Thứ Hai, 20 tháng 5, 2019

YÊU CẦU VÀ ĐỊNH HƯỚNG BẢO ĐẢM, THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Việc thực hiện bản Hướng dẫn số 02-HD/TW của Ban Bí thư Khóa XII về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trên lĩnh vực quyền con người là nhiệm vụ vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến khó lường, nhất là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa bảo hộ, cực đoan, tình hình thiên tai, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo; tranh chấp lãnh thổ,... Thông qua thực hiện hướng dẫn số 02, tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển bền vững đất nước, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời đập tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Đối với lĩnh vực quyền con người, theo Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 44-CT/TW, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân các cấp cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: 
Một là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.
Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, quyền con người; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta./.

BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI TRONG THỰC TIỄN ĐỔI MỚI

Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Ðảng, Nhà nước về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người đã được cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, tạo chuyển biến nhận thức một cách cơ bản, tích cực trong cả hệ thống chính trị. Mới đây, Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới nêu rõ, việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013; từ đó, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con người. 
Trong bối cảnh nền kinh tế từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, đặc biệt với việc đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong năm 2018 và kết quả bước đầu chống tham nhũng, đã thúc đẩy củng cố niềm tin của người dân, tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam năm 2017 tăng 20 bậc, lên mức 68/157 quốc gia, vùng lãnh thổ. An sinh xã hội được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 7,2%. Số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 13,5 triệu, bảo hiểm thất nghiệp đạt 11,4 triệu; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 83%. 
Các thành tựu phát triển đất nước đã tạo các điều kiện vật chất và nguồn lực để tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của nhân dân. Ðời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt và ngày càng được nâng cao; cùng với việc thúc đẩy bình đẳng xã hội, việc thụ hưởng các quyền con người của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực được nâng lên đáng kể.
Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền giảm nghèo bền vững và quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương. Qua hơn 30 năm Đổi mới, công tác bảo đảm, thúc đẩy quyền con người đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế vẫn còn đang đặt ra nhiều việc cần làm, nhiều vấn đề cần tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và thúc đẩy ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân nhằm góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HƠN 30 NĂM ĐỔI MỚI

Trong thời kỳ Đổi mới, trên cơ sở kế thừa thành tựu bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu đã góp phần đổi mới, phát triển nhận thức của Đảng về quyền con người. 
Trước tiên, vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng về quyền con người.
C. Mác và Ph. Ăngghen trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhân quyền tư sản và phê phán các tư tưởng về quyền con người trong xã hội tư sản, đã xây dựng thế giới quan khoa học mới về quyền con người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử nhằm xem xét một cách thống nhất giữa thuộc tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người cũng như giữa lý luận và thực tiễn của quyền con người. Theo các ông, phương thức sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng kinh tế, làm phát sinh, phát triển các mối quan hệ xã hội của con người, như đạo đức, chính trị, nhà nước, pháp luật và quyền con người. 
C. Mác khẳng định, quyền con người được luật pháp hóa thì thành quyền công dân theo nguyên tắc: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”, “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”; tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Nghĩa là, quan niệm về quyền con người không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.
Quyền con người, nếu xét một cách toàn diện, gồm quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Bởi lẽ, các quyền này thể hiện ba phương diện cốt lõi của đời sống con người: Con người trước hết phải được tồn tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động); con người phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, quyền sở hữu tư nhân được phát triển thành nhân quyền; và tính giai cấp của quyền con người được bộc lộ ra một cách sâu sắc. Quyền con người trước tiên là “ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật pháp”. Đồng thời, quyền con người cũng là kết quả phát triển trong xã hội và thành tựu đấu tranh của con người được nhà nước và xã hội thừa nhận dưới hình thức pháp luật, được pháp luật bảo vệ. 
Do sự hạn hẹp của “pháp quyền tư sản” nên quyền con người chỉ là đặc quyền của một thiểu số thành viên xã hội. Để bảo đảm một cách thực tế và toàn diện quyền con người, chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh phải đấu tranh cho dân chủ; coi việc “giành lấy dân chủ” là mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xã hội hóa các quan hệ sản xuất và thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ, để từng bước bảo đảm các quyền con người cho đại đa số thành viên xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước thực hiện mục tiêu cao nhất của xã hội loài người là giải phóng và phát triển toàn diện con người nhằm bảo đảm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. 
Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội, trước hết là bảo đảm một cách thực tế các quyền tồn tại và phát triển của con người (gồm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa). Quyền con người dưới chủ nghĩa xã hội phải toàn diện: bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa; bảo đảm cả quyền cá nhân và quyền tập thể; bảo đảm tự do và công bằng, bình đẳng, quyền con người thống nhất với quyền công dân, như đã được đề cập trong “Tuyên ngôn quyền lợi nhân dân lao động bị bóc lột” do V.I. Lênin khởi thảo tháng 01-1918. Trong “Cương lĩnh dân tộc” (năm 1913), V.I. Lênin khẳng định các quyền dân tộc cơ bản chính là quyền dân chủ, gồm: quyền bình đẳng, quyền tự quyết và quyền liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Các quyền đó đồng thời cũng là các nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, nhằm gắn việc thực hiện các quyền này với nâng cao mức sống, bảo vệ sức khỏe, giáo dục văn hóa và tôn trọng quyền con người. 
Trên cơ sở lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng đã tiếp cận vấn đề quyền con người từ quyền của người dân mất nước và quyền của người lao động, từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là không quên quyền lợi của bất kỳ một giai tầng xã hội nào, từ nhi đồng, thiếu niên, đến thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo, người khuyết tật, người dân mất nước,... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định dân là chủ thì mới làm chủ và coi quyền cá nhân phải gắn với quyền tập thể, với quyền của toàn thể xã hội; bảo đảm quyền lợi của nhân dân Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là “công bộc”, là tấm gương phục vụ quyền lợi của nhân dân; đề ra nguyên tắc “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” trong tổ chức xây dựng, vận hành chế độ dân chủ với Nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong đó, việc bảo đảm quyền con người là trách nhiệm trước tiên của Đảng, Nhà nước.
Nét đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là kế thừa, phát triển quyền con người “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc; đúc kết tư tưởng cốt lõi về quyền con người vào các giá trị: độc lập - tự do - hạnh phúc cho mỗi người và mọi người; trong đó, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. 
Thứ hai, vận dụng, phát triển sáng tạo tinh hoa tư tưởng nhân loại về quyền con người. 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, mà tiêu biểu là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp cận vấn đề quyền con người trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Cụ thể là về lý luận, quyền con người mang tính tự nhiên - xã hội của bản chất con người, thể hiện lý tưởng giải phóng - phát triển con người toàn diện và tự do. Về thực tiễn, quá trình hình thành, bảo đảm quyền con người luôn có tính đặc thù về xã hội, như truyền thống văn hóa dân tộc, trình độ sản xuất vật chất - tinh thần của xã hội và giai cấp. Trong khi đó, các lý thuyết đương đại khác tiếp cận vấn đề quyền con người có phần phiến diện. Chẳng hạn, thuyết nhân quyền tự nhiên được coi là thuyết nhân quyền phổ quát nhưng khi thể hiện giá trị nhân quyền phương Tây thường vấp phải sự thờ ơ, phản ứng khi vận dụng vào thực tiễn với các truyền thống văn hóa khác nhau của các dân tộc trên thế giới. Quan điểm nhân quyền pháp lý không thấy được giá trị cần phải có của đạo đức, văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Trong khi đó, thuyết tương đối văn hóa thì nhấn mạnh, có khi thiên về truyền thống văn hóa trong bảo đảm quyền con người. Hệ quả chung của các cách tiếp cận phiến diện đó là sự bàng quang, vi phạm, hay biện minh cho những yếu kém trong thực tiễn bảo đảm quyền con người. 
Thứ ba, tổng kết thực tiễn, khái quát các quan điểm lý luận về quyền con người trong thời kỳ đổi mới.
Các văn kiện của Đảng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 02-12-2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, đã đúc kết những quan điểm cơ bản về quyền con người. 

THÍCH QUẢNG ĐỘ LÀ CON NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?

Ông Thích Quảng Độ tên thật là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1927 tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, đăng ký nhân khẩu thường trú tại chùa Thanh Minh Thiền Viện, số 90 Trần Huy Liệu, phường 15, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
Trong thời gian từ tháng 4-1977 đến tháng 12-1978, ông Thích Quảng Độ đã có thái độ bất mãn, chống đối chính quyền nhân dân, dọa tự thiêu và lợi dụng việc tổ chức “Đại giới đàn” để thuyết giảng, vu cáo chính quyền đàn áp Phật giáo, như: Ra lời kêu gọi và kích động tăng, ni sinh sẵn sàng “tử vì đạo” nếu cần; đồng thời nhân vụ sư cô Như Hiền uống thuốc tự vẫn, ông Thích Quảng Độ cùng một số đối tượng khác tung tin sư cô Như Hiền chết để phản đối chính quyền. Do có những hành vi tổ chức các hoạt động chống đối Nhà nước, ông Thích Quảng Độ đã bị bắt giữ, truy tố trước pháp luật.
Tuy nhiên, với chính sách nhân đạo, TAND TP Hồ Chí Minh đã khoan hồng, trả ông Độ về Thanh Minh Thiền Viện. Nhưng cũng kể từ đó, ông Thích Quảng Độ công khai chống lại chủ trương thống nhất Phật giáo toàn quốc và đã cùng một số đối tượng chống đối trong cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” tiến hành nhiều hoạt động nhằm cản trở việc chuẩn bị cho đại hội thống nhất Phật giáo toàn quốc, duy trì các hoạt động mang danh nghĩa “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”.
Do đó, UBND TP Hồ Chí Minh đã ra quyết định cấm ông Độ cư trú trên địa bàn; UBND tỉnh Thái Bình cũng đồng thời ra quyết định buộc ông Độ cư trú tại chùa Đông Xoài, tỉnh Thái Bình.
Tuy nhiên, từ năm 1992, ông Thích Quảng Độ tự ý vào cư trú tại TP Hồ Chí Minh và liên tục tiến hành các hoạt động chống đối, viết và phát tán nhiều tài liệu xuyên tạc tình hình trong nước.
Nhân danh cái gọi là “Viện trưởng Viện Hóa đạo – Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, ông Thích Quảng Độ đã ký, phát tán rộng rãi trong và ngoài nước hàng chục loại tài liệu có nội dung đả kích, chống đối chế độ, yêu sách với Nhà nước đòi phục hồi “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”...
Tháng 10-1994, ông Thích Quảng Độ cùng Đức Nhuận chỉ đạo Thích Không Tánh, Nhật Ban, Hồng Ngọc, Nguyên Lý... thành lập cái gọi là “Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp” và “Ban Công tác Từ thiện xã hội – Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” để tiến hành các hoạt động tuyên truyền, lôi kéo, kích động tăng ni, Phật tử chống lại đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Năm 1994, lợi dụng tình hình lũ lụt ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ,... ông Thích Quảng Độ đã chỉ đạo một số đối tượng trong nhóm “Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp” và “Ban Công tác Từ thiện xã hội – Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” tổ chức cho khoảng 150 tăng ni, phật tử trương cờ, băng rôn, khẩu hiệu mang danh “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”..., lợi dụng việc cứu trợ để phô trương lực lượng và tuyên truyền nhằm công khai hóa các hoạt động của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”.
Do Thích Quảng Độ liên tiếp có những hành vi chống đối, ngang nhiên lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để vi phạm pháp luật, nên tháng 1-1995, ông Độ đã bị bắt tạm giam và tháng 8-1995, TAND TP Hồ Chí Minh đã xét xử, tuyên phạt Thích Quảng Độ cùng nhóm của ông ta (Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường, Trí Lực) 5 năm tù giam và thời hạn quản chế 5 năm về tội phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước.
Tuy nhiên, thực hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta, nhân dịp Quốc khánh 2-9-1998, Chủ tịch nước đã quyết định đặc xá, tha tù trước thời hạn cho ông Thích Quảng Độ, trả về nơi cư trú cũ tại Thanh Minh Thiền Viện.
Song, “ngựa quen đường cũ”, ngay sau khi về TP Hồ Chí Minh, ông Độ lại cùng Huyền Quang, Đức Nhuận được sự hậu thuẫn của số chống đối cực đoan trong Phật giáo người Việt lưu vong hải ngoại như Võ Văn Ái (ở Pháp), Hộ Giác và Viên Lý (ở Mỹ)... lộ rõ bản chất chính trị phản động, đã công khai thách thức chống chính quyền và pháp luật, kêu gọi phục hồi “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”.
Ông Thích Quảng Độ cầm đầu, chỉ đạo số tay chân liên tục tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước; trực tiếp liên lạc, trao đổi, cung cấp tài liệu thông tin ra ngoài vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo; tổ chức, sắp xếp nhân sự cho cái gọi là “Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất nhiệm kỳ 9” tại Tu viện Nguyên Thiều (tỉnh Bình Định) và giữ chức vụ “Viện trưởng Viện Hóa đạo”.
Liên quan đến việc Thích Quảng Độ nhân danh “Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPDVNTN” ký quyết định bổ nhiệm Ban Đại diện Phật giáo một số tỉnh, TP phía Nam, trước đây, khi trả lời báo chí, Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, khẳng định, việc làm của ông Thích Quảng Độ là mạo xưng, không có giá trị pháp lý, trái với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và trái với pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” ra đời tháng 1-1964 tại Sài Gòn với sự hợp nhất của 11 hệ phái, tổ chức Phật giáo ở miền Nam lúc bấy giờ. Tháng 11-1981, các bậc tôn túc đứng đầu “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” đã cùng các vị đứng đầu Phật giáo của 8 tổ chức Phật giáo khác tự nguyện gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong lời nói đầu của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ghi rõ: Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước. Vì vậy, về mặt lịch sử cũng như pháp lý, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” không còn tồn tại theo nguyên nghĩa là một tôn giáo độc lập.
Như vậy, việc USCIRF tiếp tục đưa ra những thông tin bị bóp méo, xuyên tạc, phản ánh sai lệch tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là sự bịa đặt trắng trợn.
Bản chất của sự việc còn đi cùng sự hà hơi, hậu thuẫn, tiếp sức cho những công dân Việt Nam vi phạm pháp luật núp dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền”để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những nội dung USCIRF đưa ra về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, chỉ là những luận điệu phiến diện cần bị phê phán.

ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN BAN HÀNH VÀ THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH SÁCH BẢO ĐẢM TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ban hành và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, các tôn giáo đều được đối xử công bằng trước pháp luật
Trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước đến Đại hội XII, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.
Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Bên cạnh đó, các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân còn được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục…
Luật Tín ngưỡng tôn giáo có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2018 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP đã khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật… cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Hành vi bị nghiêm cấm: cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi; các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn công cộng, môi trường, xâm hại đạo đức xã hội, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân…”.
Đồng hành với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống nhân dân, Nhà nước Việt Nam luôn hoàn thiện các chính sách về tôn giáo, căn cứ quan trọng để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện đúng trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ và tạo mọi điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu tinh thần trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân cũng như người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
Như vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ban hành cơ sở pháp lý đảm bảo tôn trọng nhu cầu tinh thần tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đảm bảo các tôn giáo đều được đối xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật.

VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA ĐA TÍN NGƯỠNG, ĐA TÔN GIÁO

Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo, trong đó có 6 tôn giáo lớn, gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Hằng năm, ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng từ cấp quốc gia đến địa phương được diễn ra, các tín đồ tôn giáo tự do thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình.
Năm 2017, Nhà nước đã công nhận hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 41 tổ chức thuộc 15 tôn giáo với khoảng 25,3 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, 60.799 chức sắc, 133.662 chức việc, 27.916 cơ sở thờ tự…
Đến ngày 1-11-2018, ở Việt Nam có 42 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Hầu hết, các tổ chức tôn giáo đã được công nhận đều có sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc nhà tu hành, đều tổ chức xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, các hoạt động tôn giáo đều tuân thủ theo giáo lý, giáo luật và trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.

USCIRF TIẾP TỤC XUYÊN TẠC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Ngày 29-4, tại Washington DC, Ủy Hội quốc tế Hoa Kỳ về tôn giáo (USCIRF) đã công bố Phúc trình thường niên về tự do tôn giáo thế giới, trong đó đã đưa ra những nhận định thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Đặc biệt, USCIRF cho rằng: “Vấn đề tự do tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam vẫn bị xuống cấp nghiêm trọng; chính phủ Việt Nam tiếp tục đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa để đòi hỏi tự do tín ngưỡng và tự do thờ phượng, trong đó có những nhà hoạt động cho tôn giáo và nhân quyền; nhiều tổ chức tôn giáo không được chính phủ công nhận và không được cấp giấy phép sinh hoạt, điển hình như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và vị lãnh đạo tinh thần là hòa thượng Thích Quảng Độ…”.
Luận điệu trên hoàn toàn xuyên tạc, không đúng sự thật về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam

NHỮNG HỆ LỤY TỪ LÀN SÓNG BIỂU TÌNH CỦA PHONG TRÀO “ÁO VÀNG”

Theo các nhà bình luận quốc tế, làn sóng biểu tình quy mô lớn của phong trào “áo vàng” đã gây ra những hệ lụy không nhỏ về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh đối với từng quốc gia và toàn khối EU. Về kinh tế, ở nhiều nước EU, các cuộc biểu tình đã có tới hàng chục vạn người tham gia, làm nhiều thành phố bị “tê liệt”; các ngành kinh doanh, du lịch, nhà hàng, nhiều nhà máy, công xưởng phải ngừng hoạt động trong thời gian dài. Hàng nghìn công trình, trang bị, thiết bị công cộng, xe cộ,… bị người biểu tình đập phá. Ước tính làn sóng biểu tình này đã làm thiệt hại hàng trăm tỷ euro cho các nước EU. Về xã hội, chính trị, trong lòng xã hội các nước EU vốn đang tồn tại những mâu thuẫn phức tạp đan xen (giữa người giàu với người nghèo, giữa thành thị với nông thôn, giữa người bản địa với người nhập cư, giữa các sắc tộc, tôn giáo và các nền văn hóa,…), phong trào “áo vàng” làm cho “vết nứt” của những mâu thuẫn đó càng rộng hơn. Điển hình nhất là những phần tử dân tộc cực đoan, các băng đảng “xã hội đen” lợi dụng tình trạng biểu tình để kích động bạo loạn, xung đột với chính quyền, cướp phá tài sản, gây mất trật tự an ninh đất nước. Khung cảnh hoang tàn ở nhiều thành phố diễn ra biểu tình khiến cho người ta liên tưởng đó như “chiến trường của cuộc nội chiến”. Một thực tế nữa là, EU đang ở vào thời điểm khủng hoảng chính trị, mà nhiều chính khách của liên minh này coi là “nghiêm trọng”. Ở Đức, thất bại liên tiếp của Đảng Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 8-2017 và các cuộc bầu cử địa phương tháng 10-2018, buộc Thủ tướng A. Méc-ken phải tuyên bố không tái tranh cử vào năm 2021. Ở Anh, vị thế của Thủ tướng Tê-rê-xa Mây đang lung lay khi quốc gia này có thể Brexit mà không có thỏa thuận với EU. Ở Pháp, Tổng thống E. Ma-crông đang được kỳ vọng là “thủ lĩnh” trẻ đầy triển vọng có thể tạo “luồng sinh khí mới” cho nước Pháp và EU. Tuy nhiên, làn sóng biểu tình của phong trào “áo vàng” làm dấy lên lo ngại là Ông E. Ma-crông chưa đủ “tầm” để chèo lái con thuyền EU vượt qua “cơn sóng gió” hiện nay và nếu không có những thay đổi trong chính sách cho “hợp lòng dân” thì sự nghiệp chính trị của Ông cũng khó tránh khỏi “vết xe đổ” của những người tiền nhiệm. Các nhà lập pháp của EU tỏ ý lo ngại rằng, làn sóng biểu tình “áo vàng” làm cho các nước EU đã khốn khó càng khốn khó hơn, nhất là ở Đức, Anh, Pháp - những nước được coi là “đầu tầu” của EU. Đây sẽ là “cơ hội vàng” để các đảng phái mang khuynh hướng chính trị khác nhau, nhất là các đảng cánh hữu do những nhân vật “diều hâu” dân tộc cực đoan điều hành, tạo “đột biến” trong cuộc chạy đua “giành quyền kiểm soát” Nghị viện châu Âu dịp bầu cử tới đây vào tháng 5-2019. Về an ninh, nhiều chuyên gia cho rằng, phong trào “áo vàng” có sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng “ngoài sức tưởng tượng”. Ban đầu chỉ là biểu tình phản đối vấn đề đơn lẻ ở một nước, sau nó nhanh chóng biến thành cuộc “cách mạng” của nhiều giai tầng xã hội, đấu tranh vì cuộc sống ở hàng loạt quốc gia. Chính phủ nhiều nước EU đã phải huy động hàng trăm nghìn cảnh sát được trang bị tối tân cùng hàng trăm xe tăng, xe bọc thép để “trấn áp” biểu tình. Theo họ, trong bối cảnh EU đang chìm trong khủng hoảng về kinh tế, chính trị, người nhập cư, khủng bố, Brexit,… thì phong trào “áo vàng” có thể là “cuộc tổng duyệt” cho một cuộc cách mạng đường phố mang tên “Mùa xuân Liên minh châu Âu” để quyết định tương lai của liên minh kinh tế, chính trị lớn nhất hành tinh này.
Dư luận cho rằng, EU là một “trụ cột” kinh tế quan trọng của thế giới; sự thịnh, suy của EU tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế toàn cầu. Làn sóng biểu tình của phong trào “áo vàng” như “hồi chuông” cảnh báo, buộc chính phủ các nước EU phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp để không chỉ ổn định an ninh chính trị, mà còn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong xu thế cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

VÌ SAO LÀN SÓNG BIỂU TÌNH “ÁO VÀNG” LẠI ĐỒNG LOẠT BÙNG NỔ Ở CHÂU ÂU?

Nhiều nhà bình luận quốc tế cho rằng, những thập kỷ gần đây, việc biểu tình, bạo động nổ ra ở nơi này, nơi kia không phải là việc “mới lạ” ở châu Âu, nhưng biểu tình đồng loạt bùng nổ ở nhiều nước như phong trào “áo vàng” vừa qua thì thực sự là vấn đề “đáng lo ngại”. Phân tích các yêu sách mà người biểu tình đưa ra, như: đòi cải thiện cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là thái độ “giận dữ” của họ đối với các chính sách “không hợp lòng dân” của chính phủ, có thể thấy, tầng lớp trung lưu và những người lao động ở nhiều nước châu Âu đang “bất bình” sâu sắc với giới cầm quyền nước họ. Phong trào “áo vàng” vì thế trở thành “mồi lửa” châm ngòi để nó “nổ bung” thành làn sóng biểu tình dữ dội ở hàng loạt nước thuộc châu lục này. Kết quả các cuộc thăm dò cho thấy, người biểu tình ở châu Âu “bất bình” về nhiều lĩnh vực “nổi cộm” của đất nước:
Một là, sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất công trong xã hội đã đến mức “báo động”. Nhiều đánh giá quốc tế cho biết, những năm gần đây, sự chênh lệch về mức thu nhập của người dân ở các nước EU là rất lớn. 20% dân số có thu nhập cao nhất có tài sản gấp hơn 5 lần so với 20% dân số có mức thu nhập thấp nhất; 1% người giàu nhất nắm giữ tới 20% của cải. Trên thực tế, tầng lớp người giàu có cuộc sống vương giả, trong khi tầng lớp công nhân và người lao động có mức thu nhập chỉ khoảng 1.500 euro/tháng - mức thu nhập được coi là chỉ “đủ sống”. Một bộ phận không nhỏ người lao động tự do thì phàn nàn rằng, họ phải rất vất vả mới kiếm đủ tiền để thuê nhà và trang trải sinh hoạt. Số đông người về hưu ca thán, khoản “lương hưu” của họ quá “còm” so với biến động giá cả trên thị trường. Họ đòi chính phủ tăng “lương hưu” và đảm bảo các phúc lợi xã hội mà họ phải được hưởng. Tầng lớp nông dân thì bức xúc với việc các vùng nông thôn, vùng xa xôi, hẻo lánh của họ không có các dịch vụ tốt về giao thông, y tế, giáo dục - đào tạo,… so với thủ đô và các vùng đô thị. Tầng lớp thanh niên ở các khu vực nông thôn nói rằng, họ ít có cơ hội để vào các trường đại học và tìm việc làm so với thanh niên ở khu vực thành thị. Những năm gần đây, tỷ lệ người thất nghiệp ở nhiều nước tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức khoảng 10% và tỷ lệ người thất nghiệp ở lứa tuổi thanh niên vẫn ở mức cao. Trong đó, thanh niên hư hỏng, vướng vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật ở khu vực nông thôn cũng cao hơn ở khu vực thành thị, v.v.
Hai là, giảm lòng tin vào các chính sách của chính quyền. Phải nói rằng, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước EU có một giai đoạn dài phát triển “thịnh vượng”: kinh tế tăng trưởng cao, khoa học - công nghệ phát triển hiện đại, thu nhập và đời sống của đại đa số nhân dân ở mức khá giả với nhiều phúc lợi xã hội “đáng mơ ước”. Tuy nhiên, từ thập niên 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng tài chính, kinh tế, nợ công diễn ra liên miên, đẩy kinh tế các nước EU lâm vào suy thoái. Chính phủ các nước EU đã đề ra rất nhiều chính sách phục hồi, nhưng như họ thừa nhận, vẫn chưa thể khắc phục được cái gọi là “những khuyết tật cố hữu” của nền kinh tế tư bản; tỷ lệ nợ công và nợ chính phủ vẫn ở con số rất cao. Tình hình đó, buộc chính phủ nhiều nước EU phải thực hiện những giải pháp “vạn bất đắc dĩ” là cắt giảm mạnh các phúc lợi xã hội, cái mà một thời họ vẫn tự hào là “ưu việt” của Tây Âu; đồng thời, tăng các loại thuế đánh vào “hầu bao” của người lao động. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người giàu thì ngày càng giàu hơn; người lao động, kể cả tầng lớp trung lưu thu nhập không tăng hoặc tăng không đáng kể nhưng phải gánh ngày càng nhiều các loại thuế, nên đời sống khó khăn hơn. Từ cuộc sống khá giả trước đây, nay “phú quý ngày càng giật lùi” khiến cho đại đa số người lao động ở nhiều nước EU “chán nản”, giảm lòng tin, “bất mãn” với năng lực lãnh đạo của chính quyền. Người dân Pháp “quá thất vọng” và gọi Tổng thống E. Ma-crông là “tổng thống của người giàu” khi Ông quyết định cắt giảm “thuế thu nhập” cho giới thượng lưu, khiến “kho bạc” chính phủ bị giảm khoảng 3,5 tỷ euro. Để bù ngân sách thiếu hụt, Ông lại “quá khinh xuất và độc đoán” khi quyết định tăng các loại thuế mà tầng lớp lao động là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất. Trong đó, quyết định tăng thuế môi trường đối với xăng dầu đã “châm ngòi” cho một làn sóng “phản kháng dữ dội” ở Pháp và khắp châu Âu. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy, tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Pháp E. Ma-crông đã tụt dốc “thê thảm”, từ mức trên 80% khi mới cầm quyền xuống còn dưới 20% hiện nay.
Đánh giá một cách khách quan, toàn diện quá trình hình thành và phát triển của EU, chính khách nhiều nước cho rằng, làn sóng biểu tình của phong trào “áo vàng” hoàn toàn không phải là “bộc phát”, mà là hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn cố hữu đã được tích tụ trong lòng xã hội các nước EU từ nhiều thập kỷ qua. Phong trào “áo vàng” chỉ là “giọt nước làm tràn ly” và làn sóng khổng lồ người biểu tình đang “khốn khó trong lo toan cuộc sống”, cùng với các thể chế “yếu kém”, “bất lực” của các nước EU hiện nay cũng chỉ là những “nạn nhân đáng thương” mà thôi.

KẾT QUẢ TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH BÁC BỎ MỌI SỰ XUYÊN TẠC

Quốc phòng và an ninh cũng hội nhập ngày càng sâu, rộng vào cộng đồng quốc tế. Nước ta đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước; đặt văn phòng tùy viên quốc phòng tại hơn 30 nước và hơn 40 nước thiết lập tùy viên quốc phòng hoặc kiêm nhiệm tại Việt Nam. Bên cạnh việc coi trọng quan hệ hợp tác về quốc phòng và an ninh với các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippin, Singapore...), nước ta cũng mở rộng quan hệ hợp tác với Nhật Bản, Australia, Ixraen, Cu ba, Ấn Độ, Italia, Liên minh châu Âu... Đặc biệt chú trọng hợp tác với các nước lớn, như: Nga, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Việt Nam cũng rất coi trọng cấp độ hợp tác đa phương về quốc phòng và an ninh, nhất là tham gia các cơ chế hợp tác, như: Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN, Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và ADMM+... Việt Nam cùng các quốc gia đồng chủ trì khác tổ chức thành công nhiều cuộc diễn tập, như: Diễn tập thực địa về hành động mìn nhân đạo tại Ấn Độ (tháng 3-2016), Diễn tập thực địa ADMM+ về an ninh hàng hải và chống khủng bố tại Brunei, Singapore (tháng 5-2016), Diễn tập thực địa về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và quân y tại Thái Lan (tháng 9-2016)... Ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam là thành viên của Tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế (Interpol) từ năm 1991; năm 2014 tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Từ chỗ chỉ cử số lượng ít sĩ quan, năm 2018 chúng ta đã cử một đơn vị (một bệnh viện dã chiến cấp 2) tham gia Phái bộ gìn giữ hòa bình ở Nam Xu đăng. Đây là những hành động thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; nâng cao vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.
Những thực tiễn nói trên đã khẳng định tầm vóc và vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Vị thế đó không tự nhiên có, mà là kết quả sự nỗ lực của toàn dân, toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là bằng chứng sinh động khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng là đúng đắn; đồng thời, là minh chứng thuyết phục bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2019

MỤC ĐÍCH CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI

Thực chất mục đích của quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội là kết hợp “diễn biến hòa bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam
Với việc đưa ra quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội, một số người đã đánh tráo khái niệm “dân sự quản lý quân sự” với “dân sự hóa” Quân đội; họ đánh đồng việc dân sự quản lý quân sự với biến việc của quân sự thành việc của dân sự, làm cho người khác hiểu sai về bản chất vấn đề.
Mặc dù chế định “dân sự quản lý quân sự” ở các nước tư sản không thực hiện được (như đã đề cập ở trên), song những người đưa ra quan điểm “dân sự hóa” Quân đội không bao giờ đề cập tới sự thật này. Họ ra sức ca ngợi và cổ súy cho pháp lý và đời sống luật pháp tư sản theo hướng cái gì cũng “tốt đẹp”, “thiên đường”; làm cho người ta tưởng việc “dân sự hóa” quân đội của nhà nước tư sản là tốt đẹp, dễ làm, nhà nước xã hội chủ nghĩa cứ theo thế mà làm. Đây là thủ đoạn chính trị tinh vi, kết hợp giữa “diễn biến hòa bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Thực chất mục đích của quan điểm cổ vũ “dân sự hóa” Quân đội theo hướng pháp lý “dân sự quản lý quân sự” của nhà nước tư sản là nhằm tác động, thay đổi đường lối, cơ chế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên tắc hoạt động quốc phòng là tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, mục đích chính trị cuối cùng của quan điểm cổ súy “dân sự hóa” Quân đội, không phải cái gì khác hơn là nhằm loại bỏ quyền lãnh đạo Quân đội và hoạt động quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước hiến định. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch - một thủ đoạn, âm mưu tinh vi, xảo quyệt, từ đánh tráo khái niệm, đến tiêm nhiễm, thẩm thấu tư tưởng, chuyển hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và hoạt động quốc phòng, cuối cùng là kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ mưu đồ của họ; cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa, đấu tranh bác bỏ tư tưởng, quan điểm sai trái này.

BẢN CHẤT “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI Ở CÁC NƯỚC TƯ SẢN

Dựa trên “học thuyết phân quyền tư sản”, những người có quyền lập pháp ở các nước tư sản đã ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của ba nhóm lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự” (dân quản quân) đã được ghi tạc, ban hành trong luật pháp thì “chắc chắn” việc của quân đội tất yếu là việc của phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không phải là việc của đảng phái nào, phái quân sự nào! Tuy nhiên, trái ngược với những tư tưởng “tam quyền phân lập”, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy một nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” về nó. Muôn vàn ví dụ về quản lý nhà nước đối với quốc phòng của Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới cho thấy rõ điều này. Trên thực tế, dù luật pháp của Hoa Kỳ có chặt chẽ đến đâu thì các chính đảng vẫn can thiệp cả vào lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Hoa Kỳ đã trải qua 45 đời tổng thống, chỉ có tổng thống đầu tiên là G. Washington không thuộc đảng phái nào; còn 44 tổng thống khác đều là người đứng đầu hay đại diện cho các đảng phái khác nhau. Hầu hết các Tổng thống Hoa Kỳ đều nhất quán thực thi đường lối của đảng đã cử mình làm đại diện tranh cử. Ví dụ như, trong quá trình tranh cử, ông Đô-nan Trăm (ứng cử viên đại diện cho Đảng Cộng hòa) tuyên bố sẽ rút quân đội khỏi Trung Đông nếu trúng cử. Và giờ đây khi là tổng thống, Ông đã thực thi đường lối quân sự đó. Như vậy, tư tưởng, đường lối nhất quán của một chính đảng và một tổng thống đắc cử đã thực thi. Do đó, không có cái gọi là “dân quản quân”, mà thực chất là “đảng quản quân”.
Một vài ví dụ khác, năm 1950, Tổng thống Mỹ Truman chọn Thống tướng Lục quân G. Marshall mới nghỉ hưu được hơn 5 năm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong khi Luật An ninh quốc gia Mỹ năm 1947 quy định: “Bộ trưởng phải được chỉ định từ giới dân sự. Đối với cựu quân nhân Mỹ, họ chỉ có thể được đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau 10 năm kể từ khi họ giải ngũ”. Mới đây, ông J. Mattis, Đại tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ, mới nghỉ hưu năm 2013 vẫn được Tổng thống Donald Trump đề cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng viện phê chuẩn ngày 20-01-2017, trong khi luật pháp Hoa Kỳ năm 2008 quy định: “người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm mới được làm bộ trưởng quốc phòng” và “quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân sự, không có chiều ngược lại”. Điều trên cho thấy nguyên tắc “dân quản quân” đã không được thực hiện triệt để.
Nhiều nước trên thế giới, như: Nga, Ucraina, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Campuchia,… Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thường là quân nhân. Ở Nga, đến năm 2001 mới có ông S. B. Ivanov là người dân sự đầu tiên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng đến năm 2012, Tổng thống V. Putin sử dụng lại người nhà binh, bổ nhiệm Đại tướng S. Shoygu làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Quyết định đó được các chuyên gia quân sự đánh giá cao, cho rằng, người đứng đầu quân đội phải nắm rõ việc quân sự, phải có uy với cấp dưới, khi cần quản lý nhà nước đã có cố vấn, thư ký hỗ trợ; nếu người dân sự làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì sẽ khó thể hiện tính quyết đoán, nhất là giải quyết những vấn đề đột xuất, đòi hỏi quyết đoán nhanh trong điều kiện khó khăn, căng thẳng.
Có thể thấy, bản chất chế định pháp lý người đứng đầu quân đội (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) ở Mỹ và một số quốc gia khác không phải là quân nhân, mà là dân sự, đó không có nghĩa là “dân sự hóa” quân đội mà là sử dụng con người dân sự cụ thể để quản lý công việc quân sự. Tuy nhiên, chế định này không phải lúc nào cũng thực hiện được. Vì vậy, quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam, cho rằng “Quân đội chỉ phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng” chỉ là sự thiếu hiểu biết về tri thức pháp lý và quản lý nhà nước về quốc phòng của một số người mà thôi.

THÀNH TỰU TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM BÁC BỎ MỌI SỰ XUYÊN TẠC

Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, nước ta cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện… Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường”1. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa của từng vùng, miền được công nhận là Di sản thiên nhiên hoặc Di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của khu vực hay của nhân loại. GDP bình quân đầu người từ vị trí của nước kém phát triển, đã tăng hơn 20 lần so với trước thời kỳ đổi mới, đạt 2.590 USD vào năm 2018, đứng đầu nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Đánh giá thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này, bà Victoria Kwakwa, nguyên Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng: “Ngày nay, Việt Nam là một nước có thu nhập trung bình. Các chỉ số phúc lợi xã hội hiện nay cao hơn phần lớn các nước có mức thu nhập cao hơn. Phần lớn người dân Việt Nam được hưởng nền giáo dục tốt hơn. Tỷ lệ tử vong ở bà mẹ khi sinh ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực”. Việt Nam là một trong số ít nước sản xuất được vacxin phòng bệnh cho người (đã sản xuất được 10 loại); là 1/14 nước được Tổ chức Y tế thế giới đặt hàng sản xuất vacxin cúm (chủng virut H1N1, H3N2 và B) phục vụ phòng, chống đại dịch trên thế giới. Thể thao nước nhà cũng đã vươn ra tầm châu lục và thế giới, gặt hái được thành công với nhiều huy chương vàng, bạc trong các giải đấu quốc tế lớn. Nhiều đoàn học sinh Việt Nam đạt huy chương vàng, bạc trong các kỳ thi quốc tế về Toán, Lý, Hóa, Sinh…

BẢN CHẤT QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI

Họ đã lấy luật pháp nhà nước tư sản làm “thước đo”, “tiêu chí” pháp lý cho mọi nhà nước, chế độ xã hội. Đó là thứ “triết lý” về chế độ “dân sự quản lý quân sự của nhà nước tư sản”, theo Khoản 8, Điều I, Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ở đó, không có điều luật nào dành cho các nhánh hành pháp và tư pháp quyền ban hành luật pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Đó là sự vay mượn triết lý luật pháp về “chia tách” quyền lực quân sự (một dạng quyền hành pháp) với quyền lập pháp và tư pháp, bằng trích dẫn Khoản 1, Điều II quy định: “Quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ”; Khoản 2, Điều II quy định: “Tổng thống sẽ là Tổng Tư lệnh các lực lượng lục quân và hải quân Hoa Kỳ và của các lực lượng dự bị ở một số bang”. Còn những người có quyền ban hành pháp luật, thì họ dựa vào Khoản 6, Điều I quy định: “Trong thời gian được bầu làm Thượng nghị sĩ hoặc Hạ nghị sĩ, không một ai sẽ được bổ nhiệm vào một chức vụ dân sự trong chính quyền Hòa Kỳ. Trong thời gian đó,... không một ai đang đảm nhiệm một chức vụ dân sự nào trong chính quyền Hoa Kỳ được bầu vào Quốc hội”.
Đó cũng là sự vin mượn tinh thần pháp lý quân sự tư sản: quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân sự mà không có chiều ngược lại; vào Chỉ thị 1344.10 của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, quy định thành viên quân đội không thể “Là ứng cử viên hay nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong bộ máy dân sự”. Năm 2008, luật pháp của Hoa Kỳ quy định, người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm mới được làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Họ cũng dựa vào Điều lệ Nữ Hoàng (Vương quốc Anh), quy định: Nghiêm cấm các thành viên quân đội nắm giữ các vị trí hoạt động tích cực trong các tổ chức chính trị; đồng thời, hạn chế chặt chẽ việc bổ nhiệm vào các vị trí này trong và sau thời gian quân ngũ”, v.v.
Tuy nhiên, điều đã được nhân loại thừa nhận là: luật pháp của một chế độ nhà nước phải do ý chí, nguyện vọng của nhân dân (chủ thể quyền lực của nhà nước đó) quyết định và chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia đó. Do vậy, việc lấy luật pháp của nước này áp đặt cho nước khác là hoàn toàn phi lý. Không thể dùng pháp luật của nhà nước tư sản soi chiếu sang pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, hai loại nhà nước khác nhau về bản chất. Cũng giống như không thể áp đặt luật pháp của Việt Nam lên nhà nước tư sản. Như vậy, quan điểm “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam là không phù hợp.

THÀNH TỰU TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ CỦA VIỆT NAM BÁC BỎ MỌI SỰ XUYÊN TẠC

Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới; thoát khỏi vị thế của nước kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình với mức tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước từ chỗ đạt 6,3 tỷ USD vào năm 1989 đã không ngừng tăng lên, đạt hơn 240 tỷ USD vào năm 2018. Đánh giá về vấn đề này, chiến lược gia về truyền thông của WEF 2018, Peter Vanham khẳng định: “Nếu như cách đây chỉ khoảng 30 năm, kinh tế Việt Nam còn rất khó khăn. Giờ đây, Việt Nam là một trong những “ngôi sao” trong nhóm các nước mới nổi”. Còn Chủ tịch điều hành WEF 2018 Borge Brende thì nhấn mạnh: “Từ năm 2010 đến nay, WEF đã chứng kiến sự tăng trưởng vị thế tuyệt vời của Việt Nam với GDP tăng gần gấp đôi trong tám năm, xuất khẩu tăng gần gấp ba lần. Quan trọng hơn là tỷ lệ đói nghèo tại Việt Nam đã giảm nhanh, năm 1990 tỷ lệ đói nghèo là 50% thì nay chỉ còn khoảng 3%. Những con số này là minh chứng rõ ràng cho sự thành công của Việt Nam trong tiến trình phát triển vững chắc”. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lương thực và đứng trong tốp đầu thế giới xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản, dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử... Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. 71 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Nước ta cũng đã ký 14 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các nước, trong đó 11 hiệp định đã có hiệu lực. Hiện nay, Việt Nam đang cùng các nước tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); đẩy mạnh các hoạt động vận động và thúc đẩy Liên minh châu Âu sớm ký kết, phê chuẩn và triển khai thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu.
Cùng với việc đăng cai và tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế về phát triển kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam còn được mời tham dự các hội nghị quốc tế lớn, như: Thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) tại Đức (tháng 7-2017); Thượng đỉnh Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng tại Ca-na-đa (tháng 6-2018); Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos - Thụy Sĩ (tháng 01-2019). Điều đó cho thấy, sự coi trọng của các nước lớn đối với vai trò, vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế; khẳng định nước ta đã thực sự là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu.

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2019

MƯU ĐỒ ĐÊ HÈN KHÔNG MỚI MẺ

Mới đây, trên một số diễn đàn phản động đã tán phát bài viết Công Quyền của người Việt Nam của một “nhà dân chủ” núp bóng dưới cái tên Bảo Giang. Xuyên suốt bài viết là những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chân dung, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của Bảo Giang. Hành động của Y không ngoài mục đích “hạ bệ” hình ảnh của Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân Việt Nam, tiến tới làm sụp đổ tận gốc niềm tin của nhân dân đối với con đường cách mạng do Đảng, Bác Hồ lựa chọn và lãnh đạo.
Với miệng lưỡi đầy tính cực đoan, xuyên tạc, chửi rủa, hằn học, thâm thù… Bảo Giang đã dùng đủ lời lẽ, lập luận để vu cáo, xuyên tạc về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh. Y cố làm ra vẻ là “người trong cuộc”, “thấu hiểu” nhiều sự kiện “thâm cung bí sử” về cuộc đời Hồ Chí Minh và tự cho mình là người “vén những tấm màn bí mật” mà không ai được biết. Ở đây, không phải là sự ngộ nhận mà là ý đồ cố tình xuyên tạc của Bảo Giang. Y đã bóp méo thông tin, đổi trắng thay đen, xuyên tạc đủ điều, “bôi đen” Hồ Chí Minh từ đời riêng đến cả các mối quan hệ công tác để rồi đem Hồ Chí Minh đối lập với dân tộc Việt Nam. Mưu đồ đê hèn, dơ bẩn này của Bảo Giang không có gì mới mẻ, cũng chỉ là sự “nối đuôi” “cổ súy” cho những “tuồng cũ” của “đồng đảng”. Thực tế đã cho thấy, số phần tử cơ hội chính trị, phản động, chống đối Đảng, Nhà nước, chúng sẵn sàng bịa chuyện, hoặc dựa trên một vài sự kiện, tài liệu rồi thêm thắt, bình luận, hoặc viết rất ly kỳ, tinh vi để nói xấu Hồ Chí Minh, nói xấu cách mạng Việt Nam. Hành động và lời lẽ của Bảo Giang khiến người người đều căm giận, phải bị trừng trị thích đáng./.

TIẾNG NÓI LẠC LÕNG CỦA VÕ NGỌC ÁNH

Thời gian gần đây, trên trang Danlambao, Võ Ngọc Ánh có bài viết “Dừng sùng bái Hồ Chí Minh để mở đường cho dân Việt phát triển”. Trong bài viết này, Võ Ngọc Ánh đã có những luận điểm hết sức phản động, đi ngược lại những gì mà nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh. Với giọng điệu hằn học, thâm độc và sự ngụy biện khi nói về Bác mang tính chất xuyên tạc, bịa đặt.
Ai cũng dễ nhận thấy, những lời lẽ, giọng điệu trên của Võ Ngọc Ánh, hay của những kẻ phản động khác khi xuyên tạc thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực chất là nhằm bôi nhọ hình tượng cao đẹp của lãnh tụ trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Nguy hiểm và xảo quyệt hơn, chúng hy vọng bằng việc làm này, chúng có thể xóa bỏ công lao to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam, qua đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tiến tới, xóa bỏ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Lịch sử là bằng chứng không thể chối cãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chính Người đã có công lao rất lớn đem lại độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi đêm trường nô lệ, có một cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc; đóng góp cho sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, cũng như tiến trình phát triển của xã hội loài người. Mặc dù là lãnh tụ của dân tộc, nhưng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống hết sức giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tận trung với nước, tận hiếu với dân, không bao giờ nghĩ riêng cho bản thân mình. Trước khi mất, trong bản Di chúc, Người còn căn dặn: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Với những phẩm chất đạo đức cao đẹp và sự cống hiến vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, Người được nhân dân ta vô cùng kính trọng và biết ơn. Nhân dân ta gọi Người bằng Bác Hồ, sau khi Người mất – ảnh của Người đã được nhân dân ta đặt trang trọng trên bàn thờ của mỗi gia đình. Người không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của nhân dân ta mà Người còn được tổ chức UNESCO vinh danh  Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại ngay giữa lòng thủ đô nước Pháp, hiện nay tên Bác Hồ được khắc trên bức tường "Những người làm nên thế kỷ XX".
Cho đến bây giờ, trong mỗi con tim, khối óc người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, mọi tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo vẫn luôn ghi nhớ công lao trời biển của Bác. Nhiều gia đình ngoài việc thờ cúng tổ tiên còn dành những khu trang trọng nhất để thờ Bác. Các địa phương xây dựng những khu lưu niệm để tôn kính, cảm phục, ghi nhận và vinh danh công lao của Người… Thế mà Võ Ngọc Ánh đi ngược lại tâm nguyện, mong muốn của nhân dân, tìm mọi cách xuyên tạc bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vì mục đích chính trị thấp hèn./.

NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân cách cao đẹp, có đức trong, trí sáng, cống hiến trọn đời cho dân tộc và nhân loại tiến bộ, luôn hiện hữu với mỗi người Việt Nam yêu nước. Do đó, Bảo Giang có cố tình đặt điều nói xấu, xuyên tạc và tung tin ngụy tạo về Người thì cũng chỉ là một hành động “bàn tay không che nổi mặt trời”…Nói đến Hồ Chí Minh không chỉ người Việt Nam chân chính, mà rất nhiều người trên thế giới, thậm chí cả những người không cùng chiến tuyến với Người đều phải nể trọng. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái cao cả, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Người luôn tìm cách giác ngộ cho mọi người về quyền con người, tố cáo mạnh mẽ tội ác, áp bức, bất công của thực dân, đế quốc xâm lược. Người là chiến sĩ tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược, giải trừ chủ nghĩa thực dân, chống mọi áp bức đối với con người; đồng thời, có khát vọng xây dựng một xã hội mới tốt đẹp – xã hội xã hội chủ nghĩa. Người đã hiến trọn cuộc đời cho dân tộc và “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Bên cạnh đó, nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh còn được tôn đẹp lên bởi trí tuệ của Người. Người để lại cho đời sau di sản tư tưởng, lý luận đồ sộ, hàm chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc trong cuộc sống và là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người là nhà lãnh đạo, nhà ngoại giao, nhà báo, nhà thơ… ở vai trò nào, Người cũng để lại chỉ dẫn sáng suốt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Điều đó làm cho trí tuệ của Hồ Chí Minh sáng trong muôn đời, tô đậm thêm nhân cách cao đẹp của Người.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có thể phủ nhận, bôi đen hình tượng Hồ Chí Minh. Nói xấu Hồ Chí Minh là hành động trái với sự thật, bởi cuộc đời Người như một chân lý của cái “chân, thiện, mỹ”. Những kẻ có tâm xấu muốn đặt điều vu khống, nói xấu, “bôi đen” hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh như Bảo Giang chẳng khác nào những “chó điên”, điên cuồng húc đầu vào núi.
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin truyền thông, lợi dụng diễn đàn mở cũng như sự lan truyền rộng, nhanh của internet, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc thân thế, sự nghiệp và nhân cách Hồ Chí Minh. Nhưng những hành động ấy chỉ như “dã tràng se cát”, bởi cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng không một chút bụi mờ, đã trở thành giá trị văn hóa thẩm thấu một cách tự nhiên vào đời sống của mỗi người Việt Nam yêu nước.

LẠI “BÌNH MỚI, RƯỢU CŨ” CỦA NHỮNG KẺ PHẢN ĐỘNG

Trong những mục tiêu chống phá Đảng, Nhà nước ta của bọn phản động thì việc “hạ bệ”, “bôi đen” Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được chúng coi là một mục tiêu quan trọng nhất. Vì chúng cho rằng, một khi đập vỡ được “tượng đài” Hồ Chí Minh trong lòng mỗi người dân nước Việt thì chúng sẽ đạt được bước tiến lớn trên con đường lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Thực hiện mục tiêu đó, các thế lực thù địch, phản động đã không từ bất kỳ mưu hèn, kế bẩn nào để nhằm hạ uy tín, cống hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Tiếp tục những mưu kế lợi dụng những thiếu sót của ta trong cải cách ruộng đất – một chiêu trò quen thuộc đã được các đối tượng giả danh “dân chủ, yêu nước” thường xuyên “nhai đi, nhai lại” để hạ uy tín của Bác.
Gần đây, Trần Thị Hải Ý tiếp tục diễn lại chiêu trò này trong bài viết: “Cách mạng và băng đảng lưu manh”, đăng trên trang mạng danlambao. Trong bài viết, Trần Thị Hải Ý đã xuyên tạc rằng: “… Gây tội ác tày đình xong, Chủ tịch của nhà người ta chỉ cần độc diễn một đoạn kịch dụi dụi mắt như khóc, nhận sai lầm, lí nhí xin lỗi dân. Chỉ vậy thôi mà hòa cả xứ!…”. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức phản động, nó đã xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín và cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho giai cấp nông dân. Người khẳng định, để giải phóng giai cấp nông dân, thì song song với cách mạng giải phóng dân tộc, phải triệt để tiến hành cuộc “cách mạng thổ địa”, lật đổ chế độ phong kiến, xóa bỏ giai cấp địa chủ, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã cùng với Đảng, Chính phủ thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, đã ban hành và thực hiện nhiều đạo luật quan trọng về tạm cấp đất của Việt gian cho nông dân nghèo. Đến năm 1953, trước yêu cầu phát triển mới của cuộc kháng chiến chống Pháp, đảm bảo quyền lợi của giai cấp nông dân, Đảng Lao động Việt Nam đã tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất, nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến, xóa bỏ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện triệt để khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của lịch sử lúc bấy giờ.
Trong quá trình thực hiện, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải quán triệt và thể hiện tính cách mạng, tính nhân văn, nhân đạo trong cải cách, không được sử dụng nhục hình đối với địa chủ. Người rất đau lòng khi nhận thấy trình độ cán bộ lúc bấy giờ còn rất thấp, không phân biệt được địch-ta, coi đội cải cách là vua “thậm chí, có một số cán bộ hủ hóa, làm hại đến danh dự của Đảng, của Chính phủ, của tất cả cán bộ”. Trước những sai lầm của một số cán bộ, đảng viên trong cải cách ruộng đất, gây ra tình trạng đấu tố tràn lan và oan sai cho một số cán bộ, quần chúng nhân dân, trên cương vị là Chủ tịch nước, ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào và cán bộ vạch rõ những sai lầm, khuyết điểm, Người đã xin lỗi đồng bào và cho biết Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm khắc phục các sai lầm đó.
Tại Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1956),  Bác Hồ đã thay mặt Đảng, Chính phủ thẳng thắn nhận khuyết điểm trước Quốc hội. Nước mắt Người đã rơi trước những khuyết điểm do chủ quan, thiếu lắng nghe nhân dân, thiếu sâu sát thực tiễn cơ sở. Trước quốc dân đồng bào, Người đã không ngần ngại công khai khuyết điểm của Đảng, của người lãnh đạo cao nhất chính là Người… Ngay sau đó, Người đã cùng Đảng, Chính phủ thực hiện nhiều chính sách kịp thời để khắc phục khuyết điểm, đến tháng 9/1957, chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài sản khoảng 70-80% số người bị oan sai.
Như vậy, trong suốt quá trình hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công cuộc giải phóng hoàn toàn giai cấp nông dân, đưa ruộng đất về tay nông dân, thực hiện triệt để khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, ngay sau khi phát hiện những sai lầm mà cán bộ, đảng viên mắc phải, trên cương vị lãnh đạo, Người đã nghiêm khắc phê bình và tự phê bình, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm trước nhân dân và nhanh chóng thực hiện các biện pháp sửa chữa sai lầm, phát huy tính tích cực cao nhất của công cuộc cải cách. Đạo đức và nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời cho đạo đức, nhân cách của người cán bộ, đảng viên mẫu mực – suốt đời tận tụy phục vụ, hy sinh, cống hiến cho dân, cho nước, chứ đâu như những luận điệu bôi đen, xuyên tạc của Trần Thị Hải Ý và bọn phản động đã và đang cố diễn lại chiêu trò cũ./.

KẾT QUẢ TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ VÀ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM BÁC BỎ MỌI SỰ XUYÊN TẠC

Từ chỗ nước ta chỉ là “một xứ thuộc địa”, ngày nay đã trở thành một nước độc lập, tự do, có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 5 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và hiện nay là ứng viên duy nhất của nhóm các nước châu Á - Thái Bình Dương tại Liên hợp quốc ứng cử vào vị trí này trong nhiệm kỳ 2020 - 2021. Nhiệm kỳ 2014 - 2016, Việt Nam là Ủy viên Hội đồng Nhân quyền thế giới; nhiệm kỳ 2013 - 2017 đảm nhiệm vị trí Tổng thư ký ASEAN và năm 2020 Việt Nam sẽ đảm nhiệm lần hai vị trí Chủ tịch ASEAN. Năm 2016, Việt Nam được bầu làm thành viên Ủy ban Luật pháp Quốc tế và cuối năm 2018 được bầu làm thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế nhiệm kỳ 2019 - 2025 của Liên hợp quốc. Điều đó khẳng định, vị thế của Việt Nam đã chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”. Việc được bầu với số phiếu rất cao vào các vị trí nói trên của Liên hợp quốc cho thấy, vị thế của Việt Nam và mức độ tin cậy ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế đối với nước ta.
Năm 2017, lần thứ hai tổ chức Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới khi là nơi hội tụ toàn bộ lãnh đạo các nền kinh tế thành viên APEC, trong đó có lãnh đạo các nền kinh tế hàng đầu thế giới, như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản. Trong bối cảnh chủ nghĩa dân túy và bảo hộ nổi lên mạnh mẽ, với tư cách chủ nhà, Việt Nam thể hiện vai trò cân bằng trong điều hành, khéo léo điều hòa khác biệt, thúc đẩy điểm tương đồng giữa các thành viên để tạo tiếng nói chung; qua đó, tô đậm dấu ấn của Việt Nam trên tiến trình hợp tác của APEC. Cũng trong dịp này, với sự điều hành linh hoạt, uyển chuyển của Việt Nam và Nhật Bản, 11 nước thành viên đã ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Những việc làm đó đã khẳng định vai trò và khả năng của Việt Nam trong xử lý những vấn đề quốc tế; thể hiện sự chủ động và “tầm vóc” của Việt Nam trong tham gia kiến tạo và định hình các thể chế khu vực và toàn cầu. Nhận định về vai trò của Việt Nam, Tổng thống Hoa Kỳ Đô-nan Trăm nói: “Việt Nam là một đối tác tuyệt vời trong khu vực và có rất nhiều cơ hội để chúng tôi tìm ra phương cách hợp tác song phương nói riêng và cả khu vực nói chung nhằm thúc đẩy tăng trưởng ở khu vực”.
Sau thành công của Năm APEC-2017, Việt Nam trở thành địa điểm tin cậy của các sự kiện quốc tế đa phương. Năm 2018, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế quan trọng, như: Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 26, Hội nghị Thượng đỉnh Tiểu vùng Mê Kông mở rộng lần thứ 6, Hội nghị cấp cao Tam giác phát triển Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam lần thứ 10, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN). Đáng chú ý là, Hội nghị WEF ASEAN 2018 do Việt Nam tổ chức được đánh giá là hội nghị khu vực thành công nhất của WEF trong 27 năm qua, khi quy tụ được nhiều nguyên thủ của các quốc gia ASEAN, lãnh đạo cấp cao của các nước đối tác, khoảng 1.000 đại diện các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp ASEAN và quốc tế. Vừa qua, Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak 2019 được tổ chức thành công tại Việt Nam. Đây là lần thứ 3 sau hai lần nước ta đăng cai vào năm 2008 và 2014. Điều đó khẳng định vị thế, trách nhiệm của Việt Nam với các hoạt động của Liên hợp quốc trên tất cả các lĩnh vực.
Sự kiện nổi bật, thu hút sự quan tâm của cả thế giới đầu năm 2019 là Việt Nam được chọn làm nơi diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần 2 để bàn về vấn đề phi hạt nhân hóa và thiết lập nền hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên. Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ là một địa điểm được tin cậy về mặt an ninh, mà còn có vai trò đóng góp quan trọng cho công việc chung của thế giới và khu vực, vì hòa bình, ổn định và phát triển. Sau sự kiện này, giáo sư Lee Woong-Hyeon, Chủ tịch Viện Nghiên cứu địa chính trị Hàn Quốc chia sẻ: “Việt Nam cho thế giới thấy vị thế của một cường quốc tham gia ngoại giao thế giới”. Cùng với những sự kiện đó, hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước (Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội) đến các nước trong ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Hàn Quốc, một số nước Tây Âu, Bắc Âu và Va-ti-căng,… cũng như nguyên thủ các nước này đến thăm nước ta trong những năm qua, đã khẳng định vị thế ngày càng tăng của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế.

NHẬN DIỆN SỰ XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Một trong những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận những thành quả của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo. Tuy nhiên, vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận.
Xuyên tạc sự thật là một thủ đoạn quen dùng của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Họ thường tập trung xuyên tạc vị thế lãnh đạo của Đảng, khi cho rằng “chế độ một đảng lãnh đạo chỉ đưa dân tộc đến ngõ cụt”(!). Gần đây, trên một số trang mạng xã hội, họ rêu rao rằng “Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ngày càng lún sâu vào xu thế lụn bại, tụt dốc không phanh”(!). Xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, họ cho rằng “Đó là sự bế tắc của những người cộng sản, bởi đường lối này là đầu Ngô mình Sở”(!). Xuyên tạc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, gắn với chủ trương “Việt Nam không tham gia liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”, họ cho rằng “đường lối trung dung này tự cô lập Việt Nam, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(!). Xuyên tạc những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, họ cố bịa đặt: “đất nước đang lâm vào khủng hoảng toàn diện”(!)...
Dẫn một số biểu hiện nổi bật của thủ đoạn xuyên tạc nói trên để thấy rằng, các thế lực thù địch không chừa lĩnh vực nào, miễn là có thể làm lẫn lộn “thật, giả”, gây hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin ở cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ chính trị hiện nay; qua đó, hòng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Tuy nhiên, vị thế đang lên của Việt Nam trên trường quốc tế xét ở mọi lĩnh vực đã bác bỏ những xuyên tạc ác ý.

BẢN CHẤT KHOA HỌC, CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã xác định, Đảng Cộng sản Việt Nam “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Thế nhưng, các thế lực thù địch tìm mọi cách ra sức phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, làm rõ bản chất khoa học, cách mạng để không thể xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp thiết hiện nay.
Thực tiễn đã chứng tỏ, bất cứ một đảng chính trị nào cũng phải có hệ tư tưởng dẫn dắt, nếu không đảng đó chỉ là tổ chức ô hợp. Điều này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Do vậy, từ Đường cách mệnh do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Luận cương chính trị do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình.
Chính vì bản chất khoa học và cách mạng, nên chủ nghĩa Mác – Lênin ngay từ khi ra đời cho đến nay luôn bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá. Bất chấp điều đó, những người có lương tri trên thế giới vẫn khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thực tế đã chứng minh, chính chủ nghĩa tư bản dù ở phương Đông hay phương Tây cũng đã và đang vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại, làm cho nó giảm bớt các khuyết tật, khiến cho một số người ngộ nhận rằng, chủ nghĩa tư bản là “hình mẫu” các nước cần “noi theo”. Nhưng không, những gì C. Mác phân tích về chủ nghĩa tư bản vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó được chứng tỏ qua kết quả bình chọn nhà tư tưởng thiên niên kỷ thứ hai của Trường Đại học Cambrit (Anh) công bố năm 1999. Theo đó, C. Mác đứng đầu, đứng thứ hai là A. Anhxtanh - các nhà khoa học lớn của nhân loại.
Một số người cho rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chứng tỏ chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ kiên định với lý thuyết lạc hậu (!). Xin nhắc lại kết quả thăm dò của Tạp chí Spiegel (Đức) với hơn 56% số người được hỏi đã cho rằng “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành tồi”. Như vậy, người ta đã không phủ nhận lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà phê phán những người áp dụng lý luận ấy một cách máy móc, giáo điều. Vì thế, dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Mặc dù vậy, nhưng không thể phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa cộng sản Xô-viết. A. Dinôviép (người tự nhận không phải môn đệ của chủ nghĩa Mác – Lênin) từng chống nhà nước Xô-viết và phải ngồi tù thời còn Liên Xô, sau sống lưu vong ở Mỹ, trước sự sụp đổ của Liên Xô đã cho rằng: “Những thành tựu thời đại chủ nghĩa cộng sản Xô-viết do V.I. Lênin mở đầu đã thấm vào máu thịt của loài người… Nhờ có cuộc cách mạng vô sản và tất cả những gì gắn với cuộc cách mạng đó mà nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự thụt lùi đáng sợ nhất, thoát khỏi sự suy tàn, thoái hóa”.
Ở nước ta, cho đến nay, chưa có ai đi nhiều, học hỏi, tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với khả năng thiên bẩm và sự trải nghiệm của bản thân, Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Vì thế, Hồ Chí Minh không ngừng nghiên cứu, vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc.
Thế nhưng, có người lại cho rằng, Hồ Chí Minh là “người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa”, “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải nhà mác-xít”. Từ đó, họ tập trung phủ nhận giá trị lý luận, thực tiễn, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh và những đóng góp to lớn của Người đối với dân tộc và phong trào cách mạng thế giới. Một số luận điệu khác lại đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam.
Việc hạ thấp hoặc tuyệt đối hóa vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh như trên đều nhằm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, thực chất là phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin, tiến tới phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thực tiễn cho thấy, do kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chúng ta đã đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và giành những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, đưa vị thế của Việt Nam ngày một nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi đường lối, chính sách đều hướng tới phục vụ con người, bảo đảm quyền con người ngày một tốt hơn. Vì thế, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật trong bảo đảm quyền con người, trong đó có việc thông qua Hiến pháp năm 2013 (dành hẳn Chương 2 đề cập về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân). Nhiều năm liền, Việt Nam duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế cao (trên 6%), làm cho thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng…Đánh giá về nguyên nhân để Việt Nam đạt thành tựu to lớn đó, các chuyên gia, học giả quốc tế đều thống nhất khẳng định: sự ổn định về chính trị là nhân tố quan trọng để Việt Nam thu hút giới kinh doanh, đầu tư trên thế giới. Điều đó chỉ có được dưới sự lãnh đạo của Đảng được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ luận giải trên cho thấy, bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò của hệ tư tưởng này đối với cách mạng Việt Nam. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển những nguyên lý lý luận ấy, làm cho nó mãi mãi xanh tươi và khẳng định tính đúng đắn trong thực tiễn.

TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH ĐỂ NGĂN NGỪA TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

Muốn phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả thì đòi hỏi phải có phương châm rõ ràng. Trước đây chúng tôi đã đề cập đến phương châm kiên trì trong đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", đó là phương châm cơ bản mang tính xuyên suốt và lâu dài.
Bên cạnh đó phải coi trọng và thực hiện tốt phương châm tự phê bình và phê bình. Bởi vì, đây là cách tạo ra cơ chế bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực đối với mặt tiêu cực trong mỗi cán bộ, đảng viên. Nếu biết cách tự phê bình và phê bình sẽ làm cho những khuyết điểm "lộ diện" và mất dần đi, người cán bộ, đảng viên sẽ khắc phục hết khuyết điểm, nhược điểm, làm cho tính tiêu cực mất đi và tính tích cực nhiều lên. Vì thế tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên như "rửa mặt hằng ngày" của mỗi cán bộ, đảng viên; khéo léo đưa các khuyết điểm ra trước tập thể, biết khuyến khích và bảo vệ những người phê bình những khuyết điểm đó; phê bình việc chứ không phê bình người; phê bình để tạo sự đoàn kết, thống nhất; phê bình trên tinh thần đồng chí thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, khéo léo nhưng phải kiên quyết trong phê bình, có như vậy mới làm cho mặt tiêu cực mất dần đi và mặt tích cực tăng dần lên.
Việc kết hợp "xây và chống" để đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cũng là một phương châm quan trọng. Thực hiện phương châm "xây và chống", thì không được coi nhẹ mặt nào, nhưng trong đó phải lấy "xây" là chính. "Xây" là xây dựng một xã hội phát triển toàn diện để bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực trong mỗi con người và tổ chức. Trong đó coi trọng xây dựng tinh thần đoàn kết của mỗi con người và tổ chức. Phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Bởi vì, sự đoàn kết, thống nhất trong mỗi tổ chức sẽ nâng cao khả năng "miễn dịch" trước sự tác động chuyển hóa từ bên ngoài và bên trong. Sự đoàn kết trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái trong nội bộ, góp phần xây dựng con người và tổ chức trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi nguy cơ "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa".
"Chống" là chống mặt tiêu cực trong mỗi con người và tổ chức. Chống thâm nhập phá hoại tư tưởng từ các thế lực bên ngoài. Chống lũng đoạn nội bộ, làm tha hóa cán bộ của các thế lực thù địch; chống tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị, "địa phương chủ nghĩa".
Kết hợp "xây và chống" chính là để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa thực hiện dân chủ rộng rãi, vừa coi trọng kỷ cương, kỷ luật, kết hợp chủ động đấu tranh phòng ngừa "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" với tích cực tiến công làm thất bại âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch với tinh thần tích cực "giữ vững bên trong" và "tự bảo vệ mình là chính".