Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2018

VIỆT NAM ĐI THEO CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CÓ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ CỦA THỜI ĐẠI HIỆN NAY?

Trước sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản, hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng Việt Nam nên lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa tư bản mới giàu có và phù hợp với xu thế của thời đại, điều này có đúng không? Chúng ta cùng phân tích những vấn đề cơ bản sau, sẽ có câu trả lời thỏa đáng.
Chúng ta phải công nhận trước sự đấu tranh của các lực lượng tiến bộ, trước xu thế của thời đại, trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chủ nghĩa tư bản đã buộc phải điều chỉnh cho phù hợp và họ đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận. Do có ưu thế về vốn, do sử dụng có hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, do có kinh nghiệm trong quản lý sản xuất và kinh doanh nên đã làm cho của cải của chủ nghĩa tư bản được nhân lên gấp bội trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên nhìn một cách thấu đáo thì ai cũng có thể thấy chủ nghĩa tư bản do nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội nên sự giàu có luôn thuộc về thiểu số giai cấp tư sản, còn đại đa số công nhân và nhân dân lao động thì luôn bị đẩy vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói và ngày càng bị bần cùng hóa. Bên cạnh đó không phải cứ tất cả các nươc tư bản đều giàu có mà điều này chỉ đúng với một số nước (G7), một số nước thì ở nhóm các nước trung bình, phần còn lại của thế giới tư bản đều ở nhóm đang, chậm và kém phát triển. Điều này chứng minh rằng không phải cứ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ giàu có. Một điều nữa mà mọi người đều thừa nhận đó là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc luôn là bạn đường của chiến tranh, tất cả các cuộc chiến tranh, các cuộc xung đột đã và đang xảy ra trên thế giới đề do bàn tay của chủ nghĩa đế quốc nhúng vào. Vậy đi theo chủ nghĩa tư bản có thật sự tốt đẹp? Điều này không cần trả lời thì mọi người trên thế giới đều hiểu rõ. Vậy mà hiện nay một số kẻ lại vờ như không nghe, không biết, không hiểu gì về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vẫn hô hào, cổ xúy ủng hộ cho các quan điểm phản động và mong muốn cho Việt Nam đi theo con đường đầy bùn nhơ và tội lỗi đó.
Từ những phân tích ở trên có thể khẳng định rằng Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ ghĩa xã hội là đúng, là hợp quy luật, phù hợp lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn xu thế thời đại. Việt Nam không thể đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nếu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ không có được nền độc lập, tự do thực sự và cũng không thể đem lại sự giàu có cho mọi người dân trong xã hội./.

THỰC TRẠNG PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI TRONG GIẢNG DẠY CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Trong những năm qua, việc phê phán các quan điểm sai trái trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học đã được quan tâm, nhận thức đúng đắn hơn. Chất lượng các bài giảng chủ nghĩa xã hội khoa học đã được nâng lên, cân đối, hoàn chỉnh hơn giữa lý luận và thực tiễn. Giảng viên đã mạnh dạn đưa các ví dụ thực tế vào phê phán các quan điểm sai trái trong quá trình giảng dạy. Học viên cũng đã vận dụng kiến thức đã học vào tìm hiểu, nhận diện và phê phán các quan điểm sai trái thông qua các hình thức sau bài giảng, đấu tranh trên không gian mạng… qua đó góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng các bài giảng môn chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và đấu tranh làm thất bại các âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định cũng phải nhìn nhận việc phê phán các quan điểm sai trái trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiến đấu tranh cũng còn ở mức độ nhất định, còn xuôi chiều, áp đặt, cứng nhắc, thiếu chiều sâu, chưa phát huy cao độ được nhiều tác dụng. chưa gợi mở cho người học nhận thức đa chiều về các laoij quan điểm sai trái, phân biệt chugs để có hình thức, biện pháp đấu tranh cho phù hợp, nên trong một số bài giảng môn chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng như thực tiến đấu tranh, tính chiến đấu , tính thực tiễn còn hạn chế. Những nhận thức và sự vận dụng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái  không đúng, hình thức, biện pháp phê phán trong giảng dạy cũng như trong thực tiễn đấu tranh không phù hợp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ảnh hưởng tiêu cực này càng lớn nếu phạm vi nhận thức, vận dụng ở quy mô lớn, thời gian dài. Vì vậy để đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái yêu cầu hiện nay trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như trong thực tiễn đấu tranh là:
Trước hết, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, định hướng nghiên cứu cho người học bằng cách trang bị những kiến thức cơ bản, của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thứ hai, xây dựng, củng cố cho người học niềm tin cộng sản, gắn việc truyền thụ kiến thức với trang bị kinh nghiệm đấu tranh phê phán.
Thứ ba, phát huy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của độ ngũ giảng viên và học viên trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu và đấu tranh chống các quan điểm sai trái. Kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện không đúng trong quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu và đấu tranh trên thực tế của cả người dạy và người học./.

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

Trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản (chủ nghĩa Mác - Lênin), nhằm tiếp tục thay thế và củng cố tư tưởng của giai cấp tư sản trên phạm vi toàn thế giới. Một trong những luận điểm mà các thế lực thù địch tập trung chống phá đó là nguyên lý về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Các thế lực chống cộng và thù địch lập luận rằng: C.Mác đã gắn cho giai cấp công nhân sứ mệnh mà nó không có chỉ bởi vì ông thương đó là giai cấp nghèo khổ; rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, đã trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung” và theo tự nhiên nhà nước tư bản sẽ dần “tiệm tiến” lên nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê nữa; rằng công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản , cho nên không còn sứ mệnh lịch sử nữa.
Những lập luận trên kể cả những người ít hiểu biết cũng đều khẳng định rằng đó là những luận điệu mị dân, phản động của chủ nghĩa chống cộng và các thế lực thù địch. Câu trả lời về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được các nhà kinh điểm chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra từ rất lâu đó là chân lý không thể bàn cãi. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do điều kiện khách quan quy định chứ không phải là do tình thương của C.Mác mà ông gán cho giai cấp công nhân. Địa vị khách quan đó là do giai cấp công nhân chính là sản phẩm của nền đại công nghiệp, nền đại công nghiệp đã làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng và do đó họ tự ý thức được vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Trong giai đoạn hiện nay mặc dù chủ nghĩa tư bản có sự điều chỉnh thich nghi, tuy nhiên sự điều chỉnh, thích nghi đó cũng là do sự đấu tranh quyết liệt của chủ nghĩa xa hộ, của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, do xu thế của thời đại mà có chứ không phải do sự thay đổi bản chất của chế độ tư bản.
 Mặc dù hiện nay chúng ta đều thừa nhận, sự điều chỉnh thích nghi đã làm cho chủ nghĩa tư bản tạm thời tiếp tục phát triển và chiếm ưu thế, giai cấp công nhân ở các nước tư bản có một bộ phận đã có của ăn, của để, đã “trung lưu hóa”. Nhưng cái sự “trung lưu hóa” ấy cũng chỉ là sự phản ánh mức sống của họ trong điều kiện mới chứ không phải là sự thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản, và càng không làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Nhìn nhận xã hội tư bản hiện nay ai cũng thấy rõ những mâu thuẫn trong nòng nó không hề giảm đi mà ngày càng gắt gắt thêm. Nhiều học giả tư sản cũng phải thừa nhận rằng: trong xã hội tư ban số người giàu chỉ chiến 10% nhưng sở hữu đến 90% tài sản, còn 90% số người còn lại thì chia nhau 10% tài sản. Vậy xã hội tư bản có thật sự công bằng, tiến bộ? Câu trả lời là không, vì sự bất công đó nó đã được biểu hiện ra về mặt xã hội là các cuộc khủng hoảng trầm trọng và những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mà điển hình là phong trào chiếm phố Wuôn ở Mỹ năm 2017.
Một điểm nước cần khẳng định trước xu thế của thời đại, trước sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, của cách mạng khoa học công nghệ thì giai cấp công nhân càng phát triể vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp, do vậy giai cấp công nhân vẫn là người có sứ mệnh lịch sử quyết định cho sự phát triển của xã hội loài người đến một tương lại tốt đẹp mà ở đó không còn tình trạng người bóc lột người đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Khi tiếp tục khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong điều kiện mới hiện nay, chúng ta không thể không nhắc đến luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, mà nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy – những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Luận điểm nổi tiếng đó luôn đúng trong mọi điều kiện đặc biệt là trong điều kiện hiện nay./.

CẦN PHẢI TỈNH TÁO NẾU KHÔNG SẼ MẮC MƯU KẺ THÙ VÔ TÌNH TIẾP TAY CHO CHÚNG CHỐNG PHÁ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA

Đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với mục đích chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần cho đi lên chủ nghĩa xã hội. Để chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất thì đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải tìm tòi mọi con đường, biện pháp cho kinh tế phát triển đi lên. Trong sự tìm tòi con đường gian khổ đó việc xác định các trọng điểm kinh tế làm đầu tàu để kéo cả đất nước đi lên là rất cần thiết. Vì vậy Đảng, Nhà nước ta xác định xây dựng các Đặc khu kinh tế là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế hiện nay, điều này các nước trên thế giới đã thành công.
Thế nhưng trong khi Đảng, Nhà nước đang nghiên cứu, bàn bạc thống nhất cách thức tiến hành để xây dựng một mô hình hoàn chỉnh cho sự phát triển của đặc khu, tất cả còn đang nằm trong “dự thảo” thì các thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nhân dân đã đồng loạt tổ chức các hoạt động tuyên truyền, kích động, nhân dân biểu tình chống lại đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước. Nguy hiểm hơn một bộ phận nhân dân ta do thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin đã hùa theo những hoạt động của các thế lực thù địch tụ tập đông người gây mất trật tự công cộng, rối loạn xã hội. Thậm chí ở một số nơi, điển hình như Bình Thuận số đông quá khích đã gây bạo loạn xông vào các cơ quan nhà nước, phá hoại tài sản của Nhà nước, gây thương vong cho lực lượng chức năng bảo vệ pháp luật. Tình trạng này cũng diễn ra ở một số địa phương khác trong cả nước. Đây là những việc làm rất đáng tiếc, thể hiện sự thiếu hiểu biết nghiêm trọng pháp luật, dẫn đến những hành động quá kích. Những việc làm trên chắc chắn sẽ bị nghiêm trị trước pháp luật.
Mọi người dân Việt Nam không ai là không tự hào vì mình mang dòng máu “con Lạc, cháu Hồng” có truyền thống yêu nước quật cường, cũng vì truyền thống quật cường đó mà trước bao phong ba, bão táp dân tộc ta vẫn kiên cường trụ vững sừng sững bên bờ Biển Đông, không kẻ thù nào có thể khuất phục được qua mấy ngàn năm lịch sử. Vậy mà nay, đứng trước vận mệnh của đất nước, trước cơ hội thuận lợi và trước đà tiến lên của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thì một bộ phận người dân lại mất cảnh giác nghe theo lời xúi giục của kẻ thù gây ra những bất ổn cho xã hội, gây hại cho đất nước, cản trở sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đang ngày đêm gian khổ thực hiện.
Vì vậy, mọi người dân nếu xác định mình là người Việt Nam có trách nhiệm với Tổ quốc, thì hãy hết sức bình tĩnh, suy sét cho thật kỹ mọi chiều cạnh trước khi hành động, tuyệt đối không nhẹ dạ cả tin mà vô tình tiếp tay cho kẻ thù đang đục nước béo cò phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta./.

LUÔN GIỮ GÌN DANH DỰ CỦA ĐẢNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN THÌ SẼ ĐẨY LÙI DÂN TÚY

Việc chống chủ nghĩa dân túy cũng là việc cần làm để bảo vệ danh dự của Đảng, để xây dựng phẩm chất, nhân cách của người đảng viên cộng sản chân chính. Bảo vệ danh dự của Đảng phải bắt nguồn từ việc gìn giữ, xây dựng niềm tin của nhân dân với Đảng. Niềm tin đó phải được bảo vệ như ngọc trong đá, như con ngươi của mắt mình. Để làm được điều đó thì lãnh đạo cấp cao phải tự ý thức để làm sao mỗi lời nói, hành động gắn liền với nhau, nói đi đôi với làm, để cho nhân dân thấy được vai trò, hiệu quả công tác của cán bộ; cho dân thấy, dân yêu. Tôi cho rằng, tuyệt đối không nên mị dân với những tiểu tiết đánh bóng cá nhân. Lãnh đạo cao cấp càng phải tự chăm lo bản thân mình nhưng chăm lo bằng sự gương mẫu, bằng kết quả hoàn thành nhiệm vụ chứ không phải bằng lời nói suông... Không mị dân theo những áp lực không đúng truyền thống và bản chất.
Danh dự của Đảng và niềm tin của dân như môi với răng, là hai mặt quan hệ biện chứng. Luôn tâm niệm danh dự và niềm tin đó thì mỗi cán bộ, đảng viên sẽ biết sửa mình, không sa vào chủ nghĩa dân túy.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CHỦ NGHĨA DÂN TÚY LÀ HẾT SỨC CẦN THIẾT

Chủ nghĩa dân túy hay chủ nghĩa xã hội dân túy là một biến dạng của chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản. V.I. Lênin gọi phái “dân túy” là kẻ thù công khai của phong trào cách mạng Nga. Cũng như chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam không có cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội để tồn tại dưới dạng “chủ nghĩa”, nó chỉ tồn tại với tính cách là quan điểm, tư tưởng không thành hệ thống lý luận và biểu hiện ở phát ngôn, hành động vụn vặt của một số người, nhưng sức nguy hiểm của các quan điểm, tư tưởng này là không nhỏ.
Tôi đồng tình với quan điểm trong bài viết của đồng chí Võ Văn Thưởng, song xin được bổ sung một số khía cạnh nhận diện chủ nghĩa dân túy về mặt tư tưởng như sau: Núp dưới ngọn cờ “tự do phê bình”, “đổi mới tư duy lý luận”, chủ nghĩa cơ hội, xét lại và chủ nghĩa dân túy đòi xem xét toàn bộ những nguyên lý, quy luật, phạm trù cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới. Họ cho rằng, giai cấp tư sản đã thay đổi bản chất, biết chung sống hòa bình với giai cấp công nhân, nên quan điểm đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, phải “chung sống hòa bình trong ngôi nhà chung”. Họ yêu cầu từ bỏ con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, muốn quay về chế độ dân chủ nhân dân, chủ nghĩa xã hội dân chủ…Về những biểu hiện cụ thể thì dân túy thể hiện qua phong cách làm việc giả tạo, mị dân, kích động nhân dân, triệt tiêu trách nhiệm và nghĩa vụ công dân...
Để đẩy lùi những biểu hiện dân túy, trước hết phải xây dựng lập trường, sự kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ để có thế giới quan, phương pháp luận khoa học, phong cách làm việc sâu sát, gần dân nhưng không xa rời nguyên tắc, tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là phong cách làm việc của Người.

CẢNH GIÁC NHỮNG NGƯỜI MUA CHUỘC LÒNG DÂN NHẰM ĐÁNH BÓNG TÊN TUỔI

Có thể nói rằng, chủ nghĩa dân túy là biểu hiện của những kẻ cơ hội chính trị đã lợi dụng lòng tin ngây thơ của quần chúng để thực hiện những dụng ý, động cơ cá nhân. Thời gian qua, có một số người trong xã hội (thường có địa vị, có học hàm, học vị, vốn sống) đã triệt để tận dụng các trang mạng xã hội, các tờ báo điện tử đăng đàn, diễn ngôn, phát ngôn nhằm thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Những người này có đặc điểm chung là hoạt ngôn, có tài hùng biện và khả năng viết lách, “lập ngôn” khá tốt, dễ bắt mắt người đọc, người nghe. Tuy nhiên, những thông tin họ đưa ra thường viện dẫn triết lý này nọ, có điều đúng đắn, hợp lý, song cũng không ít điều “mờ mờ ảo ảo”, dễ làm “mụ mị” đầu óc những người nhẹ dạ cả tin.
Đối với các chính khách, học giả, tìm kiếm và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của người dân là cần thiết, nhưng không nên làm bằng mọi giá. Với những chính khách, học giả chân chính, bao giờ họ cũng thu hút sự quan tâm của người dân bằng một thái độ chân thành, hiểu biết, nói đi đôi với làm, hứa ít làm nhiều, làm đến nơi đến chốn để thuyết phục lòng tin của nhân dân. Còn nếu ai đó muốn lấy lòng dân bằng cách a dua quần chúng, theo đuôi đám đông mà không có chính kiến rõ ràng, không đứng trên lập trường cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, thì đó là một biểu hiện của chủ nghĩa dân túy. Đấy là chưa kể tình trạng một số cán bộ hứa nhiều làm ít, hứa suông, thậm chí hứa hão trước nhân dân nhưng không làm đến nơi đến chốn, thì cũng là biểu hiện “mị dân”. Vì vậy, chúng ta rất cần tỉnh táo, sáng suốt để nhận biết, phân biệt được đâu là những người vì dân đích thực, đâu là những kẻ tìm mọi cách “mua chuộc” lòng dân chỉ nhằm đánh bóng tên tuổi của mình hay thực hiện một ý đồ cá nhân nào đó./.

NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA DÂN TÚY HIỆN NAY

Chủ nghĩa dân túy ra đời ở Mỹ và Nga cuối thế kỷ 19, tuy nhiên hiện nay hiện tượng chủ nghĩa dân túy lại trỗi dậy mạnh ở một số nước châu Mỹ, châu Âu và châu Á.
Điều đáng nói là sự trỗi dậy này gây phương hại không nhỏ cho một số quốc gia và tổ chức quốc tế. Ở Việt Nam, đã xuất hiện một số biểu hiện của chủ nghĩa dân túy: Những người cơ hội chính trị ở Việt Nam đang thông qua các thủ đoạn chính trị mị dân để phê phán sự lãnh đạo của Đảng, kích động sự bất bình của nhân dân, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữa quân đội, công an và nhân dân. Họ tập hợp, lôi kéo một số quần chúng gây nên những hành động cực đoan, vô chính phủ, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Đáng chú ý là thông qua một số hoạt động vận động bầu cử, họ đưa ra những phát ngôn dân túy, những kiến nghị vô trách nhiệm để đạt được những nấc thang quyền lực; thậm chí cả những tuyên bố, thỉnh nguyện trái với Hiến pháp và đường lối, quan điểm của Đảng nhưng họ lại núp dưới danh nghĩa “hợp lòng dân”, tạo ra sự đối lập, dù với Đảng ta, ý Đảng - lòng dân luôn là một. Đứng trước thực trạng này, việc cảnh báo của đồng chí Võ Văn Thưởng là rất kịp thời và cần thiết.
Hiện nay chúng ta đang tập trung đấu tranh, khắc phục 27 biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”, đồng thời chúng ta cũng phải thật tỉnh táo để nhận diện các biểu hiện của chủ nghĩa dân túy thông qua các phát ngôn, hành động dân túy để kịp thời đấu tranh ngăn chặn. Cảnh báo của đồng chí Võ Văn Thưởng đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ trên mặt trận tư tưởng hơn lúc nào hết phải kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng ta, nòng cốt là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận...
Trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng ta đang thực hiện đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, tăng cường công khai dân chủ, minh bạch, đẩy mạnh đối thoại thì chúng ta càng phải tỉnh táo để phát hiện những biểu hiện lợi dụng dân chủ nhằm thực hiện các thủ đoạn chính trị mị dân.

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Trong những năm gần đây, cùng với việc chống phá cách mạng Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa xã hội nhằm vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm đến một địa hạt khác đó là lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Những âm mưu, thủ đoạn đó được chúng tiến hành trên các mặt chính sau đây:
Chúng tìm mọi cách thông qua các đạo luật, nghị quyết, nhằm lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và quốc tế hóa vấn đề tôn giáo để can thiệp chống phá Việt Nam.
Xúi giục, kích động số phần tử phản động trong tôn giáo người Việt ở nước ngoài tổ chức các hoạt động chống phá về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Hỗ trợ, kích động và chỉ đạo số cực đoan, phản động trong các tôn giáo trong nước hoạt động chống phá.
Lợi dụng vấn đề tôn giáo, kích động tự do tôn giáo gây ra bạo loạn chính trị và các điểm nóng tôn giáo.
Lợi dụng các vấn đề dân tộc kết hợp các vấn đề tôn giáo để chống phá.
Lợi dụng các hoạt động từ thiện, nhân đạo để chống phá.
Để đấu tranh làm thất bại các âm mưu thủ đoạn trên của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự nghiệp cách mạng mà chúng ta đang xây dựng hiện nay cần tập trung vào các vấn đề sau:
Nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.
Đấu tranh cương quyết, mềm dẻo, linh hoạt để làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn hoạt động chống phá của chúng, giữ vững sự ổn định về chính trị tư tưởng, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng để bạn bè quốc tế hiểu rõ quan điểm đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ để đấu tranh chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch.
Thực hiện tốt đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng tình đoàn kết các tôn giáo, các dân tộc toàn dân tộc để thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc./.

"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" LÀM SUY GIẢM VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ làm suy giảm vai trò, tiến tới làm tan rã các tổ chức, mà còn gây tác hại to lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và đối với cả sự tồn vong của chế độ.
 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong các tổ chức chính trị-xã hội có biểu hiện ban đầu là suy giảm bản chất, tính chất của tổ chức trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Về chính trị là dần rời xa mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, của giai cấp công nhân, không quán triệt và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về tư tưởng là dần rời xa Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để trào lưu tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa ngày càng xâm nhập, thẩm thấu vào các tổ chức chính trị-xã hội. Về tổ chức là ngày càng rời xa những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mỗi tổ chức xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn biểu hiện ở chỗ làm cho sức mạnh của các phong trào hoạt động cách mạng bị suy giảm, không còn khơi dậy được sức mạnh của toàn dân, không cổ vũ, tập hợp được hội viên, đoàn viên nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ chung của tổ chức mình. Thậm chí hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn làm cho tổ chức chính trị-xã hội không còn là chính mình, không còn là tổ chức chính trị-xã hội xã hội chủ nghĩa. Ở khía cạnh cá nhân: Các hội viên, đoàn viên khi bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lung lạc thì ban đầu là mất đi tính tích cực, trách nhiệm của thành viên đối với tổ chức; không còn thiết tha với các hoạt động của hội, đoàn, hoặc không thực hiện đúng các tôn chỉ, mục đích của hội, thậm chí còn xuất hiện hiện tượng nói, viết ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng, chống lại các chính sách, pháp luật của Nhà nước... Đó là dấu hiệu cho thấy sự biến chất về chính trị, tư tưởng, là dấu hiệu tan rã của các tổ chức chính trị-xã hội. Các tổ chức lúc này hoàn toàn mất vai trò tập hợp hội viên, đoàn viên, quần chúng nhân dân đi theo Đảng, thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Vì vậy có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là rất nguy hiểm và hiện nay, các thế lực thù địch đang tích cực chĩa mũi nhọn vào các tổ chức này, hòng xâm nhập dần vào tư tưởng của các hội viên, đoàn viên, để từ đó tác động, làm thay đổi dần nhận thức và hành động của họ. Việc ngăn chặn hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong các tổ chức chính trị-xã hội là việc làm cấp thiết, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân mà trước hết là của mỗi hội viên, đoàn viên trong chính các tổ chức chính trị-xã hội ấy.

"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" LÀM SUY GIẢM VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong bộ máy Nhà nước sẽ diễn ra trong các tổ chức của bộ máy Nhà nước, chính quyền các cấp từ Trung ương tới cơ sở và diễn ra trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tác động đến việc hoạch định chủ trương, chính sách của Nhà nước và cả trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách này. Tức là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên cả phương diện lập pháp, tư pháp và hành pháp. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở bộ máy Nhà nước sẽ làm cho bản chất Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân bị suy giảm và có thể dẫn tới sự biến chất của bộ máy Nhà nước. Nhà nước sẽ không còn thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý, điều hành xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập quốc tế. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức sẽ làm cho đội ngũ này không còn là “công bộc” của dân, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, ức hiếp nhân dân, không còn vì lợi ích của dân. Quan hệ giữa nhân dân với chính quyền Nhà nước, nhất là quan hệ giữa nhân dân với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ngày càng trở nên lỏng lẻo, thậm chí sẽ dẫn đến sự đối lập giữa nhân dân và chính quyền. Điều đó dẫn tới sự suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức, khiến cho mọi lời nói, việc làm của đội ngũ này không còn sức thuyết phục, động viên, cổ vũ nhân dân noi theo, làm cho mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước không được thực hiện nghiêm túc.
Càng ngày, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng làm mất vai trò quản lý điều hành của Nhà nước đối với xã hội. Quần chúng nhân dân sẽ không còn đồng tình, ủng hộ các chính sách của Nhà nước, thậm chí là phản đối, chống đối lại các chính sách. Như vậy ta có thể thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hết sức nguy hiểm đối với bộ máy Nhà nước và mọi cán bộ, công chức, viên chức, do đó việc phòng, chống hiện tượng này là hết sức cấp thiết và là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước.

Thứ Năm, 14 tháng 6, 2018

NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA CƠ HỘI

Theo V.I. Lênin, sự xuất hiện chủ nghĩa cơ hội ở Nga trong những năm đầu thế kỷ XX có ba nguyên nhân chính sau:
Một là, bắt nguồn từ ảnh hưởng của khuynh hướng tư tưởng tiểu tư sản trong phong trào quần chúng công nhân. Do giai cấp công nhân sống “sát nách” với giai cấp tiểu tư sản, trong khi giai cấp này lại có sự phân hóa nên một bộ phận trong số đó nhập vào giai cấp công nhân. Họ mang theo vào phong trào công nhân mọi thứ quan niệm, như “mê tín, thiển cận, hẹp hòi, lệch lạc có tính chất tiểu tư sản”. Bên cạnh đó, nước Nga thời bấy giờ “là nước tiểu tư sản nhất trong tất cả các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế cho nên khi chủ nghĩa Mác vừa mới trở thành một trào lưu xã hội có tính chất quần chúng ở Nga, thì trong trào lưu đó xuất hiện ngay một thứ chủ nghĩa cơ hội tiểu tư sản của những phần tử trí thức, ban đầu dưới hình thức “chủ nghĩa kinh tế” và “chủ nghĩa Mác hợp pháp” (1895 - 1902), sau đó dưới hình thức chủ nghĩa mensêvích (1903 - 1908)”. V.I. Lênin khẳng định, đây là điều tất yếu khách quan: “Phong trào quần chúng của công nhân có sinh ra một cánh tiểu tư sản và cơ hội chủ nghĩa trong phong trào đó thì đấy không phải là điều ngẫu nhiên, mà là một hiện tượng tất nhiên”. 
Hai là, sự phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân, tình trạng “tư sản hóa giai cấp công nhân” và sự xuất hiện “tầng lớp công nhân quý tộc”. Có sự phân hóa đó là do giai cấp tư sản mua chuộc được tầng lớp trên của giai cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận. Một bộ phận công nhân có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, có uy tín trong tập thể công nhân được giai cấp tư sản sử dụng, giúp giai cấp tư sản trong tổ chức, quản lý sản xuất, giám sát kỹ thuật. Sau đó, họ bị giai cấp tư sản mua chuộc, chi phối bằng lợi ích vật chất. Từ đó, họ biến chất, trở thành tay sai cho giai cấp tư sản. Tầng lớp công nhân quý tộc này đã tác động đến phong trào công nhân, làm cho chủ nghĩa cơ hội phát triển trong phong trào công nhân.
Ba là, một bộ phận giai cấp công nhân hiểu chủ nghĩa Mác một cách không có hệ thống, chưa thấm nhuần thế giới quan mác-xít, chưa đoạn tuyệt với thế giới quan tư sản nói chung và thế giới quan dân chủ - tư sản nói riêng. Và do vậy, họ luôn “nhảy từ một cực đoan bất lực này sang một cực đoan bất lực khác. Khi thì họ giải thích rằng mọi việc đều do những kẻ có ác ý “xúc xiểm” giai cấp này chống lại giai cấp kia, khi thì họ tự an ủi bằng cách nói rằng đảng công nhân là một “đảng cải lương có tính chất hòa bình”. Điều đó cho thấy, những người theo chủ nghĩa cơ hội thường có biểu hiện lập trường tư tưởng không rõ ràng, còn bấp bênh, chưa hiểu bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thái độ của họ lúc thế này, lúc thế khác và nguy hiểm hơn là họ sẵn sàng thay đổi giọng điệu, thái độ, lập trường để đạt được mục đích và vì lợi ích của mình. Vì lợi ích của phe nhóm, dòng tộc và cá nhân, những kẻ cơ hội chủ nghĩa sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với các tầng lớp, giai cấp phi vô sản, từ bỏ con đường đấu tranh cách mạng, phản bội lại mục tiêu, lý tưởng cộng sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

ĐẰNG SAU NHỮNG HÀNH ĐỘNG CẢN TRỞ VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT AN NINH MẠNG

Sau khi trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, dự án Luật An ninh mạng đã được chỉnh sửa, bổ sung trên cơ sở ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội và ý kiến đóng góp của nhân dân và các cơ quan chuyên môn, dự kiến được Quốc hội thông qua tại kỳ họp lần này.
Tuy nhiên, trên mạng xã hội, báo chí nước ngoài xuất hiện nhiều bài viết với lời lẽ có tính “hù dọa” hậu quả nếu dự luật này được thông qua như: “Luật An ninh mạng sẽ siết chặt tự do ngôn luận”; “Việt Nam nhắm đến siết chặt facebook, Google, “đe dọa giới bất đồng”; “Đừng để Việt Nam trở thành kẻ thù của các giá trị tiến bộ”...
Cùng việc đưa ra các lý lẽ có tính bao biện, một số người “đe” rằng, chính phủ Việt Nam “sẽ thất bại nếu để dự luật An ninh mạng thông qua”. Thậm chí, họ tự phân tích theo ý chủ quan rồi phán: “Trong lịch sử hơn 20 năm có Internet (1997-2018) chưa bao giờ lợi ích quốc gia, dân tộc và tự do của người dân bị đe doạ lớn như những gì đang được chuẩn bị trong dự luật An ninh mạng”.
Nhiều bài viết được đăng tải trên một số báo chí nước ngoài như BBC, VOA... với lời lẽ thoá mạ, phê phán Chính phủ Việt Nam “bóp nghẹt” Internet, “chậm tiến”, “kéo lùi lịch sử”...
Cùng với đó, một số tổ chức có thư gửi cơ quan chức năng Việt Nam, trên danh nghĩa “góp ý dự luật” song lại đưa ra những đề nghị có tính áp đặt, bắt bẻ, hù dọa nếu dự luật được thông qua...
Cần thấy rằng, trong soạn thảo một dự án luật, việc có các ý kiến khác nhau là bình thường, thậm chí rất cần thiết để đảm bảo các quy phạm pháp luật thêm chặt chẽ, phù hợp và dễ đi vào cuộc sống khi luật được ban hành. Đây lại là dự luật tác động những vấn đề mới và nhạy cảm như an ninh mạng.
Quá trình soạn thảo, lấy ý kiến, bên cạnh các nhà khoa học, cơ quan chức năng thì mọi người dân đều có quyền tham gia ý kiến dưới các hình thức như bằng văn bản, phát biểu tại hội nghị, hội thảo, thư góp ý...
Tuy nhiên, việc đóng góp ý kiến là theo tinh thần xây dựng, dù tán thành hay không tán thành một nội dung, vấn đề nào đó dự luật nêu ra thì cũng phải thể hiện quan điểm, chính kiến dựa trên các cơ sở khoa học và thực tiễn thuyết phục và vì lợi ích chung.
Trong khi đó, những dạng “góp ý” như cách trên đối với dự án Luật An ninh mạng cho thấy rõ động cơ không trong sáng, nhiều người thể hiện ý đồ phá hoại, tạo dư luận nhằm cản trở việc thông qua luật của Quốc hội. Những người thường lấy lý do dự luật “đe dọa giới bất đồng” thì thực chất, đây là số có hành vi chống chính quyền hoặc có tư tưởng, quan điểm chống phá Đảng, Nhà nước.
Số này tỏ ra nghiên cứu rất kỹ dự án luật và họ nhận thấy nhiều điều khoản sẽ ràng buộc hoạt động của chính mình nên tìm cách phản ứng, phê phán chứ họ không nhìn nhận những vấn đề mà điều luật đưa ra dưới góc độ khoa học, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng.

ĐỪNG "TÉ NƯỚC THEO MƯA"

Lợi dụng Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 của Hoa Kỳ, nhiều trang mạng xấu đã tán phát thông tin thất thiệt, ác ý cho rằng: Cộng sản là những kẻ “vô thần” nên không có gì khó hiểu Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam hạn chế, gây khó dễ nhằm xóa bỏ tôn giáo. Sự thật như thế nào?
Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả mọi người. Thực tế cho thấy, Việt Nam không chỉ nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo mà còn bảo đảm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân một cách thỏa đáng.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 25 triệu người có đạo, chiếm 27% dân số; có gần 83.000 chức sắc; hơn 27.000 cơ sở thờ tự. Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam còn khuyến khích các tôn giáo đóng góp vào công cuộc xây dựng Tổ quốc, nhất là trên lĩnh vực giáo dục và an sinh xã hội. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, các tổ chức tôn giáo đã thành lập được 269 trường mầm non với 6.620 phòng học, tương đương với 1,9% tổng số cơ sở giáo dục cả nước. Về bảo trợ xã hội, ở Việt Nam hiện có gần 800 cơ sở do các tôn giáo tổ chức… Các tổ chức này đang nuôi dưỡng những trẻ em mồ côi, tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS…
Việc một số cá nhân, nhóm tôn giáo bị các cơ quan chức năng xử lý hình sự, trấn áp là điều cần thiết và đúng luật, vì họ đã vi phạm pháp luật chứ không phải vì lý do tôn giáo. Sự trừng phạt này là nhằm bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác, vì lợi ích chung của xã hội.
Phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền, tôn giáo thế giới do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biên soạn ra đời từ thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945-1991). Còn nhớ Tổng thống J.Carter (nhiệm kỳ 1977-1981) là người khởi xướng việc biên soạn và công bố “phúc trình”. Theo ông, đây là việc làm cần thiết để bảo vệ các “giá trị Mỹ”, ông đã kiến nghị nghị viện Hoa Kỳ thông qua đạo luật về việc hằng năm Hoa Kỳ công bố hai phúc trình trên. Kiến nghị của ông đã được nghị viện thông qua và giao cho Bộ Ngoại giao biên soạn. Còn nhớ trong thời gian này, thế giới chia thành hai hệ thống xã hội: Xã hội XHCN và tư bản chủ nghĩa. Hai hệ thống xã hội không chỉ khác biệt về hệ tư tưởng mà còn đối đầu với nhau về chính trị. Trong thời kỳ "Chiến tranh lạnh", Hoa Kỳ đã đồng thời dùng chiến tranh xâm lược nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam (thời kỳ 1954-1975) và thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng phương pháp “thẩm thấu giá trị Mỹ” vào các chế độ, nhà nước xã hội XHCN, nói cách khác là chiến lược can thiệp, lật đổ, chuyển hóa các nước này sang mô hình chính trị đa nguyên.
Tình hình ngày nay đã khác, các quốc gia với hệ tư tưởng, thể chế chính trị xã hội khác nhau, không còn đối lập, đối đầu nhau nữa. Hoa Kỳ và Việt Nam ngày nay trở thành đối tác toàn diện. Văn kiện Đối tác toàn diện được nguyên thủ hai quốc gia ký kết năm 2013 ghi nhận nguyên tắc các bên tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và thể chế chính trị của nhau... Vì thế, Hoa Kỳ không nên dùng "phúc trình" để can thiệp vào công việc của Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có "kênh" đối thoại về nhân quyền… những khác biệt, khoảng cách nào đó do quan niệm về giá trị khác nhau thì hai bên có thể học hỏi lẫn nhau, rút ngắn khoảng cách thông qua đối thoại. Đây là phương thức tốt nhất, văn minh nhất, thay vì áp đặt quan điểm của mình cho một quốc gia, dân tộc khác.
Thiết nghĩ những người soạn thảo và thông qua Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 hãy từ bỏ tư duy chính trị cổ hủ, lạc hậu của thời kỳ Chiến tranh lạnh, không nên dùng cái gọi là “phúc trình thường niên” để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, điều này đi ngược lại lợi ích và làm tổn thương đến quan hệ giữa hai nước.

KIỂM SOÁT TÔN GIÁO LÀ THUỘC "QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT"

Việc nhà nước có hay không kiểm soát các tổ chức tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự quyết”. Tuy nhiên, nếu một quốc gia nào đó (được cho là) không kiểm soát tín ngưỡng, tôn giáo thì xã hội thường phải trả giá đắt. Chẳng hạn, cảnh sát Hoa Kỳ (8-4-2008) đã giải cứu hơn 400 trẻ em thuộc giáo phái đa thê ở bang Texas, Mỹ. Giáo phái này do Warren Jeffs cầm đầu. Y có đến 70 vợ. Trong đời sống của các gia đình giáo phái đa thê trẻ em là những nạn nhân đầu tiên. Trong nhiều gia đình giáo phái đa thê, có không ít trẻ em trai, trẻ em gái bị lạm dụng tình dục, có không ít bé gái đã trở thành “bà mẹ” ở tuổi "teen” và không biết cha của chúng là ai... Hay ở Nhật Bản, tháng 3-1995, giáo phái Aum đã xả chất độc thần kinh sarin tấn công đường tàu điện ngầm ở thủ đô Tokyo, gây ra thảm kịch lớn. Phải chăng, đây là “quyền tự do tôn giáo” phải  bảo vệ, phải bảo đảm mà Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 Hoa Kỳ vừa công bố? Việc Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tôn giáo phải đăng ký mới có quyền hoạt động và mới được Nhà nước bảo hộ (mà phúc trình phản đối) đơn giản chỉ nhằm bảo vệ quyền của các tôn giáo và bảo vệ trật tự an toàn xã hội là đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với “Quyền dân tộc tự quyết”.
Ngay sau khi phúc trình thường niên nói trên công bố, nhiều quốc gia bày tỏ thái độ bất bình về việc Hoa Kỳ can thiệp vào công việc nội bộ của mình. Không ít quốc gia cho rằng: Thay vì tán phát “những tài liệu vô căn cứ”, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, Hoa Kỳ hãy “lo chuyện nội bộ của mình đi”. Chẳng hạn như tình trạng kỳ thị với người da màu, hay những vụ thảm sát mà dường như chẳng có tháng nào không xảy ra ở Hoa Kỳ, thậm chí thảm sát còn diễn ra ngay ở trường học, trong nhà hát...

HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM LUÔN TƯƠNG THÍCH VỚI LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Quan điểm tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (năm 1930) cho đến nay về tín ngưỡng, tôn giáo là nhất quán. Sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Các Hiến pháp Việt Nam, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, đến Hiến pháp 1992 (được sửa đổi vào năm 2001), 2013 đều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 24 (Hiến pháp 2013) quy định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Thể chế hóa Hiến pháp 2013, năm 2016, Quốc hội thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo. So với các quy định của pháp luật trước đây, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 có nhiều điểm mới, bảo đảm tốt hơn quyền của công dân và của mọi người trên lĩnh vực tôn giáo. Chẳng hạn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng thành “quyền của mọi người” chứ không riêng của công dân Việt Nam. Nói một cách cụ thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 còn bảo đảm quyền tín ngưỡng, tôn giáo đối với cả những người đã bị tước đi một phần quyền công dân-“Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Cũng như pháp luật về quyền con người, người hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở tất cả quốc gia, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 quy định người hưởng thụ quyền có nghĩa vụ nhất định. Điều 5 (Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016) quy định: “Các hành vi bị nghiêm cấm: (1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; (2). Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Những quy định này hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, năm 1966 quy định: “(1). Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. … Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy, hoàn toàn không có chuyện pháp luật Việt Nam về tôn giáo “với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”... như Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 của Hoa Kỳ viết.

NHẬN BIẾT LUẬN ĐIỂM SAI TRÁI :“PHẢI XÓA BỎ CHẾ ĐỘ MỘT ĐẢNG, LẬP ĐA ĐẢNG MỚI KHẮC PHỤC ĐƯỢC CÁC CĂN BỆNH THAM NHŨNG, QUAN LIÊU...”

Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định tại Điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước và xã hội là ý nguyện của toàn dân. Lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX đã chứng minh điều đó. Thắng lợi của công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, được nhân dân ghi nhận, đồng tình. Đến nay, tuy còn không ít khó khăn trong quá trình xây dựng kinh tế của đất nước, nhưng bước đầu chúng ta đã kiềm chế được lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, kinh tế tiếp tục phát triển tăng trưởng, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện; chính trị ổn định; quan hệ đối ngoại mở rộng. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đó là xu hướng chủ đạo trong quá trình phát triển của đất nước. Không có Đảng Cộng sản lãnh đạo, sẽ không có thành tựu vĩ đại đó.
Sự khủng hoảng triền miên của các đảng phái chính trị phương Tây hay gần đây ở một số nước khu vực Đông Nam Á đang là một thực tế sinh động bác bỏ luận điểm “phải có đa đảng thì Việt Nam mới phát triển, vượt qua tụt hậu”. Trong thời đại ngày nay, đảng nào chỉ đại diện hạn hẹp cho lợi ích của thiểu số giàu có, thì dù có thích ứng đến đâu cũng khó tồn tại bền vững được. Qua khảo sát ở Thụy Điển cho thấy, Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển nắm quyền từ năm 1932; sau 44 năm đưa Thụy Điển từ một nước lạc hậu, nghèo nàn trở thành một nước phát triển. Nhưng tại sao năm 1976, Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển thất cử, Đảng khác lên thay; từ đó đến nay, có lúc giành được quyền, có lúc lại mất quyền lãnh đạo. Một số nhà xã hội phân tích: Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển muốn điều tiết để bảo đảm công bằng xã hội, nhưng bằng điều tiết phân phối, chứ không điều tiết sở hữu... Đại sứ Thụy Điển tại Liên hợp quốc khi Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển thất cử nói: “Thụy Điển cần Ericson, nhưng Ericson không cần Thụy Điển” (Ericson là tập đoàn lớn nhất của Thụy Điển). Ở đây, tư hữu là chủ đạo, mấy nhà tư bản kếch sù nắm quyền chủ đạo. Chính phủ, quốc gia cần họ, chứ họ không cần chính phủ. Chúng ta không bao giờ quên thực tế này.Về cái gọi là “đa nguyên mới có dân chủ”, chúng ta chỉ rõ, không có nước nào, kể cả những nước tự cho mình là dân chủ nhất, lại dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Cần thấy rõ rằng, những người phê phán chế độ một đảng ở nước ta thực ra là muốn hợp pháp hóa vai trò của các lực lượng chính trị phản động đã bị nhân dân ta đánh đổ.Nghiên cứu về chế độ một đảng ở Việt Nam, tác giả Dam Fforde viết: “So với các chế độ cộng sản cùng đang cải cách khác, Việt Nam có được những lợi thế chính trị quan trọng. Lên nắm quyền qua chiến tranh và cách mạng chứ không phải do lực lượng bên ngoài áp đặt. Năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu một hệ thống chính trị nhất thể với một quyền lực và tính hợp pháp không bị ai thách thức.
Sau ba thập kỷ chiến tranh, Đảng đã loại mọi đối thủ và khôi phục được Việt Nam thành một nước độc lập và thống nhất. Ban lãnh đạo của Đảng nằm trong số ổn định và thật sự nhất trí trong thế giới cộng sản, và đảng viên của Đảng bao gồm một phần lớn những người tận tụy và yêu nước nhất ở Việt Nam. Hơn nữa đó là một đảng mà sự tồn vong và thắng lợi cuối cùng đã dựa vào việc huy động sự ủng hộ của quần chúng... Ở Việt Nam trong tương lai khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam... Hơn nữa, Đảng phải tăng cường hệ thống một đảng không chỉ vì lý do tư tưởng mà còn hầu hết đảng viên đều tin rằng đường lối chính trị cạnh tranh sẽ làm trầm trọng thêm những chia rẽ giữa các vùng và làm mất ổn định chính trị”.  


BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CHO QUÂN NHÂN, GÓP PHẦN TÍCH CỰC TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Bồi dưỡng phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức quân nhân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh các biện pháp nâng cao nhận thức của người quân nhân về đại đoàn kết toàn dân tộc, về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần quan tâm giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của người quân nhân, tình hình nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội, của đơn vị và địa phương. Bồi dưỡng cho người quân nhân có mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tinh thần sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mg Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nâng cao đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách, Hồ Chí Minh; ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng và những biểu hiện tiêu cực khác. Rèn luyện cho quân nhân tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Xây dựng ý thức, hành vi chấp hành kỷ luật, pháp luật. Tăng cường đoàn kết quân nhân, quân dân.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, tri thức toàn diện, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.Bồi dưỡng cho quân nhân nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, tiến hành các nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, năng lực ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại về thực tiễn sản xuất, đời sống, khả năng truyền thụ tri thức, kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội cho nhân dân, có năng lực hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, tham mưu, tư vấn, đề xuất tổ chức và hoạt động thực tiễn nhằm tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bồi dưỡng cho quân nhân có kỹ năng tiến hành công tác dân vận, tuyên truyền vận động nhân dân, tiến hành các hoạt động xã hội, công tác thanh niên, phụ nữ, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao để tập hợp quần chúng và phát động phong trào thi đua ử đơn vị cơ sở.
Bồi dưỡng cho quân nhân biết nói tiếng các dân tộc thiểu số, biết phong tục tập quán, truyền thống, bản sắc, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đóng quân. Có hiểu biết về tín ngưỡng tôn giáo, đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo, tình hình sinh hoạt của các tôn giáo ở địa phương, làm tốt công tác vận động các tín đồ tôn giáo thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, Nhà nước, xây dựng và tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, chống việc lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Bồi dưỡng và hình thành tác phong công tác cho quân nhân, như bám sát cơ sở, gần gũi nhân dân, lắng nghe, học tập nhân dân, đồng thời biết vận động, tập hợp, hướng dẫn nhân dân, biết thuyết phục nhân dân hăng hái tham gia hoạt động cách mạng.
Bồi dưỡng, nâng cao năng lực đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.Xây dựng, tổ chức đội ngũ cán bộ chính trị, đội ngũ cán bộ tuyên huấn, cán bộ khoa học, các giảng viên trong quân đội có khả năng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Muốn vậy phải chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, để họ có tính nhạy bén chính trị, năng lực tư duy, khả năng khái quát, phương pháp đấu tranh và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải quy tụ được đội ngũ cán bộ, các nhà khoa học, các giảng viên có trình độ, nhiệt huyết chuyên sâu trên các lĩnh vực làm nòng cốt thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ tham gia đấu tranh trên mặt trận này. Thành lập các nhóm, các bộ phận nghiên cứu trên các lĩnh vực: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, pháp luật, kinh tế, quản lý xã hội…Thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng luyện dũng khí, thái độ kiên quyết, quả cảm, không khoan nhượng, nhưng luôn tỉnh táo, sáng suốt cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, CỦA CÁC LỰC LƯỢNG ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch là yếu tố cơ bản bảo đảm sự thắng lợi của cuộc đấu tranh này. Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc chống Việt Nam của các thế lực thù địch là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta, là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam, không phân biệt, giai cấp, dân tộc, tôn giáo trẻ, già, trai, gái, miền xuôi, miền ngược. Cuộc đấu tranh này đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng, các chủ thể, tất cả các dân tộc, của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Dù là đồng bào dân tộc đông người hay ít người, sinh sống ở miền núi hay miền xuôi, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội có sự khác nhau, nhưng trong lịch sử đồng bào các dân tộc luôn đồng cam cộng khổ, chung lưng đấu cật xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, hun đúc nên phẩm chất cao quý của con người Việt Nam. Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đã xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú và độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. Truyền thống quý báu này cần được phát huy hơn nữa trong tình hình mới.
Phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn và hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.Vấn đề này rất quan trọng trong phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc hiện nay là phải phát huy được vai trò to lớn của đồng bào các dân tộc trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Cần nhận thức rõ rằng, cuộc đấu tranh chống âm mưu của các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng chỉ thu được thắng lợi khi mà quần chúng nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số nhận thức rõ bản chất sai trái của âm mưu thủ đoạn đó, ủng hộ và cùng tham gia với các cơ quan chức năng của nhà nước, địa phương vạch mặt, chỉ tên bọn phản động, phê phán, đấu tranh với những cá nhân, tổ chức có biểu hiện sai trái trong chấp hành chính sách dân tộc, hoặc lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng.
Để phát huy được điều này, ngoài việc giáo dục cho đồng bào các dân tộc còn phải đồng bào thực hiện tốt công tác dân tộc trên từng địa bàn sinh sống, hăng hái lao động sản xuất, phát triển kinh tế, nêu cao ý thức, trách nhiệm công dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Yêu cầu đặt ra trước hết, cần phải vạch rõ tính chất phản động, thù địch của chúng. Vạch rõ tính chất phản động, thù địch của các thế lực thù địch trong thực hiện âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Đây là vấn đề rất quan trọng đòi hỏi phải đấu tranh thường xuyên, kiên quyết, toàn diện, đồng bộ, có chất lượng hiệu quả ngày càng cao.
Ở Việt nam quyền của các dân tộc được quy định rõ trong Hiến pháp, được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, điều này đã được cả cộng đồng quốc tế ghi nhận. Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc luôn sống hòa đồng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng bào các dân tộc luôn đoàn kết gắn bố cũng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không phân biệt đối xử, không có chuyện dân tộc thiểu số “bị chèn ép”, “bị dồn vào vùng sâu vùng xa”, “mất kế sinh nhai” như các thế lực thù địch cố tình bịa đặt, xuyên tạc.
Vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng và khuếch đại, thổi phồng những khuyết điểm, thiếu sót trong thực hiện một số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong xử lý một số tình huống cụ thể, phê phán sự quản lý, điều hành của Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số. Âm mưu của chúng là làm cho mọi người lầm tưởng các khuyết điểm, hạn chế thuộc về bản chất của chế độ, không thể sửa chữa; và theo chúng, muốn sửa chữa được thì chỉ có thay đổi chế độ, rồi “khuyên” các dân tộc không đi theo Đảng nữa! chỉ rõ những tư tưởng, thủ đoạn kích động tư tưởng chống đối trong đồng bào; thủ đoạn khai thác những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, để kích động đồng bào khiếu kiện, biểu tình, phá rối an ninh, trật tự xã hội. vạch rõ tính chất thù địch của các âm mưu, thủ đoạn chống phá, đẻ làm cho đồng bào không thể lầm tưởng rằng đó là những hành động “vì dân”, “vì nước” mất cảnh giác trước mưu đồ thực sự của chúng.
Một điều quan trong nữa là phải làm cho đồng bào hiểu được những hạn chế, khuyết điểm trang quá trình xây dựng đất nước là có thực, đặc biệt là khâu tổ chức thực hiện, nhưng đó là những hạn chế, khuyết điểm cần phải được nhận thức đúng và khắc phục kịp thời, có hiệu quả trong quá trình phát triển. Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm nhận khuyết điểm, thiếu sót, đã và đang tích cực sửa chữa khắc phục, có nhiều chủ trương, giải pháp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, không có sự phân biệt đối xử. Chỉ rõ những hành động lợi dụng hạn chế, khuyết điểm của các cấp chính quyền trong thực hiện xuyên tạc sự thật, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc là hành động của những kẻ “đục nước béo cò”, làm hại đến sự ổn định chính trị - xã hội và khối đoàn kết thống nhất toàn dân tộc, đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đồng bào các dân tộc; không phải vì các khuyết điểm hạn chế nào đó; không phải sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; cũng không phải việc giải quyết chưa tốt một vụ việc cụ thể nào đó, một vấn đề dân tộc cụ thể nào đó mà có thể lấy cớ chống đối Đảng và Nhà nước, đòi ky khai.

ĐẨY MẠNH TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC, NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO TOÀN XÃ HỘI, TẬP TRUNG VÀO ĐỐI TƯỢNG LÀ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Muốn làm phá sản, thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, vấn đề quan trọng trước tiên là phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với vấn đề này. Đảng ta nhận định: “Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc nhận thức đó còn hạn chế hơn. Vì thế, vấn đề quan trọng đầu tiên vẫn là nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, các lực lượng của đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi giai đoạn khác nhau, yêu cầu, của việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm có sự khác nhau, với những biện pháp cụ thể khác nhau. Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao nhận thức trách nhiệm của toàn xã hội với âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cần thực hiện tốt một số vấn đề cụ thể sau:
Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc.Cần phải làm cho mọi tầng lớp nhân dân và cán bộ, đảng viên đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số thấy rõ tính chất nguy hiểm và tác hại của các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự ổn định và phát triển đất nước, đối với cuộc sống của chính đồng bào, đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.
Yêu cầu quan trọng đặt ra hiện nay là, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, hệ thống chính trị tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, cả ở vùng đồng bào dân tộc đều phải nhận thức đúng, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch; thấy rõ tính chất nguy hiểm, những tác hại từ âm mưu đó đối với khối đoàn kết thống nhất dân tộc và sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với cuộc sống của nhân dân ta, đối với chính cuộc sống của đồng bào dân tộc. Trong đó cần tập trung vào các đối tượng là cán bộ, đảng viên và đồng bào dân tộc thiểu số.
Cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm chô toàn xã hội thấy rõ, trong quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi đoàn kết là vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược, làm nên sức mạnh to lớn cho cách mạng.

THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CHO ĐỒNG BÀO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ

Thực tế cho thấy, dù có thực hiện nhiều nội dung, giải pháp đấu tranh chống âm mưu, thủ đọn lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch như thế nào, nhưng cuộc đấu tranh ấy không thể đạt được hiệu quả mong muốn, nếu chúng ta không quan tâm đứng mức và không thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa là mục đích, yêu cầu, vừa là giải pháp đặc biệt quan trọng, tạo nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc và điều kiện vật chất, tinh thần cho cuộc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân tộc và sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong tình hình mới, trước những diễn biến phức tạp, khó lường và những khó khăn của tình hình thế giới, của nền kinh tế thế giới và đất nước, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phấn đấu “sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Mục tiêu của sự phát triển ấy cũng chính là vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó thực sự là việc làm “có lợi cho dân”, nhất thiết chúng ta phải làm và thực hiện thật tốt, phải chú trọng cả mục tiêu phát triển kinh tế lẫn mục tiêu phát triển xã hội.

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN THEO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH PHẢI XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân trái với chủ nghĩa tập thể và cũng chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng. Theo Người: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là “đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình…”. Còn chủ nghĩa cá nhân trái ngược hoàn toàn với đạo đức cách mạng, “họ yêu cầu hưởng thụ, yêu cầu nghỉ ngơi, họ muốn lựa chọn công tác theo ý thích cá nhân mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó cho họ. Họ muốn địa vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng”. Cho nên, đồng thời với xây dựng đạo đức cách mạng phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì, đạo đức là cái “gốc”, cái “nền tảng” của người cách mạng. Muốn làm cách mạng, người cách mạng phải có cái tâm, cái đức trong sáng, nếu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, không làm nổi việc gì. Muốn có đạo đức cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân như hai mặt đối lập trong nhân cách của người cách mạng luôn đấu tranh loại trừ, phủ định nhau và chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nếu mỗi người, mỗi cán bộ, đảng viên mà sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ phạm nhiều sai lầm, mất tư cách đạo đức cách mạng; làm thoái hóa, biến chất, làm hỏng sự nghiệp cách mạng. Do vậy, người cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình.

NHẬN DIỆN BẢN CHẤT CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN THEO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp, nhanh chóng khôn lường của tình hình thế giới, những vấn đề thời đại tác động, ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến mọi mặt đời sống xã hội nước ta, trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà mặt trái của nó là điều kiện, là “mảnh đất màu mỡ” cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở. Nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn những quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và chống chủ nghĩa cá nhân là cơ sở khoa học giúp chúng ta đấu tranh có hiệu quả đối với chủ nghĩa cá nhân đồng thời giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta hiện nay, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Chủ nghĩa cá nhân nó nằm ngay trong lòng mỗi con người “ai cũng có một ít”, là kẻ thù bên trong, là giặc “nội xâm”; là kẻ thù “vô hình” nhưng lại biểu hiện trong tư tưởng, hành động của mỗi người. Có lúc Người cho đó là “địch nhân” ở trong lòng mà mỗi người phải chiến thắng “nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển”. Cho nên, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh nội tại giữa cái “thiện” và cái “ác”; giữa cái “đúng” và cái “sai”; giữa cái “tiến bộ” và cái “thoái bộ”. Người viết: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”, “làm cho phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”.
Theo Hồ Chí Minh “chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể”, “chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng”. Nếu chủ nghĩa tập thể là biểu hiện ở phương châm sống mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi người. Mọi lợi ích luôn được kết hợp một cách hài hòa, luôn biết đặt lợi ích của Đảng, cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết… thì trái lại chủ nghĩa cá nhân là “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Cho nên, muốn có chủ nghĩa xã hội phải, muốn có chủ nghĩa tập thể phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người viết: “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018

ĐẤU TRANH NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN VỚI LỢI ÍCH CÁ NHÂN THEO QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH


Hiện nay chủ nghĩa các nhân đang là vấn đề nổi nên trong xã hội khá phức tạp, lợi dụng vấn đề lợi ích quốc gia dân tộc, vấn đề mục tiêu cách mạng hiện nay là dân giầu, nước mạnh. Các thế lực phản động, bất mãn chế độ đang thổi phồng lợi ích cá nhân chính đáng, sang thành chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi vô tổ chức. Bản chất chủ nghĩa các nhân là mưu cầu lợi ích cho bản thân bằng mọi cách, từ đó dẫn đến các việc làm sai trái vi phạm nguyên tắc, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, cao hơn nữa là dẫn đến suy thóa về tư tưởng, chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đề nhận diện phân biệt chủ nghĩa các nhân với lợi ích các nhân, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở những người cách mạng phải biết phân biệt chủ nghĩa cá nhân với lợi ích chính đáng của cá nhân. Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”… Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”. Bởi vì, mỗi người đều có tính cách, sở trường, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình, lợi ích của cá nhân luôn gắn liền với lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể; chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy sở trường, năng lực của mình, chăm lo lợi ích chính đáng của cá nhân góp phần xây dựng cho lợi ích tập thể. Chỉ có điều khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể thì đòi hỏi người cách mạng phải biết đặt lợi ích của tập thể lên trên, lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích tập thể. Thật có lý khi Đảng ta khẳng định phải giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích: cá nhân - tập thể - xã hội; phải thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó coi trọng lợi ích chính đáng của người lao động, “khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”. Thực chất đây là quan điểm của Đảng để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chống chủ nghĩa cá nhân và khuyến khích, quan tâm, chăm lo đến lợi ích chính đáng của cá nhân.