Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019

BIỆN PHÁP XÂY DỰNG BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN THỜI KỲ MỚI

          Thứ nhất, tăng cường chất lượng hiệu quả giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
             Đây là biện pháp cơ bản mang tính lâu dài, theo đó việc giáo dục nội dung này cần phải hướng vào sự rèn luyện năng lực tư duy khoa học, thế giới quan Mác-xít, nhân sinh quan, đạo đức cách mạng và phương pháp luận. Điều đó, một mặt giúp thanh niên, sinh viên có đủ kiến thức, niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới nền kinh tế trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo cho họ có đủ sức “đề kháng” trước những diễn biến phức tạp của tình hình, trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, khích lệ ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Ngoài ra, trong giáo dục nội dung này cần phải có những cách làm hay, sáng tạo và hấp dẫn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia nhằm tạo hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, tích cực đưa thanh niên, sinh viên tham gia vào các hoạt động thực tế chính trị-xã hội, hoạt động tham quan, thực tập
Bản lĩnh của con người nói chung và bản lĩnh của thanh niên, sinh viên nói riêng có nhiều con đường để hình thành, phát triển và không ngừng hoàn thiện; song cách hình thành nhanh và bền vững nhất chính là thông qua các hoạt động thực tiễn, trực tiếp tham gia vào các hoạt động cải tạo thực tiễn. Để thực hiện tốt điều này, Đoàn cần phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể trong xã hội tạo ra các hoạt động phong phú, thích hợp và thiết thực nhằm rèn luyện thanh niên, sinh viên giúp họ có điều kiện nhận thức sâu sắc thực tiễn, có tình cảm phong phú. Đồng thời, tổ chức ra các hoạt động thực tiễn gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội và quần chúng nhân dân, thông qua đó từng bước rèn luyện bản lĩnh chính trị và khoa học cho thanh niên, sinh viên. Điểm cốt lõi để thực hiện thành công nội dung này, đó là Đoàn cần phải tạo ra được một phong trào cách mạng sâu rộng trong thanh niên, sinh viên, kiên quyết đấu tranh, phê phán chống lại những tệ nạn xã hội, hành vi tiêu cực trong học tập, trong lối sống, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.
          Thứ ba, xây dựng môi trường sống thật sự nhân văn và giữ vững kỷ cương pháp luật trong xã hội góp phần giáo dục rèn luyện bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên.
         Xây dựng môi trường xã hội, môi trường giáo dục và văn hóa phải thông qua các hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ, các phong trào dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của thanh niên, sinh viên. Thông qua các hoạt động thiết thực, bổ ích như “Câu lạc bộ thanh niên tình nguyện”, “câu lạc bộ nghiên cứu khoa học”,… sẽ có sức hấp dẫn lớn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia, qua đây nhằm xã hội hóa giáo dục, cá thể hóa bản lĩnh nhân cách thanh niên, sinh viên. Đồng thời, phải tích cực đẩy lùi và kiên quyết ngăn chặn những tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội không cho chúng xâm nhập vào thanh niên, sinh viên.
         Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động giao lực và hội nhập quốc tế trong thanh niên, sinh viên.
         Thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học trong tầng lớp thanh niên, sinh viên, bởi đây là những hoạt động mang tính nền tảng trong hình thành nhân cách và xác lập bản lĩnh. Bên cạnh đó, Đoàn cần chú trọng đúng mức tới chuyển giao công nghệ, hoạt động sáng tạo, hoạt động chính trị, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng này giúp cho thanh niên, sinh viên có điều kiện biến những tri thức đã học thành vốn sống cần thiết, vận dụng trong nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đặc biệt, sẽ giúp thanh niên, sinh viên phát huy khả năng độc lập, sáng tạo và năng lực hoạt động khoa học công nghệ, hoạt động chính trị-xã hội. Điều này vừa tạo điều kiện cho thanh niên, sinh viên tự khẳng định mình trước những diễn biến sôi động của những thay đổi tình hình chính trị, kinh tế đất nước, những thay đổi thang bậc giá trị, đồng thời vừa tự định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, những hành trang cần thiết để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước./.

ÂM MƯU XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ VÀ THÀNH TỰU CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cũng như nhiều năm trước, năm nay, gần đến ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám-Ngày hội của dân tộc, một số người lại “đem chuyện cũ kể lại”, nhưng thực chất là xuyên tạc lịch sử. Họ cho rằng, Việt Nam giành được chính quyền là do “ăn may”, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh công, đổ tội”... Về vấn đề này, đã có nhiều học giả trong nước và nước ngoài phân tích, chứng minh thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám là kết quả của quá trình đấu tranh, hy sinh xương máu của toàn thể dân tộc Việt Nam suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó còn là kết quả hơn 30 năm tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn dân Việt Nam đã phải chuẩn bị toàn diện thực lực cách mạng từ nhiều năm trước, chứ không phải là “ăn may” hay “tranh công” từ lực lượng khác.  
Lịch sử đã ghi nhận, ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam. Ngay tối hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và ngày 12-3-1945 ra Chỉ thị lịch sử “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước trong toàn quốc làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.   
Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới; Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1. Ngày 16-8-1945, “Quốc dân Đại hội Tân Trào” thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”; quyết định Quốc kỳ, Quốc ca và bầu Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ ngày 14-8 và đã giành thắng lợi trên cả nước, với ngày 19-8 ở Hà Nội, ngày 23-8 ở Huế, ngày 25-8 ở Sài Gòn... Như vậy, chỉ trong 15 ngày, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc cách mạng “long trời, lở đất".  
Đó là sự thật lịch sử! Chính Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo đã nắm chắc, tận dụng thời cơ, biết tổ chức và tập hợp lực lượng, động viên được toàn dân tộc làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đó còn là vai trò tiền phong, gương mẫu, bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, quyết chiến đấu vì quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân của hơn 5.000 đảng viên cộng sản. Họ là những chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất, một lòng một dạ vì nước, vì dân, kiên quyết lãnh đạo cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân để xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Những thành tựu to lớn của Việt Nam trong hơn 7 thập kỷ qua kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám đang tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục đổi mới và phát triển. Nhân dân Việt Nam từng chịu đựng biết bao mất mát, đau thương trong chiến tranh, trong thiên tai và đã chịu đựng nỗi khổ đến tận cùng khi bị giặc ngoại xâm đô hộ. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”. Nhưng, chúng ta cũng không thể làm ngơ trước hành động của một số ít người xuyên tạc lịch sử, “đổi trắng thay đen”, với những dã tâm thâm độc nhằm phủ nhận thành quả của cuộc cách mạng của dân tộc. Xuyên tạc thành tựu Cách mạng Tháng Tám mang lại là có tội với lịch sử, có tội với dân tộc, với nhân dân, với tổ tiên.

XUYÊN TẠC THÀNH TỰU CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ CÓ TỘI

Với ai từng sống trước Cách mạng Tháng Tám, hoặc sinh ra sau Cách mạng Tháng Tám nhưng từng xem những thước phim tư liệu, đọc sách lịch sử hoặc các tác phẩm văn học đều hình dung ra cuộc sống cơ cực của người dân Việt Nam dưới hai tròng áp bức, bóc lột là thực dân và phong kiến. Những chị Dậu, cái Tý, cái Bần, Chí Phèo, Thị Nở, lão Hạc, anh Pha... trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao… từng là nỗi ám ảnh của không ít người dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam, không có Cách mạng Tháng Tám thì không biết những tháng ngày cùng cực ấy sẽ đeo bám người dân Việt Nam đến bao giờ? Vậy mà mới đây, vẫn có người phát biểu trên mạng xã hội rằng: “Nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”. Thật là trơ trẽn! Có lẽ, họ không biết hoặc cố tình không biết rằng, vào chính năm diễn ra cuộc Cách mạng Tháng Tám, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người, bằng khoảng 10% dân số của cả nước vào thời điểm ấy. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người, người chết đói la liệt ở khắp nơi... 95% dân số Việt Nam lúc đó không biết chữ...
Chỉ một ngày sau khi nước nhà tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 vấn đề cấp bách, trong đó cứu đói là một trong 6 nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Đến đầu năm 1946, tức là chỉ 4 tháng sau Cách mạng Tháng Tám, công tác đê điều đã hoàn thành. Đồng thời, với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”, chính quyền và nhân dân cả nước ra sức cải tạo đất công cộng còn trống, như sân bãi, vỉa hè, bờ đê... để trồng trọt. Kết quả sản lượng hoa màu tăng gấp 4 lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Giặc đói bị đẩy lùi. Cũng chỉ một năm sau ngày nước nhà độc lập, phong trào “diệt giặc dốt” đã xóa nạn mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Thử hỏi, nếu không có Cách mạng Tháng Tám, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “giặc đói”, “giặc dốt” có bị đẩy lùi chỉ trong thời gian ngắn?
74 năm sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam tiếp tục viết nên những trang chói lọi nhất. Chúng ta đã đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ với những chiến công lừng lẫy ghi vào lịch sử thế giới, như: Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh... Chúng ta còn làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng.
Về lĩnh vực kinh tế-xã hội, từ một đất nước bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục cơ sở hạ tầng, ổn định đời sống nhân dân. Đặc biệt, trong hơn 30 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đã ra khỏi nhóm quốc gia kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao hơn với mức bình quân của thế giới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) từng bước hình thành, phát triển. Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa-xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những tháng đầu năm nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng khá cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II-2019 tăng 6,71% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2019 đạt mức tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,7%; 7 tháng năm nay, cả nước đã có 79,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 999,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% về số doanh nghiệp và tăng 29,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, còn có 24,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 29,9% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng năm nay là 743,9 nghìn người, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước...
Tại cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Takehiko Nakao và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc bên lề Hội nghị thượng đỉnh G20, đại diện của ADB đánh giá cao thành quả phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được giữ vững trong những năm gần đây, với tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội thực đạt 6,76% trong nửa đầu năm 2019 và 7,1% trong năm 2018-tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong hơn một thập kỷ. Đại diện ADB nhận định, Việt Nam tiếp tục chứng tỏ tiềm năng mạnh mẽ trong duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong bối cảnh quản lý tài khóa thận trọng, lạm phát ổn định, cán cân tài khoản vãng lai lành mạnh và dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ. Việt Nam cũng đang khẳng định vị trí của mình một cách hiệu quả trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu đang thay đổi.
Những con số biết nói trên đây khẳng định thành tựu của dân tộc Việt Nam sau 74 năm sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là những bằng chứng không thể chối cãi được cho những người cố tình xuyên tạc thành quả cách mạng của Việt Nam.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN SỨC SỐNG MÃNH LIỆT CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ nhận. Thế nhưng bằng cái nhìn chủ quan, phiến diện, với thái độ thiếu thiện chí, trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những luận điệu bóp méo, xuyên tạc sự thật về cuộc Cách mạng Tháng Tám của nhân dân ta. Cứ mỗi dịp chúng ta kỷ niệm sự kiện trọng đại này là những kẻ hồ đồ lại "lải nhải" giọng điệu cũ mèm, rằng nhờ “một sự ăn may” mà Cách mạng Tháng Tám mới thành công chứ Đảng Cộng sản Việt Nam “chẳng tài cán gì”... Lật tẩy âm mưu, làm rõ bản chất của luận điệu ấy là việc làm quan trọng, cấp thiết để chúng ta đấu tranh phản bác, đồng thời tiếp tục khẳng định tinh thần bất diệt, sự trường tồn của Cách mạng Tháng Tám trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
Một trong những chiêu trò mà các thế lực thù địch thường sử dụng để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá các nước không cùng quỹ đạo là phủ nhận ý nghĩa, giá trị của những thắng lợi, thành quả mà các quốc gia ấy đã giành được. Đối với cách mạng Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Những kẻ cố tình không nhìn ra giá trị của Cách mạng Tháng Tám lập luận rằng, vào đầu năm 1945, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Kể từ sau cuộc đảo chính ngày 9-3-1945, Nhật đã hất cẳng Pháp. Và khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện thì ở Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực”. Họ cho rằng, khi xuất hiện “khoảng trống quyền lực” thì không chỉ với Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, cách mạng cứ nổ ra là giành thắng lợi. Từ cách nhìn phiến diện và đơn giản ấy, họ cho rằng Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam thành công “là một sự ăn may”.
Thực tế lịch sử đã chứng minh diễn biến tình hình cả trước và trong Cách mạng Tháng Tám đều đã được Đảng ta dự báo và chủ động có các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp. Vậy thử hỏi nếu không có tầm nhìn và tư duy chiến lược sắc bén, nếu không có sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Cách mạng Tháng Tám có nổ ra đúng thời cơ và giành thắng lợi? Thử hỏi nếu không có sự chủ động tập dượt, chuẩn bị về tổ chức và lực lượng thì khi thời cơ đến, Việt Nam có chớp thời cơ để tiến hành tổng khởi nghĩa được không? Chắc chắn là không! Vậy thì tại sao lại nói cuộc cách mạng này nổ ra và thành công “là một sự ăn may”! Thêm nữa, nếu không dự đoán thời cơ chính xác, không chớp thời cơ kịp thời thì Đảng ta có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp để phát động tổng khởi nghĩa thành công hay không? Chắc chắn là không thể! Vậy căn cứ vào đâu để nói rằng thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “là một sự ăn may”!

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Có thể nói Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chủ quan vẫn là cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công là minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể đất nước, tình thế cách mạng để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp. Từ những nguyên nhân làm nên sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, chúng ta có thể khẳng định rõ rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công hoàn toàn không phải là "một sự ăn may", mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài và đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó. Thực chất của luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam nổ ra và thành công là “một sự ăn may” không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ đó phủ nhận toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.
Thời gian càng lùi xa thì ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của Cách mạng Tháng Tám càng lan tỏa. Trách nhiệm của những người Việt Nam yêu nước chân chính trước hết là hiểu đúng, nhận thức rõ về ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám. Mặt khác, mỗi người, mỗi tập thể phải biết phát huy truyền thống, tinh thần, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời phải luôn tỉnh táo, đề cao cảnh giác, nhận rõ những âm mưu và hành động thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động để kiên quyết vạch trần, đấu tranh phản bác.

VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

C. Mác và Ph. Ăngghen trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhân quyền tư sản và phê phán các tư tưởng về quyền con người trong xã hội tư sản, đã xây dựng thế giới quan khoa học mới về quyền con người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử nhằm xem xét một cách thống nhất giữa thuộc tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người cũng như giữa lý luận và thực tiễn của quyền con người. Theo các ông, phương thức sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng kinh tế, làm phát sinh, phát triển các mối quan hệ xã hội của con người, như đạo đức, chính trị, nhà nước, pháp luật và quyền con người. 
C. Mác khẳng định, quyền con người được luật pháp hóa thì thành quyền công dân theo nguyên tắc: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”, “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”; tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Nghĩa là, quan niệm về quyền con người không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.
Quyền con người, nếu xét một cách toàn diện, gồm quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Bởi lẽ, các quyền này thể hiện ba phương diện cốt lõi của đời sống con người: Con người trước hết phải được tồn tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động); con người phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, quyền sở hữu tư nhân được phát triển thành nhân quyền; và tính giai cấp của quyền con người được bộc lộ ra một cách sâu sắc. Quyền con người trước tiên là “ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật pháp”. Đồng thời, quyền con người cũng là kết quả phát triển trong xã hội và thành tựu đấu tranh của con người được nhà nước và xã hội thừa nhận dưới hình thức pháp luật, được pháp luật bảo vệ. 
Do sự hạn hẹp của “pháp quyền tư sản” nên quyền con người chỉ là đặc quyền của một thiểu số thành viên xã hội. Để bảo đảm một cách thực tế và toàn diện quyền con người, chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh phải đấu tranh cho dân chủ; coi việc “giành lấy dân chủ” là mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xã hội hóa các quan hệ sản xuất và thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ, để từng bước bảo đảm các quyền con người cho đại đa số thành viên xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước thực hiện mục tiêu cao nhất của xã hội loài người là giải phóng và phát triển toàn diện con người nhằm bảo đảm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. 
Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội, trước hết là bảo đảm một cách thực tế các quyền tồn tại và phát triển của con người (gồm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa). Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội phải toàn diện: bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa; bảo đảm cả quyền cá nhân và quyền tập thể; bảo đảm tự do và công bằng, bình đẳng, quyền con người thống nhất với quyền công dân, như đã được đề cập trong “Tuyên ngôn quyền lợi nhân dân lao động bị bóc lột” do V. I. Lênin khởi thảo tháng 01-1918. Trong “Cương lĩnh dân tộc” (năm 1913), V. I. Lê-nin khẳng định các quyền dân tộc cơ bản chính là quyền dân chủ, gồm: quyền bình đẳng, quyền tự quyết và quyền liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Các quyền đó đồng thời cũng là các nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, nhằm gắn việc thực hiện các quyền này với nâng cao mức sống, bảo vệ sức khỏe, giáo dục văn hóa và tôn trọng quyền con người. 
Trên cơ sở lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng đã tiếp cận vấn đề quyền con người từ quyền của người dân mất nước và quyền của người lao động, từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là không quên quyền lợi của bất kỳ một giai tầng xã hội nào, từ nhi đồng, thiếu niên, đến thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo, người khuyết tật, người dân mất nước... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định dân là chủ thì mới làm chủ và coi quyền cá nhân phải gắn với quyền tập thể, với quyền của toàn thể xã hội; bảo đảm quyền lợi của nhân dân Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là “công bộc”, là tấm gương phục vụ quyền lợi của nhân dân; đề ra nguyên tắc “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” trong tổ chức xây dựng, vận hành chế độ dân chủ với Nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong đó, việc bảo đảm quyền con người là trách nhiệm trước tiên của Đảng, Nhà nước.
Nét đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là kế thừa, phát triển quyền con người “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc; đúc kết tư tưởng cốt lõi về quyền con người vào các giá trị: độc lập - tự do - hạnh phúc cho mỗi người và mọi người; trong đó, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO TINH HOA TƯ TƯỞNG NHÂN LOẠI VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, mà tiêu biểu là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp cận vấn đề quyền con người trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Cụ thể là về lý luận, quyền con người mang tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người, thể hiện lý tưởng giải phóng - phát triển con người toàn diện và tự do. Về thực tiễn, quá trình hình thành, bảo đảm quyền con người luôn có tính đặc thù về xã hội, như truyền thống văn hóa dân tộc, trình độ sản xuất vật chất - tinh thần của xã hội và giai cấp. Trong khi đó, các lý thuyết đương đại khác tiếp cận vấn đề quyền con người có phần phiến diện. Chẳng hạn, thuyết nhân quyền tự nhiên được coi là thuyết nhân quyền phổ quát nhưng khi thể hiện giá trị nhân quyền phương Tây thường vấp phải sự thờ ơ, phản ứng khi vận dụng vào thực tiễn với các truyền thống văn hóa khác nhau của các dân tộc trên thế giới. Quan điểm nhân quyền pháp lý không thấy được giá trị cần phải có của đạo đức, văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Trong khi đó, thuyết tương đối văn hóa thì nhấn mạnh, có khi thiên về truyền thống văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Hệ quả chung của các cách tiếp cận phiến diện đó là sự bàng quang, vi phạm, hay biện minh cho những yếu kém trong thực tiễn bảo đảm quyền con người. 


BẢO ĐẢM TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ban hành và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, các tôn giáo đều được đối xử công bằng trước pháp luật
Trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước đến Đại hội XII, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.
Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Bên cạnh đó, các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân còn được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục…
Luật Tín ngưỡng tôn giáo có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2018 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP đã khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật… cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Hành vi bị nghiêm cấm: cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi; các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn công cộng, môi trường, xâm hại đạo đức xã hội, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân…”.
Đồng hành với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống nhân dân, Nhà nước Việt Nam luôn hoàn thiện các chính sách về tôn giáo, căn cứ quan trọng để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện đúng trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ và tạo mọi điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu tinh thần trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân cũng như người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
Như vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ban hành cơ sở pháp lý đảm bảo tôn trọng nhu cầu tinh thần tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đảm bảo các tôn giáo đều được đối xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật.

HỒ CHÍ MINH – TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG MẪU MỰC, KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thực sự là công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị.
Người là tấm gương tiêu biểu cho lối sống giản dị và khiêm tốn, trung thực và trong sáng, bao dung và độ lượng... Đó là những phẩm chất cao quý, tượng trưng cho những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí và nhân cách của người Việt Nam. Không chỉ nhân dân Việt Nam mà loài người tiến bộ trên thế giới cũng luôn dành sự kính trọng đặc biệt, tôn vinh Người là Danh nhân văn hóa, là Anh hùng giải phóng dân tộc, là chiến sĩ cộng sản xuất sắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã được cả dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ thừa nhận. Người là tấm gương mẫu mực về thực hành tiết kiệm, giữ liêm chính, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi; từ cách ăn, mặc, sinh hoạt đến ngôi nhà sàn mộc mạc, đơn sơ... đã nói lên điều đó. Người đã hiến dâng trọn đời vì dân, vì nước, không màng công danh, không ham chức tước, không tham quyền lực. Đó là điều không thể phủ nhận! Thế nhưng, vẫn có những kẻ nhẫn tâm xuyên tạc phẩm chất, nhân cách cao đẹp của Người.
Hồ Chí Minh là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, nhưng Người luôn gần gũi với mọi người, nhất là với nhân dân lao động. Ở Người, sự vĩ đại và cao cả được thể hiện thông qua những điều hết sức đời thường và giản dị. Sự giản dị của Hồ Chí Minh không chỉ là biểu hiện của đạo đức, lối sống mà còn là phong cách quần chúng, trọng dân và vì dân. Đó là một sự giản dị không một chút gắng gượng, mà được tỏa ra từ tấm lòng nhân hậu, chân thành, khiêm tốn của một con người đã vượt qua bão tố của đời thường để đạt tới độ thuần phác của tự nhiên. Sự giản dị của Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng mang tầm giá trị văn hóa, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân, khiến ai cũng có thể học tập và noi theo. Vậy mà, những kẻ thù địch lại tìm mọi cách để xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu về Hồ Chí Minh. Từ phong cách sống giản dị, khiêm tốn và luôn nghiêm khắc với chính bản thân của Người, họ đã suy diễn một cách võ đoán, thiếu căn cứ, rằng: “Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh, sống ép mình, tự trói buộc mình”.
Nét nổi bật trong tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đức tính khiêm tốn.  Mặc dù có công lao rất to lớn, nhưng Người luôn day dứt với một suy nghĩ chưa làm tròn nghĩa vụ cách mạng với dân, với nước. Là lãnh tụ của dân tộc, có uy tín lớn nhưng không bao giờ Người coi mình đứng cao hơn nhân dân, không để ai sùng bái cá nhân mình, chỉ tâm niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân dân, “như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang tiếp tục tỏa sáng, lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội là minh chứng hùng hồn phản bác tất cả những lời bịa đặt, xảo trá, thâm độc của những kẻ thù.
Mọi điều vu khống, xuyên tạc sự thật nhằm hạ thấp uy tín, bôi nhọ danh dự của Hồ Chí Minh chỉ có thể gây hoài nghi cho một vài người, song không thể làm phai mờ hình ảnh cao đẹp và tấm gương đạo đức trong sáng của Người.
Không chỉ có sức lan tỏa mạnh mẽ, được nhân dân Việt Nam ngưỡng mộ và kính trọng, Hồ Chí Minh còn là người có sức hút lạ thường, chiếm được trái tim và khối óc của nhiều nhà hoạt động chính trị, nhà nghiên cứu trên thế giới. Ông Mark Delphin, nguyên Chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Cộng hòa dân chủ Đức từng nói: “Tôi đã đi nhiều nước, đã gặp nhiều nhân vật chính trị trên thế giới, kể cả châu Âu, châu Á, nhưng tôi chưa thấy ai đạt tới sự thống nhất hài hòa giữa chủ nghĩa nhân đạo và tầm cao chính trị, giữa đức tính giản dị, khiêm tốn và sự hiểu biết sâu rộng, giữa tình cảm ấm áp và nghị lực phi thường đến mức tuyệt vời như Bác Hồ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam và tiến trình lịch sử nhân loại. Đối với Việt Nam, Người đã làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc, từ thân phận một dân tộc nô lệ, thành một dân tộc độc lập, tự do. Với thế giới, Người đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng ngời về sự cống hiến to lớn vào sự nghiệp chung giải phóng con người, giải phóng giai cấp. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam” chính là để ghi nhận những cống hiến to lớn của Người cho hòa bình, độc lập dân tộc, tình hữu nghị và sự phát triển các quan hệ văn hóa theo lý tưởng nhân văn của thời đại. Điều này một lần nữa khẳng định, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người là những giá trị mang tầm vóc thời đại, được nhân loại ca ngợi và tôn vinh.
Sự thật tự nó đã nói lên tất cả - nhân cách đạo đức cao đẹp và sáng ngời của Hồ Chí Minh vẫn luôn trường tồn, hiện hữu với mọi người Việt Nam và đông đảo bạn bè quốc tế. Sự bịa đặt, xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch, phản động là không thể chấp nhận. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người luôn tỏa sáng, mãi mãi là tấm gương vĩ đại để các thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo. 

BẢO ĐẢM AN NINH TÔN GIÁO

Trong thời kỳ chiến tranh, thực dân đế quốc tìm cách  lợi dụng tuyên truyền tôn giáo vào các vùng dân cư của ta để ''ru ngủ'' quần chúng cũng như phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Hiện nay, chiêu bài này tiếp tục được sử dụng với nhiều hình thức tinh vi để phá hoại sự ổn định của xã hội.
Trong mối quan hệ với an ninh quốc gia, tôn giáo giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Để giải quyết tốt các vấn đề liên quan, Đảng, Nhà nước ta đã quy định rõ vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong Hiến pháp và các luật liên quan. Đồng thời, xác định rõ giữa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Để ngăn chặn hoạt động lợi dụng chống phá, ở cấp cơ sở, chúng ta phải quan tâm đến đời sống của bà con, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Đặc biệt, phải tập trung phát hiện các đối tượng lợi dụng tôn giáo để chống đối, nhanh chóng thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng để đưa ra xử lý trước pháp luật. Mặt khác, tiếp tục củng cố mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo trên thế giới, vì sự phát triển lành mạnh, hài hoà giữa đời sống tôn giáo và các lợi ích quốc gia, công cộng.

TUYÊN TRUYỀN SAI LỆCH VỀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Trong hàng ngũ chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, bên cạnh đa số đồng hành cùng sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước thì có những cá nhân “nuôi” cái nhìn sai lệch về chế độ, thậm chí mang trong mình tư tưởng thù địch, chống đối với chính quyền.
Thông qua các buổi rao giảng giáo lý, giáo luật, các đối tượng núp dưới vỏ bọc tôn giáo, lồng ghép các tư tưởng, thông tin sai lệch, xuyên tạc vấn đề, kích động các tín đồ chống đối với chính quyền, chia rẽ mối đoàn kết dân tộc. Lướt qua các trang truyền thông, không khó để bắt gặp các video giảng đạo có nội dung đi ngược chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi ngược giáo lý, giáo luật.
Tôn giáo là hệ thống niềm tin của con người. Nó tác động đến nhận thức, suy nghĩ, cách nhìn nhận của con người. Chính vì vậy, việc lợi dụng tôn giáo để chống phá vô cùng nguy hiểm. Từ việc nhận thức sai lầm, sẽ có những hành động sai lệch, xâm hại đến tình hình an ninh, trật tự cũng như lợi ích của xã hội.

LỢI DỤNG VỎ BỌC TÔN GIÁO ĐỂ HÌNH THÀNH CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ ĐỐI LẬP CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Dưới bóng tổ chức tôn giáo, các đối tượng thù địch âm mưu tiến hành thành lập, xây dựng lực lượng, hình thành nên tổ chức chống đối. Đây là một con đường đang được kẻ địch triệt để lợi dụng. Tôn giáo được lấy ra làm cái cớ để tập hợp, thu hút mọi người tham gia. Đồng thời, vỏ bọc tôn giáo cũng như một tấm bùa “hộ mệnh” cho các tổ chức này. Âm mưu của các tổ chức phản động dưới vỏ bọc tôn giáo có thể thấy đang diễn biến phức tạp.
Thông qua sự quản lý, điều hành của các đối tượng chống đối, một số cơ sở tôn giáo nếu không quản lý tốt sẽ bị biến thành nơi để các đối tượng hội họp, bàn luận, chỉ đạo các hoạt động chống phá, rao giảng những luận điệu sai trái.  
Mặt khác, thông qua vỏ bọc tôn giáo, các đối tượng muốn “hợp pháp hoá” hoạt động của mình. Khi cơ quan chức năng phát hiện bản chất phía sau và không công nhận hoạt động, các đối tượng lại tiếp tục rêu rao, vu khống Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền, không có tự do tôn giáo”.

BÁO CÁO, PHÚC TRÌNH SAI LỆCH VỀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Thời gian qua, một số cơ quan, tổ chức như Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, Nghị viện châu Âu, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá Quốc tế (AI)... đã đưa ra nhiều phúc trình có nội dung sai lệch về tình hình Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 29-4, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra bản phúc trình về tự do tôn giáo. Khi nói về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra các nhận định, đánh giá chủ quan, phiến diện, không đúng sự thật.
Và vẫn như thường lệ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch như nêu trên. Qua việc nghiên cứu các bản phúc trình, báo cáo về tình hình tôn giáo ở Việt Nam của các tổ chức trên, không khó để chúng ta nhận thấy sự kỳ thị, thù địch của những người soạn thảo. Đặc biệt, nhiều nội dung trong đó vu khống, bóp méo vấn đề tôn giáo của nước ta.
Suy cho cùng, đằng sau ngọn cờ tôn giáo vẫn là các mưu đồ về chính trị. Tôn giáo đã bị biến thành công cụ, phương tiện, thậm chí, nó còn được coi là một “đòn hiểm” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Với Việt Nam, các thế lực chống đối luôn tìm mọi cách để tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, từ đó dễ dàng khống chế và sử dụng tôn giáo vào mục đích chống phá.
Thực tế cho thấy, việc Bộ Ngoại giao Mỹ và nhiều quốc gia phương tây thường xuyên tiến hành các cuộc điều trần về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, cũng như xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta, từ đó làm thay đổi bản chất của chế độ, đưa Việt Nam đi vào sự lệ thuộc.

NHẬN DIỆN SỰ THẬT NHỮNG “BẢN PHÚC TRÌNH” VỀ TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Trong bản phúc trình về tự do tôn giáo được đưa ra gần đây, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục đưa thông tin sai lệch tình hình tôn giáo của Việt Nam. Trong đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng: “Vấn đề tự do tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam vẫn bị xuống cấp nghiêm trọng; chính phủ Việt Nam tiếp tục đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa để đòi hỏi tự do tín ngưỡng và tự do thờ phụng, trong đó có những nhà hoạt động cho tôn giáo và nhân quyền; nhiều tổ chức tôn giáo không được chính phủ công nhận…”.
Lợi dụng những ràng buộc về giáo lý, giáo luật cũng như các vấn đề liên quan đến thần quyền, nhiều đối tượng xấu đã tiến hành khống chế tín đồ, tuyên truyền, rao giảng các thông tin sai lệch về tình hình đất nước, từ đó kích động người dân đấu tranh chống đối với chính quyền. Thẳng thắn đánh giá, tôn giáo là một mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thông qua con đường tôn giáo, các thế lực thù địch, chống đối với Việt Nam một mặt tập trung lực lượng trong nước, hình thành nên các tổ chức chính trị đối lập núp dưới bóng tổ chức tôn giáo; mặt khác, các đối tượng xuyên tạc, bôi nhọ, làm sai lệch tình hình tôn giáo của Việt Nam, vu cáo chính quyền Việt Nam vi phạm quy định pháp luật quốc tế.

NGƯỜI DÂN CẦN CẢNH GIÁC, TRÁNH MẮC MƯU BỌN PHẢN ĐỘNG

Với ý đồ tổ chức, phát triển lực lượng để tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, các đối tượng trong tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đẩy mạnh các hoạt động chống phá.
Cùng với các hoạt động khủng bố, phá hoại là việc tuyên truyền, phá hoại về tư tưởng. Những chương trình mị dân được đưa ra nhằm khiến những người nhẹ dạ cả tin bị lôi kéo... Đây là hoạt động rất nguy hiểm, đòi hỏi mỗi người dân phải cảnh giác, có ý thức tự bảo vệ mình.
Để thực hiện hành vi chống phá, Đào Minh Quân thường xuyên livestream trên facebook để tuyên truyền, khuếch trương thanh thế cho tổ chức nhằm củng cố niềm tin cho số trong nước. 
Đối tượng Lisa Phạm thực hiện chương trình “Khai dân trí” hằng ngày với thời lượng từ 40-50 phút để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình an ninh, chính trị trong nước..., kích động thực hiện các chương trình chống phá. 
Ý đồ của số đối tượng cầm đầu “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” là từng bước lôi kéo, hình thành lực lượng đối kháng với Đảng Cộng sản Việt Nam ngay trong nước. Để thực hiện ý đồ này, các đối tượng sử dụng nhiều phương thức nhằm móc nối, lôi kéo người tham gia tổ chức.
Một trong số đó là việc tiếp tục thực hiện Chiến dịch “Trưng cầu dân ý” giai đoạn 2 nhằm tạo vành đai thân hữu, qua đó phát triển lực lượng cho tổ chức, đây là một trong những thủ đoạn mà tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đã và đang thực hiện. 
Tổ chức này đã thành lập 4 trang web, các trang facebook để tuyên truyền về Chiến dịch “Trưng cầu dân ý” và hướng dẫn cách thức tham gia theo những cách khác nhau: Các đối tượng có thể tham gia trực tuyến trên các trang web của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”; tải mẫu tham gia sau đó điền thông tin cá nhân và chụp ảnh gửi qua tin nhắn cho các đối tượng cầm đầu tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” ở bên ngoài hoặc gọi điện hoặc nhắn tin đến “Văn phòng thủ tướng Đào Minh Quân” để điền thông tin tham gia...
Với thủ đoạn trên, các đối tượng đã nhằm vào những người có nhận thức chính trị hạn chế, có tư tưởng bất mãn với những tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội, thường xuyên truy cập vào các trang mạng có nội dung chống Đảng, Nhà nước để tìm hiểu. Sau đó hứa hẹn sẽ cho tiền, vị trí quan trọng trong tổ chức nếu tham gia “Trưng cầu dân ý”. 
Bằng chiêu trò này, đến nay, bọn phản động đã tổ chức lôi kéo được hơn 1.000 trường hợp ở trong và ngoài nước tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế, đây chủ yếu là danh sách ảo do một số đối tượng lập khống để lấy tiền hoặc báo cáo thành tích với số bên ngoài. Đáng chú ý, nhiều đối tượng đã lấy tên của cả gia đình, người quen hoặc hàng xóm để đăng ký “Trưng cầu dân ý”. Vì thế, nhiều người có tên trong danh sách nhưng khi được hỏi đến đều không biết gì.
Để lôi kéo người tham gia, các đối tượng cốt cán trong tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” như Đào Minh Quân, Kelly Triệu Thanh Hoa, Lâm Ái Huệ..., còn thường xuyên tìm kiếm trên mạng xã hội facebook những người hay theo dõi, bình luận, chia sẻ các trang facebook, bài viết, video, clip của tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, mời số này tham gia.
Không dừng lại ở đó, lợi dụng tâm lý hám lợi, lòng tham, hoàn cảnh khó khăn và sự nhận thức hạn chế của một bộ phận người dân, tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời còn thực hiện Chương trình “Cấp phát nhà miễn phí”. Chúng tuyên truyền, đây là chương trình được tài trợ bởi các tổ chức nước ngoài. 
Bọn chúng yêu cầu những người muốn được “Cấp nhà miễn phí” phải tham gia Chiến dịch “Trưng cầu dân ý”; thể hiện quan điểm chống đối, lên án chính sách của Đảng, Nhà nước, mong muốn thay đổi chế độ và công khai ủng hộ “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” và Đào Minh Quân làm tổng thống “Đệ tam Việt Nam Cộng Hòa”....
Với bản chất phản động, Đào Minh Quân và đồng bọn vẫn chưa từ bỏ ý định chống Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, chúng bày ra chương trình với chiếc mũ an sinh xã hội như trên cùng những hứa hẹn hỗ trợ tài chính, các đối tượng tiếp tục đánh vào lòng tham, tâm lý hám lợi của người dân có cuộc sống khó khăn. Vì thể để ngăn chặn tình trạng trên, cùng với sự vào cuộc của cơ quan chức năng thì mỗi người dân cần phải nâng cao ý thức cảnh giác. 
Mỗi người dân, mỗi người sử dụng mạng xã hội phải hiểu rõ bản chất của các đối tượng trong tổ chức và nhận thức được miếng bánh vẽ mà các đối tượng đưa ra. Có như vậy, mới tránh bị các đối tượng lợi dụng, lôi kéo tham gia thực hiện hành vi vi phạm. “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” là tổ chức khủng bố. 
Do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” tổ chức; hoạt động theo chỉ đạo của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”… là phạm tội “Khủng bố”, “Tài trợ khủng bố” và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

TỪ HỌC BỔNG “XÃ HỘI DÂN SỰ VOICE” ĐẾN NHỮNG NGUY CƠ ĐE DỌA AN NINH QUỐC GIA

Cái gọi là “học bổng xã hội dân sự VOICE” thực chất chính là một khóa đào tạo chống phá chính quyền Việt Nam. Núp dưới danh nghĩa học bổng, núp dưới vỏ bọc xã hội dân sự, các đối tượng tiến hành tập trung các phần tử có tư tưởng lệch lạc, biến chất người Việt để từ đó huấn luyện, đào tạo thành các hạt nhân chống đối.
Sau khóa đào tạo, các đối tượng tiến hành tung “học viên” về nước để hoạt động. Đây là một nguy cơ lớn đe dọa đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Qua quá trình đào tạo, phương thức, thủ đoạn chống phá Đảng, nhà nước của các đối tượng trở nên tinh vi hơn, khó phát hiện hơn. 
Cùng với đó, do có sự móc nối giữa đối tượng trong nước và ngoài nước, do các hoạt động chống phá được lên kế hoạch bài bản nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi chống phá sẽ tăng lên gấp bội.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chống đối, từ đó có biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Đặc biệt, hoạt động đào tạo lực lượng núp dưới học bổng xã hội dân sự của Tổ chức VOICE cần được cơ quan chức năng giám sát một cách chặt chẽ để chủ động ứng phó.    

CẨN TRỌNG DƯỚI CHIÊU TRÒ “XÃ HỘI DÂN SỰ”

Thời gian vừa qua, “xã hội dân sự” được sử dụng như một chiêu bài để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”.
Một cách đơn giản, xã hội dân sự được định nghĩa là xã hội tự lập, phi nhà nước, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước. Đó có thể là các tổ chức, hội, nhóm, cộng đồng v.v… được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tự chủ và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
Xét về bản chất, xã hội dân sự không hề xấu. Nếu các tổ chức xã hội dân sự hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích đã đăng ký với cơ quan chức năng, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật quốc gia thì nó sẽ thúc đẩy tính dân chủ, trở thành cầu nối giữa Nhà nước và người dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn trong nước và quốc tế thời gian qua, có thể thấy xã hội dân sự đang bị một số đối tượng lợi dụng để chống phá chính quyền. Với Việt Nam, các đối tượng triệt để sử dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hoá”, tác động thay đổi tình hình chính trị của nước ta.
Thứ nhất, các đối tượng núp bóng xã hội dân sự để thành lập các tổ chức chính trị đối lập, tiến tới đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Hoạt động đầu tiên được các đối tượng sử dụng là tuyệt đối hoá sự độc lập của xã hội dân sự. Bằng các lập luận của mình, các đối tượng truyền bá luận điệu giữa xã hội dân sự và chính quyền có sự tách bạch riêng rẽ với nhau. Xã hội dân sự được ca ngợi là tiến bộ, dân chủ, coi trọng quyền con người; ngược lại, các đối tượng rêu rao chính quyền là bó buộc, bảo thủ, không phù hợp với thực tiễn.
Thậm chí, các đối tượng còn truyền bá thông tin xã hội dân sự là đối trọng với chính quyền, chỉ khi nào xã hội dân sự “độc lập” một cách tuyệt đối thì nó mới có thể phát huy quyền lực của mình, bảo đảm tính tự do, dân chủ của đất nước. Từ đây, các đối tượng hình thành ở người dân tư tưởng chống đối với chính quyền.
Dưới vỏ bọc xã hội dân sự, các đối tượng tiến hành tập hợp lực lượng, truyền bá, rao giảng các thông tin sai lệch, từ đó hình thành nên các tổ chức chính trị đối lập với chính quyền. Với Việt Nam, cái đích cuối cùng được hướng đến là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hình thành xã hội đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng lái, chuyển hoá chế độ.
Thứ hai, qua hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự, các đối tượng tạo sức ép cho chính quyền, can thiệp vào công việc nội bộ đất nước. Không khó để nhận thấy thời gian vừa qua, với chiêu bài xã hội dân sự, các đối tượng phản động, chống đối trong và ngoài nước đã câu móc với nhau, xây dựng các hội, nhóm chống đối. Lợi dụng các sự kiện nóng, đặc biệt là các sự kiện liên quan đến vấn đề khiếu kiện đất đai, ô nhiễm môi trường, dân tộc, tôn giáo v.v…, các đối tượng tụ tập, hình thành nên các tổ chức mang tính tự phát.
Những cái tên như “Hội dân oan”, “Hội phản đối BOT”, “Hội tù nhân lương tâm” v.v… được các đối tượng sử dụng để tiến hành tập trung lực lượng. Thông qua hoạt động của các hội nhóm này, các đối tượng đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm cho chúng một thứ tự do vô giới hạn. 
Cùng với đó, các hội nhóm trong nước tiến hành móc nối với các tổ chức phản động, chống đối bên ngoài và các thế lực thù địch với Việt Nam để tiến hành hoạt động gây sức ép nhằm cam thiệp vào công việc nội bộ đất nước ta.

BẢN CHẤT CÁI GỌI LÀ “HỌC BỔNG XÃ HỘI DÂN SỰ VOICE”

Trước hết, bàn về tổ chức VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment), hay còn gọi là “Sáng kiến vì lương tâm người Việt hải ngoại”, có thể khẳng định đây chính là tổ chức ngoại vi của Việt Tân. 
Tổ chức này manh nha hoạt động từ năm 1997, do Trịnh Hội – một kẻ có nhiều hành vi chống phá Việt Nam - đứng đầu. Đến năm 2007, VOICE chính thức được thành lập như một tổ chức phi chính phủ (NGO).
Theo tuyên bố, mục tiêu hoạt động của VOICE là “thúc đẩy xã hội dân sự Việt Nam phát triển, vận động các chính sách và nhân quyền, và giúp tái định cư những người Việt tị nạn”. Tuy nhiên, bản chất chính của tổ chức này là chống phá chính quyền Việt Nam, truyền bá tư tưởng về xã hội dân sự, kích động người dân chống đối chính quyền.
Một trong những hoạt động được tổ chức VOICE thực hiện thường xuyên là cung cấp các học bổng về xã hội dân sự. Thực chất, đây là lớp huấn luyện, đào tạo, trang bị các kiến thức đấu tranh chống đối và tập trung lực lượng.
Về cái gọi là “học bổng xã hội dân sự VOICE”, các đối tượng rêu rao “Sứ mệnh của Khóa đào tạo này là giúp các học viên trở thành những công dân tích cực, giàu tinh thần cộng đồng, và được trang bị các kiến thức nền tảng để có thể trở thành nhà hoạt động xã hội dân sự chuyên nghiệp”.
Đi liền với đó là những hứa hẹn như “Những học viên tốt nghiệp xuất sắc khóa đào tạo sẽ được VOICE gửi sang các tổ chức quốc tế ở các quốc gia Đông Nam Á, Đông Á, châu Âu, Úc, và Mỹ để thực tập trong vòng 3-6 tháng sau đó”.
Vậy nhưng đằng sau những lời tuyên bố đầy tốt đẹp lại là những hoạt động chống đối nguy hiểm. Trong khoá đào tạo của mình, trước hết VOICE truyền bá những cách nhìn nhận sai lệch về tình hình chính trị, xã hội tại Việt Nam, hình thành tư tưởng chống đối chính quyền cho học viên. 
Sau đó, VOICE tiến hành tập huấn, trang bị, huấn luyện cho học viên các nội dung về đấu tranh bất bạo động đối với chính quyền, đặc biệt là việc sử dụng chiêu bài tự do, nhân quyền để tiến hành chống phá.
Ngoài ra, VOICE còn tổ chức cho học viên tiếp xúc với các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị để học hỏi phương thức hoạt động, thậm chí là cả cách ứng phó với cơ quan chức năng. Các “sản phẩm” sau đào tạo được tung về nước, trở thành hạt nhân tập trung lực lượng tiến hành chống phá chính quyền.

HIỆN THỰC SINH ĐỘNG PHỦ ĐỊNH NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC VỀ TỪ DO BÁO CHÍ

Ngày nay, ngành truyền thông nói chung, báo chí nói riêng phản ánh bộ mặt xã hội, là sự thể hiện trình độ văn hóa, văn minh và bản chất của một dân tộc, một chế độ chính trị. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác báo chí.
Ngày 3-4-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 362/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí (QHBC) toàn quốc đến năm 2025. Nội dung QHBC theo hướng cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo đồng thuận trong xã hội, định hướng tư tưởng và thẩm mỹ, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa và con người Việt Nam. 
Trên cơ sở QHBC, Nhà nước sẽ có cơ sở để đề ra cơ chế, chính sách tài chính, đào tạo, tạo điều kiện cần thiết cho báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền đồng thời khuyến khích các cơ quan báo chí tăng cường huy động nguồn lực phát triển nhưng phải bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, không chạy theo lợi nhuận thuần túy, không để tư nhân sở hữu báo chí, không để nhóm lợi ích chi phối báo chí.
Kỷ niệm Ngày Báo chí Cách mạng năm nay, chúng ta có nhiều niềm vui lớn. Bên cạnh những thành tựu kinh tế xã hội là vị thế quốc gia, dân tộc được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tại khóa họp thứ 73, Đại hội đồng Liên Hợp quốc (LHQ) ngày 7-6-2019, Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu gần như tuyệt đối. Đó là minh chứng sống động cho thấy uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, xã hội ta cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Đó là duy trì nhịp độ tăng trưởng, hạn chế phân cực giàu nghèo, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tham nhũng, tiêu cực. 
Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, suy thoái về tư tưởng chính trị hiện nay diễn ra trong bối cảnh internet, mạng điện tử phát triển mạnh mẽ, đặt ra nhiều thách thức mới với nhà báo, người cầm bút. 
Những thủ đoạn của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, những kẻ tự xưng là “người bất đồng chính kiến” thường chỉ trích, phê phán rằng xã hội ta là “độc tài”, là “phản phát triển”, mất tự do, dân chủ, nhất là xuyên tạc Việt Nam “không có tự do báo chí”! Chúng cổ vũ cho mô hình xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) hiện đại, tâng bốc tự do dân chủ, tự do báo chí kiểu phương Tây.
Bác bỏ những thông tin xấu độc, những quan điểm chống phá của các thế lực thù địch, báo chí, người cầm bút cần chỉ ra bản chất, chân lý. Chân lý ở đây không phải là mô hình xã hội nào tiên tiến hơn mà là mô hình xã hội phù hợp với bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và lịch sử của dân tộc. Đấu tranh với các thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhà báo, người cầm bút cần dựa trên quan điểm chính trị của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. 
Hiện nay, dư luận đang bức xúc với những biểu hiện thương mại hóa báo chí, đặt nặng lợi ích kinh doanh, lợi nhuận khiến thông tin truyền tải bị “méo mó”. Không ít báo chí coi nhẹ việc đưa những thông tin chân thực, những mặt tốt đẹp của dân tộc, của đời sống xã hội mà tập trung vào các mặt tiêu cực, lệch lạc. Từ kỹ thuật câu view, câu like bằng mọi giá như rút tít (title) giật gân, ly kỳ, tìm kiếm những câu chuyện “tiền, tình, tù, tội” đến việc “hư cấu” đưa thông tin không kiểm chứng…
Nhân dân mong rằng trong thời gian tới, không còn những biểu hiện sai lệch về chính trị, tư tưởng, gây phương hại đến an ninh quốc gia. Phòng ngừa, ngăn chặn những trường hợp nhà báo lợi dụng quyền hạn để “đánh” doanh nghiệp với mục đích dọa dẫm để kiếm “phong bì”, thu lợi bất hợp pháp… Bởi vậy có thể nói, để thực hiện được trọng trách của mình, báo chí cũng cần đấu tranh với những biểu hiện suy thoái trong đội ngũ những người làm báo, những người cầm bút. 
Nhân dân mong rằng có nhiều hơn những bài báo phát hiện những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất như vụ Trịnh Xuân Thanh, vụ bổ nhiệm cán bộ sai quy định, sai nguyên tắc ở Thanh Hóa... Hoặc gần đây, từ phóng sự về vụ chùa Ba Vàng ở Uông Bí, Quảng Ninh đã buộc cơ quan chức năng vào cuộc giải quyết rốt ráo việc lợi dụng mê tín dị đoan để trục lợi bất chính.
Không gian đổi mới, sáng tạo rộng mở và chính báo chí đã đồng hành, giúp cơ quan chức năng phát hiện, đấu tranh có hiệu quả tệ tham nhũng, tiêu cực, các biểu hiện lệch lạc trong đời sống xã hội. 
Thế nhưng, nhiều hãng báo chí phương Tây vẫn “bổn cũ soạn lại”, nhai lại điệp khúc xuyên tạc, bịa đặt về tự do báo chí ở Việt Nam. Họ phỏng vấn những cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam, bị xử lý, chụp mũ dưới danh nghĩa “bất đồng chính kiến” để vu cáo rằng: quản lý báo chí là bóp nghẹt tự do ngôn luận, là ép báo chí phải thực hiện “cái gậy chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam”… 
Những kẻ đưa tin xấu độc phê phán sự lãnh đạo, quản lý báo chí, xuyên tạc về tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam thường là những đối tượng phạm pháp, cơ hội chính trị, làm tay sai cho các thế lực chống phá Việt Nam. 
Chúng ta tin tưởng rằng, với truyền thống của báo chí cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, giới báo chí Việt Nam nhất định sẽ bảo vệ và tôn tạo một nền báo chí vì Tổ quốc, vì nhân dân, tôn trọng sự thật và góp phần bảo đảm quyền con người.

SÂU XA CỦA TUYỆT THỰC LÀ GÌ?

Trong bài viết “Tuyệt thực trong tù để làm gì?” của đối tượng Diễm Quỳnh được Việt Tân và một số website khác đăng tải, rất nhiều lý do được đưa ra như tuyệt thực để bảo vệ quyền lợi cá nhân, chống lại sự bất công, đấu tranh vì nhân quyền… Thông qua việc “múa bút”, những kẻ có hành vi xâm phạm an ninh quốc gia được tô vẽ như những anh hùng: “Tuyệt thực không có nghĩa là người tranh đấu muốn kết cục là cái chết, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận cái chết, như một cột mốc để chính quyền xét lại tư cách cầm quyền của mình, trước sự giám sát và phẫn nộ của nhân dân”.
Sự thật hành vi tuyệt thực của những đối tượng xâm hại an ninh quốc gia này chỉ là một chiêu trò chống đối. Đằng sau những lần tuyệt thực là những động cơ hết sức sâu xa về mặt chính trị.
Trước hết, các đối tượng tuyệt thực nhằm đánh bóng tên tuổi và để bản thân không bị lãng quên. Không khó để chúng ta nhận thấy những nhà “dân chủ” đang mọc lên như nấm sau mưa. “Dân chủ” đã trở thành một nghề kiếm cơm của không ít đối tượng. Và hiển nhiên, trong nghề “dân chủ” này, việc cạnh tranh là điều khó có thể tránh được.
Chính vì vậy, khi bị kết án và chấp hành hình phạt tù, nếu không tuyệt thực, không có các hành động chống phá thì tên tuổi của những nhà “dân chủ” cũng sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Do không thể từ bỏ những lợi ích nên dù bị kết án phạt tù, các đối tượng vẫn tìm mọi cách để tiến hành các hành động chống đối nhằm thu hút sự chú ý từ các các nhân, tổ chức cũng như các thế lực phản động ở bên ngoài.
Thông qua việc tuyệt thực, các đối tượng đang chấp hành án ở trong nhà tù câu kết với các đối tượng phản động, chống đối ở bên ngoài bôi nhọ chế độ, xuyên tạc bản chất Nhà nước. Muôn vàn thông tin sai lệch liên quan đến việc tuyệt thực được các đối tượng thêu vẽ. Trong đó, lập luận được các đối tượng liên tục sử dụng là Nhà nước ta sử dụng nhà tù để đàn áp, trả thù người chống đối, bất đồng chính kiến, xâm phạm đến nhân quyền của người chấp hành án.
Đây là thông tin bịa đặt một cách trắng trợn, thể hiện sự thâm hiểm của các đối tượng phản động. Bởi lẽ, với lập luận trên, các đối tượng phủ nhận sạch trơn việc bản thân có hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác, các đối tượng vu khống nhà nước ngăn cản các quyền lợi chính đáng của người dân. Suy cho cùng, đích đến của các đối tượng này cũng chỉ để thực hiện mưu đồ xâm hại an ninh quốc gia của Việt Nam.
Mặt khác, qua hành vi tuyệt thực, các đối tượng thổi phồng sự việc, từ đó kêu gào sự giúp đỡ từ các tổ chức bên ngoài nhằm gây sức ép với Việt Nam. Thông qua bàn tay của các tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam, các đối tượng chờ đợi những tác động nhằm giúp bản thân được sớm ra tù.
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rõ, việc tuyệt thực chính là một cách để các đối tượng phản động, chống đối tạo cớ cho các tổ chức bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta. Trước hết, đó là các cá nhân, tổ chức phản động, cơ hội chính trị người Việt ở trong và ngoài nước. Các nhóm trên có sự câu kết chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung là chống phá Nhà nước, xoá bỏ chế độ, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta. 
Thực tế, các đối tượng lu loa “tuyệt thực”, song tại trại giam cho thấy, các phạm nhân này vẫn ăn uống bình thường theo tiêu chuẩn quy định, thậm chí họ còn tiếp nhận thực phẩm tiếp tế từ gia đình khá đầy đủ.
Với chiêu trò tuyệt thực, các đối tượng bị kết án đã tạo ra cái cớ để những thế lực bên ngoài thò tay vào công việc nội bộ của nước ta, tạo lý do để các bản phúc trình về dân chủ, nhân quyền có nội dung sai lệch được công bố.
Hành động tuyệt thực của các đối tượng thể hiện sự chống đối quyết liệt, ngoan cố và thiếu tôn trọng pháp luật. Nguy hiểm hơn, hành động này lại được không ít kẻ cổ suý, tung hô và sử dụng vào việc xâm hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam. Bên cạnh việc xử lý những kẻ có hành vi sai phạm, Đảng, Nhà nước đẩy mạnh việc tuyên truyền các thông tin chính thống, chủ động đấu tranh với các thông tin sai lệch về vấn đề tuyệt thực để người dân hiểu rõ sự thật, cảnh giác với các âm mưu, hành vi chống phá. 

TUYỆT THỰC – CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH

Gần đây, trên nhiều trang truyền thông của các tổ chức, cá nhân phản động, chống đối đồng loạt đăng tải các bài viết có nội dung về việc một số đối tượng đang chấp hành án tại Trại giam số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An tuyệt thực tập thể. Và như một lẽ hiển nhiên, ẩn sau các bài viết này là những thông tin mang tính bịa đặt, vu khống về tình hình dân chủ, nhân quyền ở nước ta.
Với những tiêu đề đầy thu hút như “Nhà tù không phải là nơi huỷ diệt nhân tính”, “Nhiều tù nhân lương tâm Trại giam số 6 tuyệt thực phản đối áp bức”, “Tuyệt thực trong tù để làm gì”..., các bài viết có nội dung bịa đặt liên quan đến việc một số người tự cho mình là “tù nhân chính trị” tiến hành tuyệt thực đã tiếp cận được với không ít người.
Đây là điều vô cùng nguy hiểm bởi nếu người đọc thiếu nhận thức, thông tin thì sẽ rất dễ bị đánh lừa bởi các thông tin bịa đặt nói trên. Thẳng thắn nhìn nhận, việc tuyệt thực không phải là chiêu trò gì mới. Nó đã được rất nhiều đối tượng “tù nhân lương tâm” tự phong áp dụng trong quá trình chấp hành án phạt tù.
Thực tế, nhiều người bị kết án do có hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong quá trình chấp hành án phạt tù giở chiêu tuyệt thực. Trong đó, những cái tên có thể kể đến như Nguyễn Văn Đài, Trần Thị Nga, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh…
Việc tuyệt thực của các đối tượng không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà nó được tính toán một cách hết sức cẩn thận. Nghiên cứu về việc này, chúng ta không khó để nhận ra một điều hài hước là các lần tuyệt thực đều diễn ra theo một quy trình chung. Ban đầu, thông qua việc thăm gặp người nhà, các đối tượng đang chấp hành án sẽ rêu rao thông tin bản thân mình đang tiến hành tuyệt thực trong trại giam. Sau đó, người nhà của các đối tượng này trở thành cầu nối lan truyền thông tin đến những báo, đài, cũng như những cá nhân, tổ chức phản động, chống đối.
Trên cơ sở nguồn tin từ người thân của các “tù nhân lương tâm”, các hãng báo chí thù địch hoặc thiếu thiện cảm với Việt Nam và các đối tượng chống đối tiến hành viết bài xuyên tạc, thổi phồng sự việc, vu khống bản chất chế độ ta.