái. Phương thức để thực hiện đoàn kết dân tộc là: tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục; xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số; kết hợp đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức tối đa trận tuyến thù địch; đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế. Mục tiêu hướng đến cũng chính là cơ sở của khối đoàn kết dân tộc nhằm phát triển toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, phát huy sức mạnh của các dân tộc trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc củng cố, xây dựng, phát huy đoàn kết các dân tộc là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam - bao gồm đoàn kết trong Đảng, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, đoàn kết giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, đoàn kết quốc tế. Củng cố và tăng cường đoàn kết dân tộc góp phần quan trọng để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đoàn kết dân tộc ở đây là đoàn kết trên phương diện tộc người ở nước ta, khác với đại đoàn kết toàn dân tộc là đoàn kết trên phương diện quốc gia dân tộc Việt Nam.

Nội dung thực hiện đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam hiện nay tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị các cấp, các lực lượng đứng chân và toàn thể đồng bào các dân tộc trên địa bàn về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, địa phương về dân tộc và đoàn kết các dân tộc; về truyền thống yêu nước, đoàn kết của các dân tộc địa phương; sự đoàn kết, nhất trí, đồng thuận giữa các dân tộc với Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang...

Thứ hai, phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, tạo nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc của khối đoàn kết các dân tộc. Điều này đảm bảo lợi ích thiết thực của đồng bào các dân tộc, là cơ sở quan trọng của khối đoàn kết các dân tộc nước ta, đồng thời đảm bảo giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các dân tộc, củng cố niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và lực lượng vũ trang.

Thứ ba, tổ chức thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng nhằm thu hút sự tham gia của đồng bào các dân tộc như: phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu  dân cư”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”… Quan tâm giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trên địa bàn; phòng, chống, ngăn chặn tư tưởng và hành động chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc nhỏ...

Thứ tư, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại, chia rẽ dân tộc, các hoạt động làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Chủ động đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch như: kích động ly khai, “tự trị”, truyền đạo trái pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự, chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC

Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định đoàn kết dân tộc là nguyên tắc cơ bản, nhất quán về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam cùng với các nguyên tắc: bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đảng chỉ rõ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng xác định một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng bấy giờ là đoàn kết công nông các dân tộc để tập hợp lực lượng cách mạng, giải phóng dân tộc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài”, Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Đảng chủ trương tăng cường đoàn kết dân tộc để “kháng chiến và kiến quốc”, coi: Chính sách dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng trong chính sách đại đoàn kết của Đảng, và khẳng định: Chính sách của Đảng và Chính phủ lúc này là làm cho các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đặng kháng chiến, đánh bại quân xâm lược và cùng nhau xây dựng một quốc gia Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường. Trong đó mọi dân tộc đều bình đẳng và giúp đỡ nhau cùng tiến. Trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết số 24, Hội nghị lần thứ Bảy khóa IX của Đảng về Công tác dân tộc đã khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Quan điểm đoàn kết các dân tộc của Đảng dựa trên cơ sở  thống nhất lợi ích chung của quốc gia dân tộc, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau, cùng phát triển. Việc củng cố, phát huy khối đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

Như vậy, đoàn kết dân tộc ở nước ta là sự liên kết, gắn bó, cố kết, xích lại gần nhau, có trách nhiệm với nhau giữa các dân tộc - tộc người trong nước, tạo thành một khối vững chắc trên cơ sở lợi ích và mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là khối đoàn kết 54 dân tộc, đoàn kết giữa dân tộc đa số - dân tộc Kinh với các dân tộc thiểu số, đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số với nhau; đoàn kết giữa các dân tộc với Đảng, Nhà nước, tạo thành một khối vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết các dân tộc vừa là vấn đề chiến lược, cội nguồn sức mạnh và nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta, đồng thời là nguyên tắc cơ bản, nhất quán, xuyên suốt trong quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta, nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh của cả 54 dân tộc, sức mạnh truyền thống và hiện đại, sức mạnh về vật chất và tinh thần, đặc biệt là sức mạnh về con người trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Ở đây, đoàn kết dân tộc là sự đoàn kết giữa 54 dân tộc nước ta với nhau, đồng thời là sự đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc với Đảng, Nhà nước, với hệ thống chính trị địa phương và lực lượng vũ trang đứng chân trên một địa bàn cụ thể cũng như cả nước. Đó là biểu hiện sự gắn bó chặt chẽ trong quan hệ dân tộc trên phương diện mối quan hệ giữa các tộc người với nhau, giữa các tộc người với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước - chủ thể lãnh đạo, quản lý và là hạt nhân của khối đoàn kết dân tộc.

TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết nên các luận điểm hết sức sâu sắc về đoàn kết dân tộc. Trước hết, Người khẳng định: Nước ta có nhiều dân tộc, đấy là điểm tốt. Theo Người, đoàn kết dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bởi vì: Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người; muốn cách mạng thành công “thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mạng”. Hồ Chí Minh đúc kết chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Người coi đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ: Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc. Người căn dặn: Nhờ đoàn kết tranh đấu của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em ruột thịt một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa. Song, đoàn kết dân tộc phải tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông, trong Mặt trận dân tộc Thống nhất do Đảng lãnh đạo; đảm bảo thống nhất và hài hòa giữa lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích chung của cách mạng và lợi ích của đồng bào các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở đảm bảo bình đẳng, tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người viết: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Tất cả các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn Tổ quốc và để ủng hộ Đảng, Nhà nước. Người nêu rõ: Đồng bào tất cả các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no. Người cũng luôn nhấn mạnh, đoàn kết dân tộc phải đi đôi với đấu tranh chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, các hành vi và hoạt động gây tổn hại đến đoàn kết dân tộc.

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra quan điểm khoa học, cách mạng về vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc trong cách mạng XHCN. Vấn đề dân tộc không chỉ xuất hiện trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc mà còn xuất hiện trong nội bộ mỗi tộc người, trong quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia. V.I.Lênin đã lấy thực tiễn nước Nga để phân tích tình hình quan hệ giữa các dân tộc và cho rằng: Trong thời kỳ còn tồn tại chế độ Nga Sa hoàng thì vấn đề dân tộc ở Nga là quan hệ giữa dân tộc Đại Nga với các dân tộc thiểu số. Đối với các dân tộc thiểu số trước kia bị Nga hoàng thống trị, Nhà nước Xô viết phải “ân cần, niềm nở, nhân nhượng”, ưu tiên, tạo điều kiện giúp đỡ các dân tộc nhanh chóng phát triển, gắn bó với sự phát triển chung của đất nước. Chủ nghĩa Mác - Lênin coi giải quyết vấn đề dân tộc, thực hiện đoàn kết dân tộc là một nhiệm vụ chiến lược của các mạng XHCN, gắn với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, vấn đề giai cấp gắn bó chặt chẽ với vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN. Các ông chỉ rõ: Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc gắn với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân và cách mạng vô sản do giai cấp công nhân tiến hành. Trong tiến trình cách mạng, giai cấp công nhân phải xác lập được vai trò lãnh đạo, lôi cuốn, tập hợp được quần chúng nhân dân các dân tộc ở trong nước và trên thế giới tích cực tham gia cách mạng. Do đó, đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế trở thành chiến lược của cách mạng XHCN, bảo đảm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã chỉ rõ nội dung cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho giai cấp công nhân. Có điều, quyền tự quyết dân tộc – liên hiệp hoặc phân tách, là quyền của các quốc gia dân tộc, đảm bảo trên lập trường giai cấp công nhân và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, không phải là quyền “tự quyết” của các tộc người trong quốc gia.

Chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ rõ cơ sở, mục tiêu, lực lượng, nguyên tắc, con đường để đoàn kết dân tộc. Đó là, phải dựa trên sự thống nhất và bảo đảm hài hòa lợi ích cơ bản giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp trong xã hội, vì: Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có lợi ích chung; đồng thời, phải dựa trên sự hiểu biết, tôn trọng và tin cậy giữa các dân tộc. Lực lượng đoàn kết các dân tộc bao gồm mọi thành viên xã hội, không phân biệt dân tộc, trên nền tảng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Việc xây dựng, thực hiện đoàn kết các dân tộc phải gắn liền với giải quyết các nội dung khác của vấn đề dân tộc, phù hợp với quá trình dân tộc ở mỗi nước, đi đôi với đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa dân tộc và sự chống phá của kẻ thù.

ĐOÀN KẾT DÂN TỘC – MỘT TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Đoàn kết là hợp nhiều người thành một khối vững chắc, cùng một lòng, một dạ nhất trí với nhau, là sự ủng hộ các phong trào, các tổ chức hoặc cá nhân trên cơ sở quan điểm và lợi ích gần nhau hoặc thống nhất. Như vậy, có thể thấy, đoàn kết là sự cố kết, liên kết, gắn bó, chung sức đồng lòng giữa các cá nhân, các tổ chức, các cộng đồng người tạo thành một khối cộng đồng vững chắc trên cơ sở sự tương đồng, thống nhất về quan điểm, lợi ích nhằm đạt đến mục tiêu chung mà các thành viên của khối cộng đồng hướng đến. Đoàn kết diễn ra với các qui mô, cấp độ, nội dung và hình thức khác nhau như: đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội, giai cấp; đoàn kết gia đình, dòng họ, làng bản, dân tộc, tôn giáo, đoàn kết quốc gia, đoàn kết quốc tế. Trong quốc gia đa dân tộc, đoàn kết dân tộc là đoàn kết giữa các tộc người trong nước thành một khối thống nhất dưới sự lãnh đạo, quản lý của các đảng, nhà nước cầm quyền nhằm thực hiện mục tiêu, lợi ích chung.

Đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam là sự gắn bó, cố kết, xích lại gần nhau, có trách nhiệm với nhau giữa các dân tộc thiểu số, giữa dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, giữa đồng bào các dân tộc với các tổ chức, lực lượng trong hệ thống chính trị ở một khu vực cũng như trên cả nước nhằm phát triển toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đoàn kết các dân tộc là một truyền thống quý báu, tạo nên sức mạnh vô địch của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhờ đó, các dân tộc Việt Nam đã vượt qua những thử thách cam go trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, trong chinh phục thiên nhiên, lao động sản xuất, xây dựng đất nước. Truyền thống cao đẹp ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nâng lên một tầm cao mới, là một trong những yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, 54 dân tộc nước ta không phân biệt đa số hay thiểu số, đã và đang cùng chung sức đồng lòng phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ Hai, 10 tháng 1, 2022

BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA QUÂN ĐỘI

Trong điều kiện mới, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam nhằm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta và Bộ đội Cụ Hồ. Trong đó cần quan tâm một số vấn đề sau.  

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Vì vậy, sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta, bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Để bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam tiếp tục được giữ vững và phát huy trong thời kỳ mới, phải chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là hạt nhân, nòng cốt trong việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.

Hai là, tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Để phát huy vai trò của Nhà nước trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ, Nhà nước cần ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách trong xây dựng quân đội, thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với quân đội. Trong đó, Nhà nước cần có chính sách bảo đảm tốt hơn về vật chất, tinh thần; về trang bị, phương tiện kỹ thuật cho quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam trong tình hình mới. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; chính sách đối với những người có công với cách mạng, thương binh và gia đình liệt sĩ; chính sách tạo điều kiện việc làm cho quân nhân xuất ngũ...

Ba là, phát huy tốt vai trò của đồng bào các dân tộc trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. “Quân với dân như cá với nước” là một cách thể hiện rất độc đáo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa quân đội và nhân dân Việt Nam, bắt nguồn từ trong bản chất, truyền thống của quân đội cách mạng do Đảng ta giáo dục và rèn luyện. Trong tình hình hiện nay, trước những tác động của điều kiện kinh tế-xã hội, nhất là trước những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường cũng như sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, thì sự thương yêu, giúp đỡ của nhân dân đối với quân đội càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.

Bốn là, phát huy vai trò của quân đội trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Vấn đề cơ bản có tính quyết định trực tiếp là sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất của quân đội trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ. Việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ là công việc của chính mỗi cán bộ, chiến sĩ; thể hiện cụ thể trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cũng như trong sinh hoạt đời thường của mỗi quân nhân. Để giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Năm là, tích cực triển khai đấu tranh phòng, chống sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy đảng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái, xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Bảo đảm các hoạt động đấu tranh theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng về quan điểm chính trị, sâu sắc về lý luận khoa học, sắc bén trong phương pháp và đạt hiệu quả cao. Huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan báo chí, truyền thông... tiến công chống các quan điểm thù địch, sai trái xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Bên cạnh đó, cần chủ động cung cấp đầy đủ những thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức để kịp thời định hướng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.


NHIỀU LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CẦN PHÊ PHÁN, BÁC BỎ

Trong quá trình thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, nhất là xuyên tạc về lòng trung thành của quân đội với Đảng, với Nhà nước và nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của quân đội với những lời lẽ hết sức phản động, phản khoa học nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, hòng làm suy giảm sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.

Sự xuyên tạc đó được thể hiện ở một số luận điệu như: “Lực lượng vũ trang (LLVT) chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức, lực lượng nào”; “xóa bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”; “quân đội là chỉ của quốc gia dân tộc” và có nhiệm vụ “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân chứ không phải bảo vệ chế độ nào”(!). Khi Quân đội ta thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác, tiến hành công tác dân vận, giúp đỡ nhân dân giải quyết các “điểm nóng” về xã hội, đấu tranh chống việc lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo thì các thế lực lại xuyên tạc, vu cáo “quân đội cứu Đảng, đàn áp nhân dân”... Lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một số cán bộ, chiến sĩ trong quan hệ với nhân dân, các thế lực thù địch ra sức kích động nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân: “Tuy gọi là QĐND song thực chất chỉ là công cụ bạo lực của một tập đoàn cầm quyền, không phải là quân đội mang lại lợi ích cho dân”(!)... Chưa dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn xuyên tạc nghĩa vụ quốc tế vô sản cao cả của QĐND Việt Nam đối với cách mạng Lào và Campuchia trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trước đây. Chúng xuyên tạc việc QĐND Việt Nam cử lực lượng tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng lại là “hành động xâm lược”.

Những luận điệu trên được các thế lực thù địch “nhai đi nhai lại” nhiều lần, do vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt, một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ, có thể bị tiêm nhiễm những luận điệu phản động đó. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết phê phán, đấu tranh.

BÀI HỌC TỪ LỜI NGƯỜI NĂM ẤY

Lịch sử còn ghi câu chuyện về Thiếu tướng, Giáo sư Trần Đại Nghĩa, người thanh niên yêu nước đã đi du học ở Pháp và trở thành kỹ sư của một hãng chế tạo máy bay, kiếm rất nhiều tiền nhưng vẫn ấp ủ ước mơ chế tạo vũ khí để đánh Pháp. Năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, trong cuộc gặp gỡ kiều bào Việt ở Pháp, Bác Hồ đã lắng nghe nguyện vọng của ông. Bác nói: “Chú về nước chế tạo vũ khí, cách mạng sẽ rất cần. Nhưng trong nước khổ lắm. Chú có chịu nổi không?”. Ông đã nhận vượt qua mọi gian khổ, đã từ bỏ mức lương tương đương 20 lạng vàng một tháng để về Việt Nam theo cách mạng với hành trang là 1 tấn sách. Sau này, những đóng góp của ông cho ngành quân giới và công nghiệp quốc phòng Việt Nam vô cùng to lớn, góp phần làm nên chiến thắng. Thế nhưng, ông sống vô cùng giản dị, chấp nhận mọi kham khổ, chẳng có một đặc quyền đặc lợi nào. Ngày 30-4-1975, khi Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, ông ghi vào cuốn sổ tay của mình: “Đã hoàn thành nhiệm vụ”. Hoàn thành nhiệm vụ với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, với ông đó là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời, như sau này ông đã trả lời một nhà báo: "Bạn bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng về khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả".

Ngày này 62 năm trước, ngày 9-12-1959, Bác Hồ viết bài “Tiêu chuẩn của người đảng viên” đăng trên Báo Nhân Dân. Bài viết rất ngắn gọn, với 6 “gạch đầu dòng” nói lên 6 tiêu chuẩn của người đảng viên. Trong đó, tiêu chuẩn thứ ba là “đặt lợi ích của Ðảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng”. Như Giáo sư Trần Đại Nghĩa, khi người đảng viên thực hiện đúng những điều ấy thì họ sẽ tìm thấy hạnh phúc chân chính của mình.

Lịch sử còn ghi những dòng cảm động về Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội ta những ngày đầu thành lập. Nhận thấy một trong những việc đầu tiên là đội cần có tiền để chi tiêu, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho đồng chí Vũ Anh là cán bộ tài chính của Đảng, xuất 500 đồng làm quỹ chi tiêu cho đội. Thời điểm ấy, Đảng ta chưa ra hoạt động công khai, 500 đồng là số tiền không nhỏ, có thể mua được hơn 7 tấn thóc. Đồng chí Lộc Văn Lùng, người Tày, quê Lạng Sơn, tính tình thật thà, chất phác, lại biết căn cơ, được giao quản lý số tiền 500 đồng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này đã nhận xét về người quản lý đầu tiên như sau: “Coi trọng từng đồng xu, từng hạt gạo của công quỹ, chỉ có một nguyện vọng là được trao lại nhiệm vụ quản lý cho một đồng chí khác để trực tiếp cầm súng chiến đấu”.

Khoản chi đầu tiên của Quân đội ta là để mua một cái chảo, đủ nấu cơm cho 34 người. Để tiết kiệm, đồng chí Lùng quyết định không mua chảo mới mà vào bản người Tày mua một cái chảo cũ, người dân dùng để nấu thắng cố, nhưng vẫn còn tốt. Khoản chi thứ hai của Quân đội ta là mua thuốc ký ninh, do lúc bấy giờ, sốt rét đang hoành hành rất dữ dội... Một chi tiết xúc động nữa là đồng chí Dương Mạc Thạch, chính trị viên đầu tiên của đội đã phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu khi biết đội gặp rất nhiều khó khăn về tài chính (chỉ được cấp 500 đồng bạc Đông Dương), đồng chí đã đứng ra vận động một số người quyên góp ủng hộ và bàn bạc, vận động gia đình mình ủng hộ đội số tiền rất lớn, lên tới 500 đồng mà không tính toán thiệt hơn.

 Hạnh phúc của những người thuộc hàng khai quốc công thần của đất nước, của Quân đội ta ngày ấy là như thế. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta vẫn luôn nhắc nhở, căn dặn quân đội, lo lắng cái xấu, cái tiêu cực có thể xâm nhập vào mỗi đơn vị. Người hiểu, tiền bạc, châu báu không làm nên giá trị và hạnh phúc cho con người, thậm chí nó còn giết hại chính con người bởi lòng tham vô đáy. Chúng ta đã nhiều lần nhắc đến nỗi trăn trở của Bác Hồ trong đêm trắng trước vụ án Trần Dụ Châu, kẻ đã trả giá khi vơ đầy túi tham trên sự thiếu thốn cùng cực của đồng bào, chiến sĩ.

Cuốn sách “Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ” do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2006 còn ghi lại một câu chuyện đáng nhớ khác:

Có một lần Bác đến thăm và nói chuyện tại buổi lễ tổng kết lớp học chính trị của bộ đội. Bác lấy ra một cuốn sổ nhỏ, rồi thong thả đọc rõ những số liệu mà Bác đã tìm hiểu được của nhà trường. Sau khi đọc xong, Bác nhắc nhở rằng ở đây chỉ có chừng này cán bộ mà đã lãng phí, tham ô như vậy. Thử hỏi nếu cán bộ trong toàn quân mà cũng phạm khuyết điểm như các chú thì thiệt hại cho Nhà nước, cho nhân dân biết bao nhiêu? Sau đó, Bác hỏi bao nhiêu chú đã có vợ con. Khoảng một phần ba giơ tay. Bác chỉ một đồng chí cả hai lần đều giơ tay và nói:

- Bác hỏi thật chú, chú có bao giờ ăn bớt phần cơm của vợ con chú không?

Đồng chí cán bộ nọ đứng lên thưa không làm điều đó. Chờ cho không khí hội trường lắng xuống, Bác mới nhắc nhở điều thật thấm thía khi vì sao có một số cán bộ thấy tài sản của nhân dân, tiêu chuẩn của chiến sĩ vẫn tìm cách đút túi.

Những lời căn dặn của Người vẫn còn nguyên giá trị ngày hôm nay, nhất là trong bối cảnh tác động của mặt trái thị trường, thời gian qua đã có một số cán bộ trong LLVT sa ngã, bị xử lý theo kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước.

ĐẶC QUYỀN, ĐẶC LỢI VÀ SỰ ĐÁNH MẤT

Trong cuốn sách “Tính trước nguy cơ-suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng” xuất bản năm 2017, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã chỉ ra rằng: Nhiều học giả phương Tây, trong đó có David M.Kotz, cho rằng, ngoài nguyên nhân lãnh đạo ra, sự theo đuổi lợi ích vật chất và danh lợi là nguyên nhân quan trọng khiến giới tinh anh trí thức Liên Xô biến chất nhanh chóng.

Sau này, khoảng cách thu nhập giữa cán bộ Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân lên tới hàng chục lần. Shevchenko-nhà ngoại giao cấp cao của Liên Xô chạy trốn đến phương Tây-đã mô tả cuộc sống của tầng lớp đặc quyền như sau: “Họ phê phán cách sống của tầng lớp tư sản, nhưng bản thân lại một lòng một dạ chạy theo cách sống đó; họ chỉ trích chủ nghĩa tiêu thụ là sự phản ánh của tư tưởng dung tục, là kết quả độc hại của ảnh hưởng phương Tây, nhưng những người hưởng thụ đặc quyền lại hết sức coi trọng việc hưởng thụ các đồ tiêu dùng và vật chất của phương Tây".

Dưới thời Gorbachev, cuốn sách của tác giả Boldin cho hay, ông này có tài khoản ngân hàng cá nhân mấy triệu USD; xây dựng dinh thự ở nhiều thắng cảnh lên tới hàng trăm triệu rúp... Một bản điều tra vào tháng 6-1991 cho thấy, trong đội ngũ cán bộ cao cấp Đảng Cộng sản Liên Xô, 76,7% đã nhận thấy nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, chỉ có 12,3% ủng hộ cải cách dân chủ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, số người giữ thái độ khẳng định đối với mô hình chủ nghĩa xã hội trước cải tổ chỉ có 9,6%. 

Sự hình thành tầng lớp đặc quyền đặc lợi, đề cao lối sống thực dụng, chạy theo vật chất, văn minh phương Tây một cách mù quáng đã tạo ra hố sâu ngăn sách giữa Đảng và quần chúng, là một nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô. Đặc quyền không làm nên giá trị, không để lại danh thơm. Một ví dụ khác còn để lại bao điều suy nghĩ. Trong lịch sử Giải Nobel Hòa bình, chỉ có duy nhất một trường hợp từ chối nhận là đồng chí Lê Đức Thọ năm 1973. Cùng năm ấy, đối thủ của ông, ngoại trưởng Mỹ Kissinger lại rất "tự hào" và vui vẻ nhận thưởng cùng một cơn bão chỉ trích chưa từng có. Sau này, chính cựu tổng thống Liên Xô Gorbachev cũng nhận giải thưởng này. Có nhiều điều để so sánh và với ông Lê Đức Thọ, trong thư gửi ban tổ chức, ông cũng nói Giải thưởng Nobel là một giải thưởng lớn với thế giới, từ xưa đến nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng tại sao ông không nhận? Đơn giản vì với ông, đó không phải là giá trị cao nhất của cuộc sống, của con đường mà ông đang đi. Ủy ban giải đã đặt ngang bằng kẻ xâm lược và người bị xâm lược, giữa kẻ gây chiến tranh và người tạo ra hòa bình. Với ông, hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc cho Tổ quốc, cho nhân dân mới là giá trị to lớn nhất.

Những câu chuyện đó sẽ mãi là những bài học thực tiễn sâu sắc để chúng ta nhìn nhận, xây dựng bức trường thành phòng vệ từ xa, để không đi vào bánh xe đổ khi đội ngũ cán bộ bị lòng ham muốn vật chất làm gục ngã, không còn là công bộc của dân.

Thời gian vừa qua, Thường vụ Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng chuyên đề, dự thảo Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về tiếp tục phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là những việc làm rất thiết thực để quán triệt và thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2020-2025: “Đảng bộ Quân đội phải thật sự trong sạch vững mạnh tiêu biểu, gương mẫu đi đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng; quân đội phải thật sự trong sạch trong nội bộ, đi đầu trong đấu tranh chống tiêu cực, chống chủ nghĩa cá nhân”. Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ chắc chắn sẽ mãi là ngôi sao sáng dẫn đường để mỗi người lính vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, thiệt thòi, hy sinh, cống hiến và tìm thấy chân giá trị đích thực trong cuộc sống binh nghiệp cách mạng của mình!

NÉT “CHÂN QUÊ” ĐÂU RỒI?

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại dành thời gian đọc thơ Nguyễn Bính trong phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đó thực sự là thông điệp để mỗi cán bộ, đảng viên suy ngẫm, nhìn lại chính mình trong hoạt động thực tiễn.

Nhìn vào thực tiễn cuộc sống những năm qua, nhất là trước những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, điều khiến không ít người lo lắng chính là tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, không chỉ ở cấp cơ sở, mà nó còn hiện hữu trong một bộ phận cán bộ cấp cao. Số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, bị xử lý là điều rất đáng báo động trong công tác quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Sự nguy hại của tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự lành mạnh của đời sống xã hội; tác động tiêu cực đến lối sống, nếp nghĩ của giới trẻ trong xã hội.

Bởi vậy, đã có không ít lần các nhà nghiên cứu, các nhà xã hội học cảnh báo: Mở cửa và hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng vấn đề đạo đức xã hội đang đặt ra những điều hết sức đáng lo ngại. Vì vậy, nếu không sớm có những giải pháp ngăn chặn quyết liệt, hiệu quả sẽ rất nguy hại đến sự tồn vong của đất nước, của chế độ. Bởi con người, theo bản năng tự nhiên sự hưởng thụ bao giờ cũng dễ tiếp nhận hơn so với sự nỗ lực cần phải phấn đấu để vượt qua.

Nhận thấy rõ sự nguy hại ấy đối với đời sống xã hội, đối với sự tồn vong của chế độ, Đảng ta liên tiếp ban hành rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định nhằm từng bước hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng đánh mất đi phẩm giá, cũng như những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai kết luận và quy định của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn chỉ rõ: “... không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự...”.

 Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã minh chứng, trước sự xâm lăng của giặc ngoại bang, trước những biến cố của dịch bệnh, thiên tai, dân tộc ta đều biết cách vượt qua mà phần lớn chính là nhờ vào việc phát huy cao nhất giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Đó là giá trị “thương người như thể thương thân”; đó là lòng yêu nước nồng nàn; đó là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo; đó là sự thủy chung, trong sáng... Giá trị truyền thống ấy đối với những người cộng sản còn là đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Người cũng dạy: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Nói tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.

Sự nguy hại của việc đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc không chỉ tác động trực tiếp đến những hành vi trong đời sống xã hội, mà nguy hại hơn nó từng bước gặm nhấm, hủy hoại vai trò lãnh đạo của Đảng, phụ bạc lại những cống hiến, hy sinh quên mình của lớp lớp thế hệ người Việt Nam để giành lại độc lập, tự do của dân tộc, sự thống nhất Tổ quốc.

Nét “chân quê” đâu rồi? một câu hỏi thật giản dị nhưng để tìm được câu trả lời thích đáng là điều không dễ. Bởi để có được câu trả lời đòi hỏi sự phấn đấu, nỗ lực rất lớn của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên. Đó còn là sự đòi hỏi lòng danh dự, tự trọng; sự cống hiến, hy sinh hết mình của mỗi cán bộ, đảng viên cho mục tiêu cao cả nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trả lời được cho câu hỏi nêu trên nhanh hay chậm, dễ hay khó hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức, thái độ, tình cảm và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trên từng cương vị công tác của mình.

Giữ lại nét “chân quê” không phải là cố giữ sự bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, không dám đổi mới, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thời buổi chúng ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, thì việc tận dụng những tiến bộ của nhân loại để thúc đẩy xã hội và đất nước phát triển là rất cần thiết, nhưng phải dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi của dân tộc. Suy cho rộng hơn, sâu sắc hơn là tiến hành sự nghiệp đổi mới nhưng kiên quyết không làm đổi màu; hòa nhập nhưng dứt khoát không hòa tan. Hội nhập quốc tế là tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy đất nước phát triển, mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân, mà dứt khoát không biến mình trở thành công cụ cho người khác.

Dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm sống dưới sự đô hộ, chèn ép, bóc lột của chế độ phong kiến và thực dân. Cái giá của sự mất tự do, độc lập dân tộc hẳn không ai không hiểu, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đề cập đến vấn đề này, bởi đâu đó đã xuất hiện tình trạng, mới học được vài chữ, vài câu ở nước ngoài là về áp dụng nguyên xi vào công việc mà không thấy được những yếu tố nội tại bên trong là chưa phù hợp. Bởi vậy, với cách áp dụng máy móc, cho rằng như thế mới là hội nhập, mới là hiện đại không những không đem lại bất kỳ một chút hiệu quả nào, mà còn gây hại đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực xây dựng thể chế, ban hành các chủ trương, chính sách...

Dân tộc ta đã kinh qua những giai đoạn lịch sử khó khăn nhất, trở thành hình mẫu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành quả đó minh chứng tinh thần đoàn kết, phát huy cao nhất giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, trước sự biến đổi mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, cùng với những âm mưu hết sức thâm độc của các thế lực thù địch hằng ngày, hằng giờ chống phá cách mạng nước ta thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì nếu cứ say sưa trên vòng nguyệt quế, chủ quan, lơ là mất cảnh giác, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Bởi vậy, để lường trước những điều xấu nhất, cần sự tỉnh táo, trách nhiệm của mọi người dân mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nét “chân quê” đâu rồi? Một thông điệp rất nhiều ý nghĩa khi mà cuộc sống của mỗi người, của từng cán bộ, đảng viên chịu không ít những tác động của đời sống xã hội.

THẤY ĐÚNG PHẢI BẢO VỆ, THẤY SAI PHẢI ĐẤU TRANH

Hiện tượng đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh đã và đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và được Đảng ta xác định là biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị. Để khắc phục tình trạng này, mới đây Ban Chấp hành Trung ương đã bổ sung nội dung này vào Quy định 37 về những điều đảng viên không được làm.

Chúng ta đều biết, cái đúng, cái tốt luôn là chất liệu làm nên giá trị tốt đẹp của cuộc sống mà con người hướng tới. Trong cuộc sống hàng ngày. Cái đúng được bảo vệ, phát huy; cái sai được đấu tranh, ngăn chặn thì cuộc sống mới bình yên, hạnh phúc, xã hội mới phát triển phồn vinh

Tuy nhiên trong thực tế công tác xây dựng Đảng thời gian vừa qua, có không ít đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, không dám đấu tranh với những cái sai, ủng hộ cái đúng. Những biểu hiện trên đã làm suy giảm sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Do vậy, việc Đảng ta quy định rõ việc đảng viên không thực hiện trách nhiệm nêu gương, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu xa rời quần chúng trong những điều đảng viên không được làm là hết sức cần thiết.

Việc bổ sung nội dung “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh” trong Quy định 37 là sự cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Vấn đề là làm sao nhận diện đúng và tập trung khắc phục trên cơ sở xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có các hành vi sai phạm, tiêu cực để tạo ra niềm tin, khí thế đấu tranh, từ đó đẩy lùi sự thờ ơ, vô cảm.

Thấy đúng không bảo vệ, dẫn tới phủ định cái đúng, việc làm đúng trong thực tiễn; thấy sai không đấu tranh là dung dưỡng cho cái sai, việc làm sai trong cuộc sống, làm cho chuẩn mực bị sai lệch, hiệu quả công việc không cao, thậm chí hỏng việc, thất bại. Vì vậy, mỗi đảng viên, mỗi tổ chức Đảng phải thực hiện nghiêm túc Quy định 37, đấu tranh mạnh mẽ với cái sai, tích cực bảo vệ cái đúng, làm tốt nội dung này chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và củng cố thêm niềm tin của Nhân Dân vào sự lãnh đạo của Đảng.


MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” NỘI BỘ

Cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết cần phải tiếp tục làm sáng tỏ. Trong đó, cần có nhận thức mới về hình thức sau

Việc xác định đúng đắn các hình thức, biện pháp đấu tranh là vấn đề đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất đa dạng, phong phú, bao gồm các hình thức của công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách; các hình thức, biện pháp về hành chính, kinh tế, pháp luật... trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời thường xuyên được đổi mới phù hợp với sự phát triển của tình hình. Trong đó, tập trung vào một số hình thức, biện pháp cơ bản sau đây:

(1) Giáo dục, tuyên truyền: Đây là hình thức, biện pháp có vị trí đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể, các lực lượng tham gia phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Thông qua hình thức giáo dục chính trị tư tưởng trong tổ chức đảng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, công tác bảo vệ chính trị nội bộ... để giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm phòng ngừa, ngăn chặn mọi vấn đề có thể phát sinh, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh, phê bình, xử lý mọi biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền của các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, đoàn thể nhân dân, các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên các phương tiện thông tin đại chúng... để nâng cao trình độ nhận thức, trình độ giác ngộ chính trị, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bản lĩnh, ý chí, niềm tin, phong cách sống, tư cách, nhân cách... cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, qua đó vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phê phán những trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại, những nhận thức sai trái, lệch lạc trong xã hội, góp phần ngăn chặn nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội ta.

(2) Phát huy sức mạnh tổng hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. Tính chất, đặc điểm của cuộc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá trình đấu tranh. Đây vừa là hình thức, biện pháp quan trọng, vừa là quan điểm chỉ đạo và yêu cầu cơ bản trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay, đồng thời là hình thức, biện pháp có sức lôi cuốn mạnh mẽ, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn cho công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta, cần được phát huy tốt trong thực tiễn đấu tranh.

(3) Thực hiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là hình thức, biện pháp rất quan trọng, trực tiếp tạo động lực cho cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Các cơ quan, đơn vị, chính quyền các cấp làm tốt công tác quản lý, giáo dục đối với cán bộ, công chức, nhân viên của mình, duy trì đầy đủ các chế độ, nền nếp trong sinh hoạt, học tập, các chế độ quản lý theo quy định của pháp luật. Xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi biểu hiện vi phạm đạo đức, tư cách của cán bộ, công chức, viên chức; vi phạm các chế độ quy định, vi phạm pháp luật, đặc biệt là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực, tệ nạn xã hội khác... góp phần vào cuộc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan, đơn vị.

(4) Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Đây là hình thức, biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh, bảo đảm cho cuộc đấu tranh đúng yêu cầu, nâng cao tính hiệu quả, đồng thời giữ vững được kỷ cương, phép nước trong quá trình phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện hình thức, biện pháp này đòi hỏi Nhà nước phải thực sự trong sạch, cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước phải thực sự mẫu mực, xứng đáng là những người được nhân dân trao cho quyền lực để quản lý, điều hành đất nước phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của cách mạng; đề cao kỷ cương, pháp luật trong xử lý, giải quyết những hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn tác động tiêu cực của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

(5) Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là hình thức, biện pháp trực tiếp ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo sức đề kháng, “miễn dịch” của cán bộ, đảng viên, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để hoàn thiện phẩm chất, năng lực, tư cách, đạo đức, lối sống, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng.

Các hình thức, biện pháp trên đều nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Vì vậy, cần bám sát đặc điểm, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương mà xác định và thực hiện hình thức, biện pháp đúng đắn, phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRONG PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” HIỆN NAY

Cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết cần phải tiếp tục làm sáng tỏ. Trong đó, cần có nhận thức mới về nhiệm vụ sau:

Để cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay được đúng hướng và có hiệu quả, cần nhận thức đúng đắn và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”. Cụ thể bao gồm:

Một là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở Việt Nam hiện nay, thực chất là cuộc đấu tranh trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hai là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Ba là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành đồng bộ trên tất cả lĩnh vực với những nội dung, hình thức, biện pháp đa dạng, linh hoạt, hiệu quả.

Bốn là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức và lực lượng.

Năm là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “phòng” và “chống”, giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “phòng”, “xây” là chính.

MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” NỘI BỘ

Cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết cần phải tiếp tục làm sáng tỏ. Trong đó, cần có nhận thức mới những nội dung sau:

Thứ nhất, ngăn ngừa, triệt tiêu nguồn gốc, nguyên nhân làm nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, phải hết sức chú ý đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Thứ hai, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nội dung này, cần tiến hành đấu tranh chống những tư tưởng, biểu hiện: Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai... thực chất là đấu tranh khắc phục 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.

Thứ ba, ngăn ngừa, khắc phục tác hại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội. Đó là việc thực hiện các nội dung đấu tranh để ngăn ngừa, khắc phục tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi con người và tổ chức; làm cho những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất khả năng gây tác hại, không còn lây lan trong đời sống xã hội, dần dần bị triệt tiêu, loại bỏ trong mỗi con người và tổ chức.

Thứ tư, xây dựng con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức theo chuẩn mực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phong cách sống, làm việc khoa học. Trong nội dung này, đặc biệt cần thực hiện tốt nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức; nhất là xây dựng về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, phong cách sống, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên.

Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ. Điều đó không những tạo nên khả năng đề kháng, miễn dịch, bảo đảm cho mỗi cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng và toàn Đảng không bị mắc vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà còn tạo nên động lực to lớn, sức mạnh nội sinh để giành thắng lợi trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thứ sáu, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng những yếu kém, bất cập, bất đồng, bất hòa, mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể CT-XH với nhân dân; giữa đồng bào ở trong nước với đồng bào định cư ở nước ngoài để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội ta.

ĐẸP GÌ KHI CHỐI BỎ QUÊ HƯƠNG

Ông bà ta xưa có câu “Con không chê cha mẹ khó”. Ấy thế mà, gần đây lại nổi lên nhân vật Tưởng Năng Tiến tự chối bỏ gốc gác của mình.

Trong khi đó, cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi nấng ông ta khôn lớn; quê hương, đất nước dung dưỡng ông ta thành người.

Đến độ tuổi xế chiều-“gần đất xa trời”, đáng lẽ ra ông Tưởng Năng Tiến phải đủ độ chín chắn, làm gương cho con cháu về tri ân cội nguồn của mình. Nhưng không, ông ta lại muốn mình là “người Mã, người Miên, người Thái hay người Tàu... chớ không phải dân An Nam” để rồi lớn tiếng phê phán Đảng ta “không lo cho người dân, để người dân chết đói giữa đại dịch"... Đây là những lời nói hàm hồ, thiếu khách quan, cố tình bôi nhọ, phủ nhận tâm sức, vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: "...Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình...". Thực tế đã chứng minh, gần 92 năm qua, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng cũng lãnh đạo công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu nổi bật, vị thế và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Không phải ngẫu nhiên mà Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề cập nhiều lần cụm từ “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; trong đó, nhấn mạnh đến yếu tố hạnh phúc của nhân dân. Thời gian qua, dù đại dịch Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết, đồng lòng, chung sức nỗ lực triển khai đồng bộ các giải pháp, đưa Việt Nam trở thành một trong những điểm sáng trên thế giới vì vừa kiểm soát, khống chế hiệu quả đại dịch Covid-19, vừa duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Liên tục hai năm gần đây, Việt Nam đã tăng 11 bậc trên bảng xếp hạng chỉ số hạnh phúc của Liên hợp quốc, từ 94/156 quốc gia (năm 2019) lên 83/156 quốc gia (năm 2020).

Mới đây, tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu rõ: "Nhân quyền lớn nhất là lo cơm ăn, áo mặc cho 100 triệu dân, không để ai thiếu ăn, thiếu mặc, khi khó khăn không bỏ ai lại phía sau".

Đây là điều hoàn toàn đúng đắn, được người dân trong nước cũng như cộng đồng quốc tế thừa nhận. Vậy mà, một số kẻ phản động, có âm mưu chống phá cách mạng nước ta không chỉ tự chối bỏ gốc gác quê hương của mình mà còn cố tình xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, nhân dân ta. Chúng ta luôn nêu cao đạo lý “chim có tổ, người có tông”, vì thế những kẻ tự chối bỏ quê hương, bản quán cũng nên tự vấn.


XÂY DỰNG ĐƯỢC VĂN HÓA TRONG ĐẢNG THÌ CHẾ ĐỘ VỮNG VÀNG, ĐẢNG TỒN TẠI

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra 6 nhiệm vụ trọng tâm để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc. Một trong số đó là chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Đặc biệt, xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh…

Vậy thế nào là văn hóa trong Đảng. Văn hóa trong Đảng có ý nghĩa ra sao với văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc? Phóng viên VOV.VN có cuộc trao đổi với PGS.TS Lê Quý Đức, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để hiểu rõ hơn về nội dung này.

PV: Ông có thể cắt nghĩa rõ hơn về văn hóa trong Đảng?

PGS.TS Lê Quý Đức: Văn hóa trong Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam – PV) là khái niệm thao tác luận, đặt ra để xây dựng, phấn đấu đạt được các phẩm chất văn hóa tốt đẹp đối với toàn Đảng và đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.

Tôi cho rằng, khi nói văn hóa trong Đảng là muốn nói đến những phẩm chất văn hóa của Đảng, cụ thể là phẩm chất của cán bộ, đảng viên. Còn văn hóa Đảng là một hiện tượng xã hội, là một kiểu, một dạng văn hóa, được tạo nên bởi nền tảng là truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Văn hóa trong Đảng với văn hóa Đảng không hoàn toàn thống nhất với nhau, có quan hệ với nhau.

Đảng Cộng sản Việt Nam dứt khoát phải tiếp nhận văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam cùng với tư tưởng về xây dựng một đảng chính trị kiểu mới của giai cấp công nhân theo quan điểm Mác Lênin.

PV: Vậy theo ông, văn hóa trong Đảng có ý nghĩa thế nào, có mang tính định hướng, dẫn lối đối với với văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc hay không?

PGS.TS Lê Quý Đức: Tất nhiên là có, suy từ quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng là đạo đức, là văn minh”, xây dựng văn hóa trong Đảng với những phẩm chất đạo đức, văn minh. Như vậy văn hóa trong Đảng là dẫn đạo cho văn hóa dân tộc. Văn hóa trong Đảng khi đó thực sự là kết tinh của văn hóa dân tộc, là biểu tượng của văn hóa dân tộc, là mẫu mực của văn hóa dân tộc. Nó kết tinh ở lực lượng lãnh đạo của xã hội, vì thế tác động rất mạnh mẽ đến xã hội.

Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, người ta soi mình vào Đảng, cũng tức là soi vào văn hóa Đảng để xây dựng văn hóa của cả cộng đồng. Văn hóa Đảng kết tinh trong văn hóa của lãnh tụ, như một mẫu mực để cho cả dân tộc hướng tới, soi vào đó để nâng cao văn hóa của mình lên, mỗi cá nhân có ý thức nâng cao văn hóa của mình sẽ làm cho văn hóa của dân tộc cũng được nâng lên.

Nhưng thực tế hiện nay, một bộ phận đảng viên đã không giữ được đạo đức, phẩm chất, lối sống… ảnh hưởng rất nhiều đến hình ảnh của Đảng.

Nói như vậy để thấy văn hóa trong Đảng rất có ý nghĩa, vì Đảng là đạo đức là văn minh, là mẫu mực của đạo đức, của văn minh. Đấy là văn hóa. Nhân dân hướng theo Đảng để phấn đấu. Trong Nghị quyết Đại hội X có nói, “suy thoái về tư tưởng đạo đức đe dọa tới sự tồn vong của Đảng. Nếu xây dựng được văn hóa trong Đảng thì chế độ vững vàng, Đảng tồn tại”.

PV: Vậy nên, muốn giữ gìn chế độ thì trước hết phải giữ gìn văn hóa trong Đảng

PGS.TS Lê Quý Đức: Đúng như vậy. Không để người ta nói “cán bộ đảng viên có chức quyền mà còn tham nhũng, tiêu cực thì nói được ai”. Những cái xấu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và ngược lại.

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, hay Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã tổng kết rất rõ những biểu hiện tiêu cực, đó là suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; tự diễn biến, tự chuyển hóa… Nghị quyết Đại hội X còn cảnh báo, đó là mối đe dọa tới sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Cán bộ, đảng viên mà tiêu cực thì làm cho người dân, xã hội mất lòng tin vào Đảng, lý tưởng của Đảng.

PV: Vậy chúng ta làm gì để đấu tranh với các biểu hiện phản văn hóa trong Đảng?

PGS.TS Lê Quý Đức: Đường lối Đảng đề ra từ năm 1930, có thể trong thực hành có những vấp váp, sai lầm, khuyết điểm, nhưng rõ ràng đường lối ấy phải là đúng đắn mới đưa đất nước đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám. Rất nhiều cán bộ đảng viên gương mẫu, đấu tranh đã giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là thành tựu rất to lớn.

Dù muộn nhưng chúng ta cũng đã đổi mới để đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đảng tồn tại hơn 90 năm nay cũng bởi chúng ta quyết tâm giữ gìn văn hóa trong Đảng, đấu tranh quyết liệt với những hiện tượng phản văn hóa. Đó chính là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ suy thoái.

PV: Vậy trong bối cảnh mới hiện nay, có thể hiểu việc xây dựng, phát triển văn hóa trong Đảng cũng chính là xây dựng Đảng theo những giá trị tích cực, theo hướng kiến tạo để Đảng ngày càng vững mạnh, quần chúng tin yêu?

PGS.TS Lê Quý Đức: Đúng như thế! Ta đã xây dựng được văn hóa trong Đảng. Câu “Đảng là đạo đức, là văn minh, là độc lập, hòa bình, ấm no/ Công ơn Đảng thật là to, 30 năm lịch sử Đảng là một pho lịch sử bằng vàng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết trong diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960, đánh giá 30 năm ra đời của Đảng, Đảng đã đạt được những thành tựu như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định trên phương diện văn hóa “Đảng là đạo đức, là văn minh”, đó là tổng kết rất lớn của Đảng. Đảng có đạo đức thì người dân mới theo Đảng, có văn hóa mới lãnh đạo được dân tộc giành được độc lập.

Còn hôm nay, phải tiếp tục xây dựng và nâng cao văn hóa trong Đảng. Một mặt phải đưa những phẩm chất mới vào, nâng cao những phẩm chất cũ lên. Từ người trung thành với lý tưởng cách mạng, chiến đấu cho độc lập tự do, thì hôm nay chiến đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Từ năng lực chỉ là dũng cảm, giờ cần phải sáng tạo, thích ứng tích cực… Mặt khác, phải loại bỏ những tư tưởng lạc hậu hay những cá nhân bảo thủ lạc hậu, chống lại những phần tử suy thoái đạo đức lối sống, thanh lọc cho trong sáng.

PV: Xin cảm ơn ông./.

Nguồn: VOV.VN

ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC CAN THIỆP VÀO HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA, XÉT XỬ, THI HÀNH ÁN, XÉT ĐẶC XÁ

Đảng viên không được tham mưu, đề xuất, quyết định giảm trách nhiệm, giảm án, giảm tội, bỏ lọt tội phạm, giảm hình phạt, mức phạt, mức bồi thường vật chất…

1 trong 5 điểm mới trong Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm là: Đảng viên không được can thiệp vào hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, xét đặc xá.

Tại Điều 13, Quy định 37 nêu rõ: đảng viên không được “Can thiệp, tác động vào hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tác động, ép buộc, mua chuộc tổ chức, cá nhân để giảm trách nhiệm, hình phạt cho người khác”.

Theo Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW (Ủy ban Kiểm tra Trung ương) ban hành ngày 29/11 vừa qua, Điều 13 được hiểu đầy đủ như sau:

Đảng viên không được:

1. Thực hiện không nghiêm, không đúng, không đầy đủ các quy định (quy trình, thủ tục, phương pháp nghiệp vụ) để làm thay đổi, sai lệch kết luận, kết quả kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2. Tham mưu, đề xuất, quyết định giảm trách nhiệm, giảm án, giảm tội, bỏ lọt tội phạm, giảm hình phạt, mức phạt, mức bồi thường vật chất, thời gian thi hành, chấp hành án, xét ân xá… cho người khác không đúng quy định.

3. Thực hiện không nghiêm, không đúng, không đầy đủ các quy định của pháp luật trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các biện pháp ngăn chặn (bắt, tạm giữ, tạm giam, tha…) trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm.

4. Thay đổi, kéo dài thời hạn, thời gian kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xử lý vi phạm mà không có lý do chính đáng; sử dụng kết luận, biên bản và các thông tin có liên quan không có trong quy trình, quy định để gây áp lực, vòi vĩnh tổ chức, cá nhân dưới mọi hình thức. Tạm giữ tiền, tài sản không đúng quy định.

5. Chậm giải quyết hoặc không giải quyết đơn thư khiếu nại, tổ cáo, khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, tin báo tố giác tội phạm theo quy định của pháp luật; bao che, tiếp tay, dung túng hoặc không xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mình hoặc không yêu cầu khắc phục hậu quả vi phạm theo quy định của pháp luật.

6. Có hành vi chống đối, cản trở, mua chuộc, trả thù, trù dập, khống chế, vu khống người làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Trước đó, khi đề cập đến nội dung tại điều 13 (Quy định 37), Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Viết Thông – nguyên Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương cho rằng, thực hiện các nghị quyết đại hội gần đây và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, chúng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong những năm qua, đã xuất hiện những cá nhân có hành động tác động đến tổ chức, cá nhân không đúng để giảm các hình phạt. Với tinh thần của các đại hội gần đây, nhất là Đại hội XIII là kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, nên việc Đảng quy định đảng viên không được làm những việc này là điểm mới, rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay./.

Nguồn: Hươngsenviet

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ QUÁ ĐẮT KHI PHẢN BỘI CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Chúng ta đều biết, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đã trở thành khoa học. Lần đầu tiên, giai cấp vô sản có một lý luận khoa học, cách mạng soi sáng, dẫn đường; chủ nghĩa Mác từ “một bóng ma ám ảnh châu Âu” đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, có uy tín, vị thế và chiếm vị trí thống trị phong trào công nhân từ những năm 40 của thế kỷ XIX. Đảng Cộng sản – Bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản, theo đó cũng đã ra đời, là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận khoa học và phong trào công nhân quốc tế.

Điểm vượt trội của chủ nghĩa Mác so với các học thuyết của các bậc tiền bối và đương thời là ở chỗ: nghĩa Mác là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, lực lượng, nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại; đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) do V. I. Lênin và Đảng Cộng sản Bônsêvích (b) lãnh đạo, lần đầu tiên chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội mới tốt đẹp đã được thiết lập trên 1/6 diện tích trái đất. Sau Thế chiến thứ 2, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời. Sự thật này ai cũng biết, sử sách còn ghi chép. Thế nhưng, do sai lầm của những người lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản, chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ. Đó là một tổn thất nặng nề cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị triệt để lợi dụng cơ hội này, đã bám lấy sự kiến ấy để quy kết, buộc tội, cố tình “chứng minh sự sai lầm” của chủ nghĩa Mác – Lênin, coi đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội để khẳng tính phổ quát và thời mới của chủ nghĩa tư bản đang đến. Có phải như vậy không? Phải chăng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô viết ở Liên Xô và Đông Âu đã “cáo chung cho một lý luận khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác – Lênin?

Sự thật đã bác bỏ những giả định sai lầm ấy. Không bao giờ có chuyện sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô viết ở Liên Xô, Đông Âu lại là sự sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng. Từ sự kiện này, nó nhắc nhở ai đó “đừng vơ đũa cả nắm”, đừng “nhìn cây mà không thấy rừng”; phải xem xét sự việc một cách khách quan, toàn diện, cụ thể, lịch sử, thực tiễn và theo quan điểm phát triển để tránh bị rơi vào chủ quan duy ý chí, giáo điều, kinh viện, bị mắc sai lầm bởi phương pháp tư duy siêu hình, lầm lẫn với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa hoài nghi, bi quan. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô viết ở Liên Xô, Đông Âu là sự thật; song cũng chính từ đây, nó nhắc nhở chúng ta rằng, bất cứ Đảng Cộng sản nào nếu xa rời lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin hoặc vi phạm những nguyên tắc mácxít – lêninnít thì tất yếu đều dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại và giáo điều, vô cùng nguy hại, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, sụp đổ.

Rõ ràng, chỉ có Đảng Cộng sản nào trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, được vũ trang bằng một lý luận tiên phong thì mới hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong; mới xứng đáng là bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân; mới làm tròn sứ mệnh lịch sử toàn thế giới: lãnh đạo giai cấp công nhân đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ xã hội mới – chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.

Qua các biến cố thăng trầm của lịch sử và từ sự thật: chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; thêm một lần nữa, nó đã và đang chứng minh đầy thuyết phục tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nó nói rõ rằng, trong thời đại ngày nay, bất cứ một Đảng Cộng sản nào, cá nhân lãnh tụ của Đảng Cộng sản nào, nếu vi phạm những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, trà đạp lên giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, thì Đảng Cộng sản ấy, cá nhân lãnh tụ của Đảng Cộng sản ấy phải trả giá đắt bởi những sai lầm nghiêm trọng của mình. Điều đó chứng minh rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin với tính cách là một khoa học, cách mạng có sức sống mãnh liệt; nó luôn là “công cụ nhận thức vĩ đại”, “vũ khí sắc bén” để giai cấp công nhân và loài người tiến bộ nhận thức và cải tạo thế giới vì lợi ích chính đáng của mình. Những phát minh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chứng minh “C. Mác đúng”; loài người không thể có tương lại, nhân loại không thể phát triển nếu không có chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng, dẫn đường.

Với những khuyết tật của một mô hình chủ nghĩa xã hội đã định sẵn và những sai lầm do chủ quan, duy ý chí của một bộ phận lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản ở Đông Âu, chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng từ công sức, mồ hôi, xương máu của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ và nhân dân đã bị sụp đổ, làm cho chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới lâm vào tình cảnh thoái trào. Đó là điều vô cùng đáng tiếc!

Chính điều đó khẳng định rõ rằng, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, những người cộng sản chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu và kiên quyết, kiên trì bảo vệ những thành quả cách mạng mà chính chúng ta và nhân dân đã giành được; phải thấm nhuần sâu sắc giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng sáng tạo học thuyết ấy vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên; không được coi thường, vi phạm những nguyên tắc mácxít – lêninnít, làm trái quy luật khách quan, mắc “bệnh” chủ quan, duy ý chí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ai đó, tổ chức đảng nào đó, nếu bị mắc phải sai lầm nghiêm trọng ấy thì tất yếu, sớm hay muộn, tổ chức đảng ấy sẽ mất vai trò lãnh đạo, chủ nghĩa xã hội ở nơi có sai lầm ấy sẽ bị sụp đổ, nhân dân ở nơi ấy sẽ mất quyền sống làm người, thành quả cách mạng sẽ bị tước đoạt, cảnh “nồi da nấu thịt” sẽ xảy ra.

Lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới chỉ ra rằng, những người cộng sản chân chính trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, phải luôn luôn tỉnh táo và sáng suốt để tìm kiếm con đường, biện pháp mới nhằm quy tụ, tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng tiếp tục giải quyết các mâu thuẫn mới nảy sinh trong xã hội cũng như tự đổi mới cho phù hợp với thời cuộc; phải thực hiện đúng lời dạy của V. I. Lênin: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ.

Chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc lời dạy của V.I. Lênin: xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp vĩ đại, nó chưa có tiền lệ trong lịch sử, nên các Đảng Cộng sản phải hết sức cẩn trọng. Vì vậy, trên bước đường đi tới hạnh phúc, chắc chắn nó sẽ gặp đầy dẫy những khó khăn, thử thách, nhất là sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch. Đó là điều không thể tránh khỏi. Người chỉ rõ: Mọi kẻ thù đều đáng sợ nhưng sợ nhất là trong một điều kiện nào đó, hoàn cảnh nào đó, nội bộ Đảng Cộng sản bị phân liệt, mất đoàn kết, những người cộng sản tự hủy hoại mình. Đó là nguy cơ tồi tệ nhất có thể dẫn đến sự đổ vỡ của một cuộc cách mạng, và lúc ấy, thành quả cách mạng mà nhân dân xây đắp nên bằng xương máu của mình “sẽ bị đánh cắp”. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX thật là đau sót; song nó đã phản ánh rõ những sai lầm của những người cộng sản nắm quyền lãnh đạo tối cao trong Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, cái điều mà V.I. Lênin đã cảnh báo trước đây về sai lầm của những người cộng sản là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta cần suy ngẫm và thấm thía sâu sắc lời cảnh báo của V.I. Lênin về nguy cơ suy thoái, tha hóa, biến chất của một Đảng Cộng sản.

Cho đến ngày nay và mai sau, mãi mãi vẫn sẽ là như vậy, không có học thuyết nào, chủ nghĩa nào có thể vượt qua chủ nghĩa Mác – Lênin bởi giá trị, ý nghĩa khoa học, cách mạng và nhân đạo của nó. Kẻ thù “lớn và nhỏ” của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt và tàn ác đã và đang thực hiện nhiều chiêu trò “ma quỷ” từ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, đến thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa”, “dân chủ hóa” lực lượng vũ trang nhằm mục đích cuối cùng là hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội ta. Làm việc sai trái đó, chính các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã thừa nhận sự yếu thế, hoang mang và hoảng loạn tinh thần của chúng và trên thực tế là thừa nhận sự nguy hiểm, sự đe dọa của một học thuyết khoa học, cách mạng và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên con đường đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nền hòa bình thế giới, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin luôn ở bên chúng ta, cổ vũ, động viên về mặt tư tưởng và dẫn dắt chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng và cách mạng Việt Nam cũng như của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Nghiên cứu lịch sử ra đời, phát triển và sự truyền bá lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin vào phong trào công nhân quốc tế; sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực và nguyên nhân của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô viết ở Liên Xô, Đông Âu gần 30 năm trước (1991 - 2021) là cơ sở khoa học để chúng ta bác bỏ mọi sự xuyên tạc, bôi nhọ và phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Đồng thời, là cơ sở khoa học vững chắc giúp mỗi người chúng ta hiểu rõ điều kiện, hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin, giá trị khoa học và cách mạng của từng luận điểm để vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho phù hợp. Đây cũng là điều kiện tốt để mỗi người giải thích và hiểu đúng đắn lý do vì sao Đảng ta lại quyết định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam./.