Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM


Nói đến vị thế của người phụ nữ trong gia đình gia trưởng không thể không đề cập đến nguồn gốc tạo ra những quan hệ thiếu bình đẳng của gia đình Việt Nam truyền thống, trong đó yếu tố văn hóa là nguyên nhân căn bản hình thành lối sống, cách ứng xử, quan hệ giữa các thành viên gia đình, đặc biệt là quan hệ đối với phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Có thể hiểu khái niệm và các đặc trưng của văn hóa gia đình như sau:
“Văn hóa gia đình là hệ thống các giá trị, chuẩn mực được thừa nhận nhằm tạo ra phương thức ứng xử trong quan hệ giữa các thành viên gia đình và quan hệ với xã hội, môi trường”.
- Văn hóa gia đình được hình thành có chọn lọc, được trải nghiệm, lưu truyền và được bổ sung qua các thế hệ;
- Văn hóa gia đình là sự biểu đạt trung thực nhất bản sắc văn hóa dân tộc.

Sự tồn tại lâu dài của Gia đình Việt Nam truyền thống:

Người Việt Nam từ xa xưa vẫn tôn vinh triết lý sống, "an bần lạc đạo" (chấp nhận sống nghèo, mà giữ lấy cái đạo làm người), nghĩa là vợ chồng cùng nhau thỏa mãn sống trong cảnh "một túp lều tranh với hai trái tim vàng". Do nhận thức còn hạn chế và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, các triều đại phong kiến dựa vào triết lý sống này để đưa ra những chính sách cai quản đất nước theo chế độ khép kín kiểu "bế quan tỏa cảng", lấy "nông vi bản" (nghề trồng lúa nước làm căn bản) để phát triển kinh tế và duy trì văn hóa làng xã làm nền tảng cho sự ổn định xã hội. Cho đến ngày nay, tư duy người Việt vẫn coi gia đình không chỉ gồm những người có liên kết với nhau bằng huyết thống (cha con, anh chị em) và nghĩa tình (vợ chồng, con nuôi, bố mẹ nuôi) mà còn có sự hiện diện vô hình của tổ tiên, của những người ruột thịt đã khuất nhưng vẫn thường xuyên tham dự vào mọi sinh hoạt gia đình như một thành viên quan trọng, gần gũi mà thiêng liêng, có vai trò rất lớn đối với đời sống tinh thầncủa các thành viên khác).

Vị trí địa lý đặc thù tạo cho dân tộc Việt Nam những đợt tiếp xúc, giao lưu, kể cả các cuộc xâm lược từ bên ngoài đã làm nên diện mạo đời sống văn hóa của dân tộc có nhiều biến động trong lịch sử. Văn hóa và triết lý Phật giáo bằng con đường từ Ấn Độ được người Việt Nam tiếp cận từ rất sớm và đã mau chóng đi vào đời sống của tầng lớp bình dân trong không gian văn hóa làng xã một cách hồn nhiên, hòa bình. Tư tưởng nhà Phật rất dễ đi vào lòng người và được cảm nhận, tiếp biến một cách sâu sắc, nội dung thuyết giáo nhà Phật được biểu hiện một cách tự nhiên qua mọi lề thói, nếp sống của các thành viên gia đình (theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp). Chính vì thế, gia đình truyền thống của người Việt đã sớm hình thành Đạo thờ Mẫu và Đạo thờ cúng tổ tiên. Tiếp theo sau là sự ngự trị của văn hóa Hán – Nho, sản phẩm tinh thần có sức mạnh và là trợ thủ đắc lực cho chế độ quân chủ trong nền kinh tế tự cung tự cấp của xã hội nông nghiệp, Nho giáo rất thích hợp với giai cấp thống trị trong việc áp đặt và duy trì các chính sách “thủ cựu” vào đời sống văn hóa – xã hội của Việt nam qua nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, nho giáo cũng đã có những đóng góp quan trọng trong vấn đề giáo dục con người với cái gốc xuất phát từ “giáo dục gia đình” dựa trên những định chế cụ thể, mang tính thiết thực trong đời sống hàng ngày, vì thế nhiều nội dung luân lí của nho giáo vẫn còn giá trị trong đời sống hiện đại và được nhiều nước Châu Á chọn lọc khai thác như Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...

Ngày nay, vẫn còn trên 70% người dân Việt Nam làm nghề nông và vẫn sống ở nông thôn, tuy kiểu gia mở rộng (từ 3 thế hệ) không chiếm tỷ lệ đa số như trước đây, nhưng lối sống và những phong tục, tập quán dựa trên mối liên hệ huyết thống, từ trực hệ với ông bà đến quan hệ dòng họ (cùng một ông tổ sinh ra) và rộng hơn nữa là qua hệ làng xã, cộng đồng dân tộc (đại gia đình theo nghĩa rộng nhất) vẫn được duy trì. Sự tồn tại của tổ chức gia đình mở rộng với những qui định ràng buộc chặt chẽ theo dòng họ và bị chi phối bởi chế độ “gia trưởng” ngày nay không còn phù hợp với cuộc sống công nghiệp; đây là mâu thuẫn ẩn chứa nhiều yếu tố tiêu cực, trở thành lực cản trước sự tiến bộ xã hội. Điều này cũng giải thích được lý do mặc dù vấn đề bình đẳng giới và không bạo hành phụ nữ được đảm bảo trong luật pháp Việt Nam, nhưng hiện tượng bất bình đẳng và bạo lực vẫn tồn tại, thậm chí còn đang có chiều hướng gia tăng. Vì ảnh hưởng của lối sống kiểu gia đình truyền thống nên trong nhà có xảy ra bạo lực hay các hành vi thiếu bình đẳng thì các thành viên thường dấu kín, không nói với cha mẹ, bạn bè, không thông báo cho chính quyền địa phương với lối nghĩ “không muốn vạch áo cho người xem lưng” .

Phụ nữ Việt Nam trong gia đình truyền thống:

Theo tư tưởng Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè; năm mối quan hệ này phản ánh hiện thực hai mặt của cuộc sống là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp (họ tộc) và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ đó là những qui định giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện. Quan niệm về một gia đình có trật tự, kỷ cương lại càng trở nên chặt chẽ và khắc nghiệt hơn, trong đó quyền hành của người cha, người chồng là tuyệt đối, vị thế của người phụ nữ, người vợ rất hạn chế.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị chèn ép theo những chế ước hết sức ngặt nghèo, một trong các đạo qui định người phụ nữ phải tuân thủ là “Đạo Tam tòng - Tứ Đức”. Tam tòng là tại gia tòng Phụ; xuất giá Tòng Phu; Phu tử tòng Tử (con gái còn ở trong gia đình  phải nghe theo Cha, đi lấy chồng phải phụ thuộc vào Nhà Chồng, khi Chồng chết phải ở vậy và phụ thuộc vào người Con Trai). Theo Hán ngữ, chữ Tử nghĩa là con nói chung, nhưng trong Đạo Tam tòng, người con gái không được xếp ứng với nghĩa là con trong trường hợp này (Phu tử tòng Tử chỉ con trai) ; cách ứng xử như vậy đủ nói lên sự bất bình đẳng đối với phụ nữ trong xã hội phong kiến; ngày nay hiện tượng này tồn tại không nhiều nhưng vẫn tiềm ẩn trong ý thức của các thệ hệ còn ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Tứ Đức là Công – Dung – Ngôn – Hạnh; đây là 04 đức tính thiết yếu phải được dạy và học - hành đối với phụ nữ ngay từ khi còn nhỏ ở gia đình. Thực hành tứ đức có mặt tích cực là giúp người phụ nữ chăm chỉ và khéo léo trong lao động (công); biết giữ gìn thân thể, vẻ đẹp vốn có (dung); biết cách ứng xử giao tiếp qua ngôn ngữ, cử chỉ “lời ăn tiếng nói” (ngôn); và giữ được tư cách, đạo đức cần có ở người phụ nữ (hạnh). Mục đích của giáo dục Công – Dung – Ngôn – Hạnh trong xã hội cũ chủ yếu nhằm trang bị cho phụ nữ những kiến thức, kỹ năng hướng tới việc thực hiện bổn phận làm vợ, làm dâu khi lấy chồng. Nếu lược bỏ đi những mặt hạn chế ở tính mục đích và phương pháp giáo dục ngặt nghèo ở chế độ cũ thì Tứ Đức vẫn còn tác dụng tốt, duy trì được tố chất "nữ tính" của người phụ nữ Việt Nam.

Mặt hạn chế trong nội dung giáo dục của Nho giáo nêu trên tạo ra một xã hội với những con người hoặc là bảo thủ, trì trệ, lạc hậu hoặc là nhẫn nhục, cam chịu và như vậy khó mà thi hành được sự bình đẳng trong quan hệ giữa phụ nữ và nam giới. Những quan hệ "ấm cúng" kiểu gia đình gia trưởng là tác nhân kìm hãm năng lực phát triển của con người cá nhân cả về trí tuệ và sự tham gia công việc xã hội; nó góp phần vào việc duy trì sự tồn tại lâu dài của kiểu gia đình truyền thống.

Bình đẳng giới trong cuộc sống gia đình thời kỳ công nghiệp hóa.
Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa tạo cho gia đình Việt Nam điều kiện tiếp thu những giá trị văn hóa mới của xã hội hiện đại, sự biến đổi về quy mô, cơ cấu và chức năng của gia đình trong cuộc sống công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực ở một số giá trị văn hóa gia đình; nhận thức về tình yêu, hôn nhân có nhiều biến đổi trong những năm gần đây, tuổi kết hôn lần đầu của thanh niên, nhất là ở phụ nữ đã được nâng cao, làm cho thiếu niên có nhiều cơ hội và thời gian học tập, tích lũy để chuẩn bị cho cuộc sống gia đình tương lai.Tỉ lệ số phụ nữ được thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế, việc làm và được thụ hưởng thành quả lao động ngày càng cao; tự do trong tình yêu và hôn nhân được tôn trọng trên cơ sở bình đẳng giới và được pháp luật bảo vệ, góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Mặc dù ngày càng có nhiều công cụ và các điều kiện giúp con người giảm nhẹ sức lao động, nhưng người phụ nữ ngoài việc tham gia công việc, đóng góp ngày càng nhiều vào nguồn thu nhập, vẫn phải đảm nhiệm hầu hết các công việc trong cuộc sống gia đình, do vậy họ có ít thời gian chăm sóc bản thân, tham gia công tác xã hội và hoạt động vui chơi giải trí. Một nghịch lý đang tồn tại là việc nội trợ, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên gia đình của phụ nữ thường bị coi là không có giá trị kinh tế, điều này được bộc lộ rõ chỉ từ khi xã hội thừa nhận sự hiện diện của "dịch vụ giúp việc gia đình" (ô shin). Ngoài ra, phụ nữ còn là nạn nhân chủ yếu của sự phân biệt đối xử, phải gánh chịu những lạm dụng về thể xác, tinh thần từ phía người đàn ông.

Những quan niệm và hành vi không đúng đắn về tình yêu, tình dục, hôn nhân và gia đình được xuất hiện, phổ biến hoặc đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng internet ở tất cả các quốc gia có điểm xuất phát là đề cao, coi trọng lối sống thực dụng cá nhân, chối bỏ các chuẩn mực tốt đẹp của gia đình trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, điều này làm cho đời sống gia đình hiện nay ẩn chứa nhiều mâu thuẫn với mức độ ngày càng phức tạp và diễn biến dưới nhiều hình thức. Tình trạng ngoại tình, kết hôn bất hợp lý, bạo lực gia đình, ly thân, ly hôn đang có chiều hướng gia tăng mà nạn nhân trước hết và chủ yếu vẫn là phụ nữ và trẻ em gái; các kiểu sống gia đình không bình thường so với lối sống truyền thống đang nảy sinh và trở thành vấn đề xã hội nan giải như sống chung không kết hôn, không muốn sinh con, lối sống thử, sống độc thân hoặc kết hôn đồng tính mà hậu quả của nó để lại nhiều tiêu cực đối với việc ổn định thiết chế gia đình.

Tại các nước công nghiệp phát triển, các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trong cuộc sống gia đình không phải không có những vấn đề mâu thuẫn cần phải giải quyết cho hiện tại và trong tương lai:
Ở Mỹ vào những năm 1990, người dân đã phải lên tiếng về tình trạng là khi trẻ đi học về nhà, đã thưa dần những tiếng chào bố, hoặc chào mẹ vì tỉ lệ ly dị ngày càng cao; nam giới Hàn quốc hiện đang gặp khó khăn trong việc lập gia đình vì thiếu phụ nữ trong lứa tuổi kết hôn; vào khoảng năm 2020, Trung Quốc sẽ có tới 30 triệu thanh niên không lấy được vợ vì không có "đối tác", có nghĩa là tuổi trẻ khi đó sẽ gặp khủng hoảng trong việc tạo lập ra một thế hệ gia đình mới; trong khi đó các nhà quản lý và xã hội học khuyến cáo rằng không thể giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính của quốc gia bằng cách khuyến khích lấy vợ người nước ngoài một cách ồ ạt, thiếu thận trọng về các yếu tố văn hóa và thực hiện bình đẳng giới; hiện tại Phần Lan có đến 40% thanh niên sống độc thân, không lấy vợ, lấy chồng; điều này cho thấy khả năng tái tạo nguồn lao động trong tương lai sẽ bị gián đoạn và hậu quả để lại không chỉ dừng ở phạm vi một quốc gia; vì thế 50% trong tổng số hơn 5 triệu dân Phần Lan đang là lực lượng lao động để nuôi sống mình và duy trì đời sống xã hội; còn đất nước Nhật Bản rút ra được bài học kinh nghiệm muộn mằn là sau mấy chục năm thực hiện công nghiệp hóa thì cũng chính thời gian đó nước Nhật đã phá gần xong nền Văn hóa Dân tộc Phù tang.

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết các công ước quốc tế về thực hiện quyền phụ nữ và quyền trẻ em; việc đưa những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới vào gia đình ở một quốc gia vốn chịu ảnh hưởng của Nho giáo có thể được coi là một bước tiến bộ lớn, tạo điều kiện về mặt pháp lý để nâng cao vị trí và vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Đời sống xã hội ở thời kỳ công nghiệp và hậu công nghiệp đang vận động, biến đổi hết sức phức tạp và đa dạng theo chiều hướng: nhiều giá trị văn hóa gia đình truyền thống không còn phù hợp, trong khi những giá trị mới lại chưa được định hình; đây là mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết và là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý xã hội.
Việc kết hợp hài hòa các giá trị văn hóa truyền thống với các giá trị hiện đại trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa và chủ động giao lưu với bên ngoài là giải pháp tích cực đưa dân tộc Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức, khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội, và ở trong hoàn cảnh đó, phụ nữ Việt Nam mới hoàn toàn có quyền bình đẳng trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của gia đình, có cơ sở pháp lý để tự tin bước ra ngoài cánh cửa gia đình, tham gia và đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước./.

 Nguồn: phunu.hochiminhcity.gov.vn

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CHÂN CHÍNH


Nhân dân ta có một ý thức bảo vệ Tổ quốc cực kỳ sâu sắc đã trở thành truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, truyền thống đó được bắt nguồn từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của cha ông ta để lại. Truyền thống đó sẽ tiếp tục được giữ gìn và phát triển qua các thế hệ người Việt Nam đến muôn đời sau. Tuy nhiên ở từng thời kỳ lịch sử và từng con người cụ thể thì ý thức bảo vệ Tổ quốc cũng được thể hiện một cách khác nhau. Vậy thì ý thức bảo vệ Tổ quốc như thế nào, cách thể hiện ra sao để ý thức bảo vệ Tổ quốc đem lại hiệu quả nhất, mang lại những điều có lợi nhất cho quốc gia, dân tộc và phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân, phù hợp với xu thế của thời đại? Đây là vấn đề đặt ra mà chúng ta phải trả lời và thể hiện cho đúng.
Thời gian vừa qua nhân sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của nước ta và sự kiện các chết hàng loạt do ô nhiễm môi trường biển ở 4 tỉnh miền trung, nhiều người dân đã thể hiện rõ ý thức bảo vệ Tổ quốc của mình, đây là điều đáng mừng, đáng tự hào và đáng biểu dương. Sẽ tốt đẹp biết mấy nếu như ý thức đó của người dân được thể hiện một cách phù hợp, được tổ chức một cách chặt chẽ, và mang tính xây dựng cao. Tuy nhiên điều không mong muốn lại xảy ra, lợi dụng ý thức bảo vệ Tổ quốc chân chính đó của người dân một số phần tử xấu và nhiều kẻ quá khích đã kích động nhân dân thể hiện ý thức đó một cách thái quá, họ đã làm cho cuộc mít tình để phản đối trở thành bạo động thậm trí đốt phá, cướp bóc tài sản của các doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn chân chính tại nước ta. Sự việc đó đã làm phương hại đến hình ảnh của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vốn yêu chuộng hòa bình, luôn mong muốn hữu hảo, làm bạn với các nước để cùng nhau phát triển. Đồng thời còn làm cho đất nước phải chịu một tổn thất lớn vì phải đền bù những thiệt hại do chính người dân gây ra cho các doanh nghiệp nước ngoài đó.
 Điều rất may là Đảng, Nhà nước ta đã kịp thời có các giải pháp để làm dịu đi sức nóng của sự thể hiện ý thức bảo vệ Tổ quốc một cách thái quá của người dân. Đồng thời với đó là triển khai một loạt các biện pháp để tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và thể hiện ý thức bảo vệ Tổ quốc của mình một cách phù hợp để đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia, dân tộc.
Qua sự việc trên cho thấy nhân dân ta luôn có ý thức bảo vệ Tổ quốc rất cao, tuy nhiên để thể hiện một cách đúng đắn, phù hợp chân chính thì vẫn còn chưa đạt được. Điều này cho thấy mức độ hiểu biết của đại đa số nhân dân còn chưa cao, họ rất dễ bị lôi kéo, kích động trước những mưu đồ thâm độc của các thế lực thù địch. Có thể nói rằng những sự kiện không mong muốn vừa qua là cơ hội vàng cho chúng để thông qua đó gây nên những bất ổn trong nước, đồng thời khoét sâu vào mâu thuẫn giữa nước ta và Trung Quốc để sự khủng hoảng đó ngày càng tăng lên và người được lợi nhất trong sự kiện đó chính là các thế lực thù địch đối với chúng ta.

Hơn lúc nào hết trong điều kiện hiện nay mọi người dân Việt Nam cần phải thật sự bình tĩnh, nhìn nhận mọi sự kiện một cách rõ ràng và thể hiện ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của mình một cách đúng đắn để đem lại lợi ích tốt nhất cho quốc gia, dân tộc. Cả dân tộc ta phải thực sự đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam để bằng mọi giá giữ vững độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ, sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thông qua đó để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng không để mắc mưu kẻ thù mà gây hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc./ 

CÓ THỂ TIỆM TIẾN TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐƯỢC KHÔNG?


Hiện nay trên nhiều văn đàn, diễn đàn và các trang mạng xã hội có một số quan điểm, thậm chí có cả quan điểm của một số người là đảng viên, trí thức ở các trung tâm khoa học lớn, họ cho rằng: “Trên cơ sở sự phát triển của cách mạng khoa học, công nghệ, sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản và sự tham gia của một bộ phận công nhân vào quản lý sản xuất, kinh doanh thì chủ nghĩa tư bản sẽ dần tiệm tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không cần phải tiến hành đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội. Như vậy thế giới sẽ giữ được môi trường hòa bình để phát triển, sẽ không xảy ra đổ máu vô ích...”. Vậy một câu hỏi đặt ra là liệu điều đó có thể xảy ra không?
Là những người cộng sản hơn ai hết chúng ta đều có thể khẳng định rằng, điều đó sẽ không thể xảy ra. Khi đi vào nghiên cứu mổ sẻ và phân tích giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch trần bản chất của giai cấp tư sản, chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là chế độ mà lợi ích của chúng luôn gắn liền với sự áp bức, bóc lộ giai cấp công nhân, nhân dân lao động thông qua giá trị thặng dư. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã chỉ ra rằng với bản chất của giai cấp tư sản vì lợi nhuận của nó nó có thể làm tất cả bất chấp mọi thủ đoạn. Thực tế cũng đã chứng minh trong suốt quá trình hình thành và tồn tại, phát triển của giai cấp tư sản, chế độ tư bản thì luôn gắn liền với việc áp bức, bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Chủ nghĩa đế quốc vì lợi ích của mình chúng đã tiến hành những cuộc chiến tranh thế giới để mục đích phân chia thị trường gây ra bao đau khổ cho nhân dân lao động.
Mặc dù hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, chủ nghĩa tư bản có điều chỉnh thích nghi, một bộ phận công nhân ở một số nước tư bản có cổ phần được tham gia quản lý sản xuất, tuy nhiên khoa học càng phát triển thì mức độ bóc lột càng cao. Sự điều chỉnh thích nghi cho công nhân tham gia cổ phần và quản lý sản xuất chỉ là vỏ bọc để điều hòa mâu thuẫn giai cấp mà thôi. Tìm hiểu kỹ cho ta thấy tỷ lệ công nhân được tham gia cổ phần trong các doanh nghiệp của các nhà tư sản chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn so với khối tài sản kếch sù của các nhà tư sản. Do vậy mức độ được phân chia lợi nhuận mà người công nhân được hưởng cũng chỉ được một phần rất ít ỏi mà thôi. Theo nhiều số liệu nghiên cứu thì hiện nay ở các nước tư bản phát triển tỷ lệ người giàu chỉ chiếm 10% dân số nhưng đã chiếm đến 90% lượng tài sản. Ngược lại số đông 90% dân số kia chỉ sở hữu 10% lượng tài sản còn lại. Ở góc độ khác ở các nước tư bản phát triển lực lượng giữ vai trò lãnh đạo xã hội thì vẫn là giai cấp tư sản chứ không phải là các giai cấp khác.

Từ những phân tích một cách cơ bản khái quát trên cho thấy sẽ không bao giờ có sự tiệm tiến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các quan điểm đã nêu ở trên là hoàn toàn ngộ nhận, sai lầm, dù vô tình hay cố ý các quan điểm trên cũng tiếp tay cho sự thống trị của giai cấp tư sản bảo vệ cho sự tồn tại của chế độ tư bản. Đồng thời với đó là xóa nhòa mâu thuẫn giai cấp, làm triệt tiêu động lực đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong giai đoạn hiện nay./

NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI


Chủ nghĩa xã hội dân chủ là một trào lưu tư tưởng cải lương trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XIX. Cho đến nay, chủ nghĩa xã hội dân chủ vẫn tồn tại và một số đảng dân chủ (dân chủ xã hội) đang nắm chính quyền ở một số nước tư bản chủ nghĩa. Sau sự kiện khủng hoảng sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu, một số người cộng sản, một bộ phận công nhân, nhân dân lao động có những biểu hiện dao động về chủ nghĩa xã hội mácxít, muốn ngả sang chủ nghĩa xã hội dân chủ, họ lớn tiếng đòi hỏi Đảng ta phải nhanh chóng hoàn lương, từ bỏ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đi theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ. Vì vậy, vạch rõ bản chất và tính phản động của chủ nghĩa xã hội dân chủ là vấn đề cấp thiết trên mặt trận đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Trái lại, nó là sản phẩm nảy sinh từ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chủ nghĩa tư bản và cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản. Từ những năm 70 của thế kỷ XIX, những tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ đã được hình thành với tư cách là một học thuyết, một lý luận trong phong trào công nhân quốc tế. Tổ chức tiền thân của trào lưu dân chủ xã hội đó là Đảng xã hội - dân chủ Đức được thành lập vào năm 1875 trên cơ sở sáp nhập hai tổ chức là Đảng Aidơnach thành lập năm 1863 (do Bêben lãnh đạo) - theo quan điểm mácxít, và “Tổng công hội Đức” (do F.Látxan thành lập năm 1869) theo lập  trường cải lương. Tháng 5 năm 1923, Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa ra đời tại Hăm Buốc (Đức) trên cơ sở hợp nhất Quốc tế Luân Đôn và Quốc tế Hai Rưỡi. Cương lĩnh Gôta của Quốc tế công nhân xã hội chủ nghĩa đã bước đầu hình thành quan điểm, hệ thống lý luận của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Đến năm 1950, những người đứng đầu trào lưu dân chủ xã hội đã tổ chức Hội nghị xã hội chủ nghĩa quốc tế ở Đan Mạch. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên đại diện của các đảng xã hội dân chủ đã chính thức bàn đến khái niệm “chủ nghĩa xã hội dân chủ” cùng với những nguyên tắc cơ bản của nó và việc xây dựng lại một tổ chức quốc tế của phong trào dân chủ xã hội. Tháng 7 năm 1951, tại thành phố Frankfurt (Cộng hoà Liên bang Đức) đã diễn ra Đại hội thành lập tổ chức quốc tế mới của các đảng dân chủ xã hội, lấy tên là Quốc tế Xã hội chủ nghĩa. Tuyên ngôn Frankfurt đã trình bày một cách khá đầy đủ và hệ thống các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội dân chủ, đánh dấu một giai đoạn hoàn toàn mới của chủ nghĩa xã hội dân chủ, một trào lưu tư tưởng chính trị hiện đại với tham vọng đứng trên và thay thế cả hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa, đối lập với cả chủ nghĩa tự do - bảo thủ và chủ nghĩa cộng sản.
Nguồn gốc tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ chính là ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng tiểu tư sản trong phong trào công nhân được biểu hiện dưới nhiều màu sắc: chủ nghĩa xã hội không tưởng tư sản và tiểu tư sản, chủ nghĩa công liên, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội hữu và tả, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa chống cộng và sự đan xen phức tạp của các khuynh hướng tư tưởng đó. Chủ nghĩa xã hội dân chủ - học thuyết của trào lưu xã hội dân chủ trở thành một học thuyết chiết trung, hỗn tạp và mang tính cải lương, thực dụng, thoả hiệp giai cấp.
Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa xã hội dân chủ là tầng lớp giai cấp công nhân quý tộc và tầng lớp trí thức có lợi ích gắn liền với giai cấp tư sản, sự hình thành và tồn tại của các tổ chức công đoàn vàng trong phong trào công nhân và các nghiệp đoàn tự do trong xã hội tư bản, đặc biệt là các đảng xã hội dân chủ và các tổ chức chính trị xã hội của nó. Ngoài ra còn kể đến sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội tư bản hiện đại và bộ phận công nhân chậm tiến.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ là tên gọi thống nhất của hệ thống tư tưởng và mô hình mục tiêu của đảng dân chủ xã hội. Bản chất của nó là trào lưu tư tưởng cải lương nằm trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lý luận mang tính chung chung, cải lương, cơ hội để nguỵ biện cho những thay đổi về thực tiễn chính trị khi cần thiết, thực chất là bảo vệ và duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tính cải lương là muốn cải tiến, cải cách chủ nghĩa Mác - Lênin trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa để giai cấp tư sản và nhà tư bản chấp nhận được. Thoả hiệp với tư sản, họ tuyên truyền về “hợp tác giai cấp”, “hoà bình xã hội”. Các nhà dân chủ xã hội tuyên bố nguyên tắc chủ yếu trong những nguyên tắc đó là “nền dân chủ đa nguyên”, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp cải cách, sử dụng chế độ nghị viện tư sản, nhằm giành chính quyền chỉ thông qua bầu cử, khước từ những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, những thay đổi cơ bản về cơ cấu chính trị và kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. T
Tính phản động là phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin, phản bội lợi ích của giai cấp công nhân, phủ nhận quy luật tiến hóa của lịch sử, bác bỏ những luận điểm quan trọng nhất của học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản.
Tính phản khoa học là lý luận mang tính chung chung, nguỵ biện, không tưởng, lúc tả, lúc hữu. Không nhất quán về lập trường tư tưởng “Gió chiều nào, che chiều ấy”, từ bỏ đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Muốn tìm con đường thứ ba trong phát triển xã hội loài người.
Thực chất của chủ nghĩa xã hội dân chủ là phản bội lợi ích giai cấp công nhân, chỉ vì lợi ích của một nhóm người, duy trì vĩnh viễn chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội dân chủ là sự hỗn tạp về tư tưởng, biểu hiện rất đa dạng. Các đảng, các phái theo chủ nghĩa xã hội dân chủ đều có quan niệm riêng của họ về chủ nghĩa xã hội, về các vấn đề cải tổ xã hội theo những cái gọi là nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Chủ nghĩa xã hội dân chủ đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội dân chủ không dựa trên một cơ sở lý luận nhất quán mà mang tính chiết trung, hỗn tạp của nhiều khuynh hướng tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội dân chủ đánh giá mơ hồ về bản chất của giai cấp tư sản, về xã hội tư bản, ảo tưởng rằng có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong lòng xã hội tư bản, không cần lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản; có thể thông qua những cải cách xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn duy trì cơ sở kinh tế, chính trị, pháp luật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội dân chủ phủ nhận đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, phủ nhận và xuyên tạc những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như nguyên lý về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lý luận về chuyên chính vô sản... Chủ nghĩa xã hội dân chủ đưa ra những quan điểm tự do, bình đẳng, dân chủ phi giai cấp, phi lịch sử và trừu tượng. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội dân chủ coi chủ nghĩa xã hội là một phạm trù đạo đức chứ không phải là một chế độ xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và ra đời thông qua cuộc cách mạng xã hội lật đổ giai cấp tư sản; về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội dân chủ chủ trương xây dựng nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thừa nhận và bảo lưu sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với người lao động; về chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, duy trì nền dân chủ tư sản, pháp quyền tư sản; về lợi ích, điều hoà lợi ích giữa giai cấp tư sản và các giai cấp, tầng lớp lao động khác.
Thực chất chủ nghĩa xã hội dân chủ là sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa xã hội dân chủ đã đồng lõa với chủ nghĩa chống cộng, chống phá quyết liệt chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội dân chủ là đồng minh với chủ nghĩa tư bản để chống phá chủ nghĩa xã hội hiện thực, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ nghĩa xã hội dân chủ là một kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Để ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ ảnh hưởng tác hại của chủ nghĩa xã hội dân chủ ở nước ta hiện nay, cần nắm vững một số yêu cầu có tính nguyên tắc sau: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung thành với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc, giải quyết hài hoà lợi ích giai cấp - dân tộc - nhân loại. Xây dựng Đảng, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thật sự trong sạch vững mạnh. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Kiên quyết chống đa nguyên chính trị. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ đường lối chính trị, quan điểm của Đảng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động phòng, chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, sự suy thoái về chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững sự ổn định và tăng cường phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội, công  bằng xã hội; bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Tăng cường hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế các nước xã hội chủ nghĩa, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bảo vệ của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới./.

PHẢI CHẲNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC CHỈ LÀ PHƯƠNG TIỆN ĐỂ GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC?


Nhằm cổ xúy cho giai cấp cầm quyền, một số học giả tư sản thậm chí cả những kẻ vốn dòng giống lạc việt nhưng đang "chịu ơn" giai cấp tư sản đã và tung ra nhiều chiêu bài khác nhau trong đó cho rằng chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ là phương tiện, độc lập dân tộc là mục đích. Chủ tịch Hồ Chí Minh mượn chủ nghĩa xã hội khoa học làm phương tiện để đạt mục đích, nay mục đích đã đạt được rồi thì nên từ bỏ phương tiện ấy mới là thức thời.
Thực chất quan điểm trên không chỉ là sự bôi nhọ lãnh tụ mà còn là sự ngụy biện cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản; đi ngược xu thế thời đại; phủ nhận sự lựa chọn mang tính lịch sử của dân tộc ta
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng “Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về sự giải phóng giai cấp công nhân đồng thời giải phóng toàn xã hội trên phạm vi toàn thế giới khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công; khỏi mọi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; khỏi mọi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp”; “Thay cho xã hội tư sản đối kháng giai cấp là xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người”[1].
Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa xã hội khoa học là một công cụ, phương tiện có giá trị vô cùng vĩ đại – công cụ giải phóng toàn thế giới. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng đầy đủ, thực sự “chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa khoa học và cách mạng, giữa mục tiêu và động lực của sự phát triển, giữa lý luận, phương pháp luận khoa học và cương lĩnh hành động thực tiễn, giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc quốc tế, dân tộc với thời đại…”.
Chủ nghĩa xã hội khoa học còn chỉ ra rằng, sự nghiệp cách mạng cộng sản, của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế, nhưng để đi đến thắng lợi cuối cùng nó lại phải trải qua những thắng lợi ở từng quốc gia dân tộc “Giai cấp vô sản ở mỗi nước, trước hết phải thanh toán giai cấp tư sản ở nước mình, phải vươn lên, trở thành dân tộc, giai cấp dân tộc”2.
Đặc biệt khi chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc, vấn đề dân tộc trở thành vấn đề thuộc địa thì con đường giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội ở các nước thuộc địa của đế quốc tư sản nhất thiết phải trải qua giai đoạn đấu tranh chống giai cấp tư sản thực dân (cũ, mới) cấu kết với giai cấp phong kiến và tư sản mại bản phản động giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
Lênin đã viết hàng loạt bài chính luận về vấn đề dân tộc tiêu biểu là tác phẩm “Quyền dân tộc tự quyết”3 trong đó có “Cương lĩnh dân tộc” với 3 nội dung: “Các dân tộc… Liên hiệp công nhân các dân tộc”. Và tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất Đề cương vấn đề dân tộc và thuộc địa”4.
Tổng kết quan hệ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước chưa được độc lập thì lợi ích giai cấp vạn năm cũng không đòi được. Nhưng nước độc lập rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì…”. Do đó, sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân tư sản trong thời đại ngày nay khác bản chất so với giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến kiểu đế quốc Nguyên Mông, đế quốc Minh, Thanh trước đây. “Con đường giải phóng các dân tộc trong thời đại ngày nay chỉ có thể là cách mạng vô sản… Rằng: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để của dân tộc bị áp bức”. Đúng như Lênin nêu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của thời đại ngày nay.



[1] Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
2 Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
3 Lênin toàn tập, tập 25
4 Lênin toàn tập, tập 41

TÁC ĐỘNG CỦA PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO ĐẾN XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

     Phân hóa giàu nghèo tạo nên những cản trở rất lớn đến quá trình xây dựng, phát huy lực lượng, tiềm lực, thế trận của nền quốc phòng toàn dân; đến khả năng huy động sức người, sức của cho quốc phòng cũng như việc xây dựng, tạo lập sự đồng thuận và đoàn kết xã hội cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
     Phân hóa giàu nghèo tạo nên những khác biệt xã hội dẫn đến sự phân tâm xã hội trước những vấn đề về quân sự, quốc phòng của đất nước; mầm mống của trạng thái thờ ơ xã hội với nhiệm vụ củng cố nền quốc phòng toàn dân; nguyên nhân của những xung đột xã hội trong thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
     Ở nước ta, từ khi thực hiện kinh tế thị trường, phân hóa giàu nghèo trở thành hiện tượng xã hội nổi cộm. Phân hóa giàu nghèo đang trong xu thế gia tăng, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thâm nhập vào các quan hệ xã hội, đã và đang đặt ra những nội dung mới cho công tác quản lý xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong xu thế phân hóa giàu nghèo gia tăng cần phải có những nghiên cứu sâu để chỉ ra tác động tiêu cực của nó đến quá trình xây dựng lực lượng, tiềm lực, thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Các nghiên cứu đó hướng đến tìm câu trả lời cho câu hỏi: trong xu thế phân hóa giàu nghèo gia tăng làm thế nào và bằng cách nào để huy động sức mạnh của cả dân tộc cho sự nghiệp củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?.

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội đã và đang là mối quan tâm, lo lắng của toàn xã hội. Theo số liệu từ Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2012, Tòa án các cấp đã đưa ra xét xử 6.425 bị cáo là người chưa thành niên, hàng năm có từ 16.000 đến 18.000 trẻ em chưa thành niên phạm tội, chiếm từ 15 - 18% tội phạm. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ngày càng trở nên nghiêm trọng. Những năm 2000 trở về trước, hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu là trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích không gây nguy hại lớn, thì những năm gần đây đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, giết người, cướp tài sản có sử dụng vũ khí nóng, hiếp dâm, mua bán, sử dụng trái phép các chất ma túy. Thời gian gần đây xuất hiện hàng loạt vụ phạm tội của một bộ phận thanh thiếu niên với những hành vi gây án ngông cuồng, manh động, côn đồ, giết người hết sức dã man; nạn tự tử, hút, lắc, bỏ học, bỏ nhà đi hoang, tập hợp thành băng nhóm, gây án lấy tiền thỏa mãn những cuộc vui, cơn nghiện ngày càng phổ biến.
Sự gia tăng về số lượng, tính chất, mức độ vi phạm pháp luật của người chưa thành niên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản là: Một là, do gia đình lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục không đúng, nuông chiều thái quá hoặc dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ; thiếu trách nhiệm, không quan tâm trong việc quản lý, giáo dục con cái; một số gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như bố mẹ ly hôn, chấp hành án phạt tù, đã chết, các em phải sống với dì ghẻ, bố dượng, mồ côi, sống một mình, lang thang… làm cho người chưa thành niên tự ti, mặc cảm, thiếu quản lý, giáo dục dẫn đến mất phương hướng khi hành động, dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, phạm tội. Hai là, do nhà trường nặng giáo dục tri thức, nhẹ giáo dục đạo đức, chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành những giá trị sống và kỹ năng sống, chưa chú trọng giáo dục pháp luật, sự liên lạc giữa gia đình và nhà trường thiếu chặt chẽ… tạo điều kiện để các đối tượng xấu lợi dụng lôi kéo người chưa thành niên vào con đường vi phạm pháp luật. Ba là, do tác động của môi trường xã hội. Sự quản lý văn hóa - xã hội còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về người chưa thành niên thiếu đồng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội chưa quan tâm đúng mức đối với công tác phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, nhất là vai trò của Đoàn Thanh niên trong công tác giáo dục, phòng ngừa vi phạm pháp luật của người chưa thành niên còn mờ nhạt… làm cho những tác động xấu của môi trường xã hội ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến người chưa thành niên. Những hình ảnh không đẹp trong thế giới người lớn (rượu chè, cờ bạc, ăn chơi vô độ, gây gổ, đánh nhau, cư xử thiếu văn hóa, lái xe lạng lách, vượt đèn vượt trạm, xem thường pháp luật, nói tục chửi thề…); phim ảnh, sách truyện, báo đài, mạng internet, game bạo lực,… quá nhiều thông tin về tệ nạn xã hội tác động vào tình cảm, tâm lý, khiến cho hình ảnh con người và xã hội trong tâm trí của giới trẻ trở nên xấu xa, dẫn đến tâm lý hoang mang, chống đối, nghi ngờ, lo sợ. Đặc biệt, phim ảnh bạo lực và game bạo lực hình thành và khơi dậy những cảm xúc, tâm lý tiêu cực như hận thù, đố kỵ, tính hiếu chiến,…Thế giới ảo là một trong những nguyên nhân lớn khiến thanh thiếu niên trở nên chai lì, vô cảm, độc ác, mất nhân tính. Bốn là, do người chưa thành niên còn chưa hoàn thiện về thể chất và tinh thần, ham thích mới lạ, hiếu động, muốn thể hiện tính anh hùng, dễ bị kích động, lôi kéo... Do đó, để tăng cường phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên trong tình hình hiện nay, cần tập trung thực hiện có hiệu quả những giải pháp chủ yếu là:
Thứ nhất, phát huy vai trò của gia đình trong phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Gia đình có vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển nhân cách cho thanh thiếu niên. Nếu gia đình tạo dựng được môi trường giáo dục tốt, có nề nếp kỷ cương thì mặc dù điều kiện kinh tế có khó khăn nhưng vẫn có cuộc sống hạnh phúc, con cái có lối sống trong sáng, lành mạnh. Ngược lại, môi trường giáo dục trong gia đình không tốt sẽ là nguyên nhân hàng đầu dẫn con cái đến con đường vi phạm pháp luật. Vì vậy, mỗi gia đình cần lựa chọn phương pháp giáo dục đúng đắn, tăng cường trách nhiệm trong quản lý và giáo dục; theo dõi, kiểm tra các hoạt động hằng ngày, kịp thời uốn nắn, sửa chữa mọi biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và hành động, không để con em bị lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ vào con đường tiêu cực. Đồng thời, các bậc cha mẹ cần chú trọng tìm hiểu, nâng cao tri thức về phòng, chống vi phạm, tội phạm, tệ nạn xã hội; nguyên nhân, cách nhận biết, tác hại và cách phòng, chống những vi phạm pháp luật, mắc nghiện ma túy;… Đặc biệt, cần xây dựng mỗi gia đình thực sự là một tổ ấm cho con em lớn khôn và trưởng thành, không vi phạm pháp luật và mắc tệ nạn xã hội; đảm bảo đời sống kinh tế để con em có ít nhất là những điều kiện sống tối thiểu. Đồng thời, cần chú trọng định hướng, hình thành và phát huy vai trò chủ thể của thanh thiếu niên trong tự tu dưỡng, tự rèn luyện, “tự miễn dịch” trước những tác động tiêu cực từ môi trường sống.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; hình thành ý thức tôn trọng pháp luật, trách nhiệm công dân trong phòng, chống vi phạm tội phạm. Tuyên truyền rộng rãi những gương người tốt, việc tốt, tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; tổ chức sáng tác và phổ biến các công trình, tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật, điện ảnh…có giá trị giáo dục tốt cho thanh thiếu niên. Đồng thời siết chặt quản lý với những ấn phẩm, trang mạng, game online có nội dung không lành mạnh, quan tâm đầu tư thỏa đáng những thiết chế văn hóa để đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí cho thanh thiếu niên.
Thứ ba, phát huy vai trò, trách nhiệm của nhà trường trong quản lý giáo dục học sinh, sinh viên; đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, chú trọng bồi dưỡng, phát triển nhân cách cho người học; đưa vào chương trình giáo dục chính khóa và nâng cao chất lượng giáo dục, pháp luật và các quy định bảo vệ an ninh, trật tự. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình, giữa nhà trường và các cơ quan chức năng khác trong việc quản lý, giáo dục thanh thiếu niên và phòng chống vi phạm pháp luật của học sinh, sinh viên.
Thứ tư, tổ chức Đoàn cần tự đổi mới, làm cho phong trào của Đoàn có sức hấp dẫn hơn đối với thanh thiếu niên, qua đó tập hợp thanh thiếu niên vào tổ chức Đoàn, tổ chức Hội và các phong trào, hoạt động của đoàn, Hội. Muốn vậy, tổ chức Đoàn các cấp cần đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động, tạo sân chơi lành mạnh, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng sống, thường xuyên lựa chọn, bồi dưỡng hạt nhân cho công tác Đoàn; phát động và tổ chức phong trào đoàn phù hợp với từng địa phương, có ý nghĩa thiết thực trong việc giáo dục, quản lý thanh thiếu niên.
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý và phát huy hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan chức năng. Tấn công mạnh mẽ vào các loại tội phạm, tệ nạn xã hội để tạo ra một môi trường xã hội lành mạnh hơn cho tuổi trẻ. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự, củng cố các lực lượng nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, nhất là các lực lượng ở cơ sở; đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc; kịp thời phát hiện, phòng ngừa đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm nguy hiểm; nghiên cứu, dự báo tình hình tội phạm, đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, kiên quyết khắc phục và xử lý nghiêm minh những hiện tượng không lành mạnh trong các hoạt động văn hóa, thông tin, các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời, triển khai có hiệu quả việc dạy nghề cho các đối tượng ở các trại giam, hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng vừa ra khỏi các trường giáo dưỡng hoặc trại giam nhanh chóng tái hòa nhập với cộng đồng.

Như vậy, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội có xu hướng gia tăng nhanh, diễn biến phức tạp và hết sức nghiêm trọng. Thực tế đó là hồi chuông báo động đối với mỗi gia đình, cộng đồng và toàn xã hội, đòi hỏi mọi cấp, mọi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội cần có sự nhìn nhận đúng đắn về tính nghiêm trọng và cấp bách của vấn đề này, từ đó thực hiện tổng hợp các giải pháp, huy động mọi lực lượng góp phần phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên; giáo dục, phát triển nhân cách cho thanh thiếu niên, để tuổi trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng, thật sự là người chủ tương lai của đất nước./.

PHẢI CHĂNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ ĐÃ LỖI THỜI?

     Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, chỉ đạo xây dựng dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản. Thực hiện nguyên tắc tập trung  dân chủ là cơ sở đảm bảo cho sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động của Đảng.
     C.Mác và  Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Hai ông chưa đề cập thật rõ vấn đề tập trung dân chủ như một nguyên tắc cụ thể. Thời các ông, chưa có một Đảng Cộng sản cụ thể nào mà mới chỉ có các tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân. Đó là Liên đoàn những người cộng sản, Quốc tế I và Quốc tế II. Trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản, hai ông mới đề cập đến ở mức độ “Bàn về Đảng Cộng sản” . Ở đó vấn đề tập trung dân chủ mới chỉ đề cập trong việc tổ chức và bãi miễn các thành viên: Các cơ quan lãnh đạo của đảng được bầu cử một cách dân chủ và họ có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu họ không hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức trao cho.
     V.I Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, ông là người đầu tiên xác định một cách rõ ràng nhất các nguyên tắc trong xây dựng Đảng Cộng sản. Tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc cơ bản phân biệt Đảng Cộng sản cách mạng với các đảng khác.
     Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, là tiêu chuẩn để phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng phái khác, phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.
     Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi nguyên tắc tập trung dân chủ (có khi Người gọi là dân chủ tập trung) là nguyên tắc rất quan trong trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguời cũng là tấm gương Cộng sản mẫu mực trong việc thực hiện nguyên tắc này. Theo Người: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp tổ chức thống nhất lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy là dân chủ tập trung. Nghĩa là: tập trung trên nền tảng  dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.”
Đảng ta luôn nhất quán nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động. Trong Điều lệ được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”, đồng thời xác định các nội dung cụ thể đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ về tổ chức, hoạt động, sinh hoạt của Đảng.
     Chủ nghĩa đế quốc với mục đích thiết lập một thế giới “nhất thể hóa tư bản chủ nghĩa” do các nước đế quốc siêu cường thống trị và bá quyền. Mục tiêu trực tiếp là lật đổ chính quyền đương nhiệm của các quốc gia mà các đế quốc siêu cường cần khống chế, thay đổi lực lượng lãnh đạo, lập chính quyền mới chịu sự chi phối của chúng.
     Chính vì vậy, suốt nhiều thập kỷ qua, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn “chống phá” vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đăc biệt các luận điệu sai trái về nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng tổ chức và hoạt đông của Đảng Cộng sản, nhằm từng bước hạ thấp vị thế, uy tín, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và Quân đội.
     Họ cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ nay đã lỗi thời. Nó chỉ phù hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền, trong hoạt động bí mật hoặc khi lãnh đạo chiến tranh. Còn trong thời bình Đảng cầm quyền, nhân dân làm chủ thì nguyên tắc này tỏ ra lỗi thời, không có hiệu lực, không phù hợp nữa. Đây là một trong những sai lầm trong nhận thức về bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tiễn cho thấy, dù Đảng có bề dày lịch sử nhưng không bao giờ buông lỏng kỷ luật, coi nhẹ tập trung thống nhất, nhấn mạnh một chiều về dân chủ, để cho các phần tử cơ hội, cực đoan tự do lung loạn, chia rẻ tổ chức sẽ làm rối loạn và tan rã Đảng.
     Chúng ta biết rằng, với nguyên tắc tập trung dân chủ, V.l Lênin đã xây dựng, tổ chức Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (1917), vượt qua khó khăn của những năm tháng nội chiến, giữ vững chính quyền Xô Viết, thì sau 74 năm (1991), Đảng Cộng sản Liên Xô do không nắm vững được bản chất và buông long nguyên tắc hoạt động, đã bị kẻ thù và một số phần tử cơ hội phản động phá vỡ và làm tan rã. Do vậy, ở mỗi thời kỳ cách mạng, trong mọi điều kiện hoàn cảnh đều phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ khác ở cơ chế vận hành, nội dung, yêu cầu, phương thức lãnh đạo phù hợp và linh hoạt. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ góp phần mở rộng dân chủ, phát huy mạnh mẽ dân chủ mà còn phải giữ gìn tính tập trung, thống nhất, tính kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh trong Đảng.
     Những luận điệu sai trái trên cho rằng, tập trung dân chủ chỉ là một thứ chế độ tập quyền, độc đoán bảo thủ, kìm hãm sự tư duy sáng tạo. Họ ra sức tán dương thực hiện dân chủ tự do, dân chủ vô hạn, dân chủ cực đoan… ủng hộ nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi. Sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để cổ vũ cho những người có nhiều ý kiến bất đồng, trái chiều trong Đảng để gây chia rẻ, mâu thuẫn nội bộ. Họ cố tình tỏ ra không hiểu, hoặc cố tình xuyên tạc bản chất của nguyên tắc, họ dẫn ra những ví dụ về những sai lầm, về quan liêu độc đoán, về việc mất dân chủ của một số người trong bộ máy của Đảng để chứng minh cho việc cần thiết phải thay thế nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số người còn ngộ nhân rằng, nếu tập trung càng cao thì dân chủ càng giảm, muốn tăng cường dân chủ thì phải giảm bớt sự tập trung, còn giữ lại nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ không khắc phục được tình trạng độc đoán, quan liêu, gia trưởng…

     Lại có quan điểm cho rằng, tập trung là danh từ, còn dân chủ là tính từ, dân chủ chỉ là cái bổ nghĩa cho tập trung, làm rõ thuộc tính tập trung; nên về thực chất đó là nguyên tắc tập trung hoặc là bản chất của tập trung dân chủ là tập trung quan liêu, vì tập trung chỉ là mục đích, dân chủ chỉ là phương tiện, do vậy có rất nhiều phương tiện để đạt được mục đích, thành ra dân chủ chỉ là một phương tiện mà thôi. Rõ ràng luận điệu này đã tầm thường hóa dân chủ, mưu đồ để phá hoại và làm cho chúng ta từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc chia cắt nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối lập với tập trung là không hiểu đúng bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.

VAI TRÒ CỦA LÀNG VIỆT TRONG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

           Làng Việt khẳng định chủ quyền của quốc gia, dân tộc, đơn vị chiến đấu giữ nước; đơn vị tổ chức hậu phương cơ bản; đơn vị bảo tồn, phát triển các bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại sự đồng hóa; môi trường xã hội đào luyện những con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, kiên cường, bất khuất.
            Làng Việt đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Thời kỳ chống phong kiến phương Bắc cũng như chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược, sự đóng góp của Làng là rất lớn. Làng Việt là pháo đài chiến đấu, biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, giữ gìn non sông bờ cõi của dân tộc Việt Nam. Thực tế lịch sử hơn mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã xác nhận sự gắn bó giữa làng với nước. Không có Làng Việt thì không có quốc gia Việt Nam. Có làng mới có nước, mất làng sẽ mất nước, còn nước thì còn Làng; làng xã là một thành tố, một đỉnh của tam giác văn hóa giữ nước: Nhà – Làng – Nước.
           Hiện nay, Làng Việt đã có sự biến đổi về cấu trúc cảnh quan, cơ cấu xã hội, phong tục, tập quán, tính cộng đồng làng xã. Những biến đổi của làng ảnh hưởng nhất định đến vai trò của làng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Cho dù có sự biến đổi nhưng Làng Việt vẫn là một đơn vị xã hội cơ bản trong chiến lược quốc phòng, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Khơi dậy, củng cố, phát huy vai trò của Làng Việt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi khách quan, trách nhiệm của mọi lực lượng; đồng thời là một vấn đề mang tính cấp thiết, cấp bách hiện nay./.

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHIA RẼ, PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

                              
 Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Cùng chung điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh sinh tồn, các tộc người ở nước ta đã sớm đoàn kết, cố kết “chung lưng đấu cật” để chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố và phát huy, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, các thế lực thù địch luôn coi chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộclà “huyệt” nhạy cảm, trọng điểm “ưu tiên” chống phá ở nước ta.
Hiện nay, âm mưu của chúng là lợi dụng vấn đề dân tộc làm mũi nhọn tiến công thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá từ bên trong, thúc đẩy quá trình tự diễn biến với sự kết hợp từ bên ngoài nhằm làm chuyển biến chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục tiêu của chúng là: tạo ra sự mất đoàn kết, mâu thuẫn xung đột giữa các dân tộc thiểu số với người kinh và giữa các dân tộc thiểu số; khơi dậy, kích động tư tưởng chống đối các phần tử bất mãn, tiêu cực, làm cho chúng hướng ra ngoài, chờ thời cơ hoạt động; làm suy giảm niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Chính quyền, làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước, tạo sự bất bình trong nhân dân, gây mất ổn định chính trị - xã hội, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để thực hiện âm mưu phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, chúng đã và đang sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc, trong đó nổi lên những thủ đoạn cơ bản là:
- Xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, trực tiếp là quan điểm, chính sách dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin hiện đại như đài RFA, một số đài khác bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc, mạng Interne… để phát tán tài liệu phản động; đặc biệt là khai thác tối đa công cụ truyền miệng để tung tin thất thiệt, sai lệch về đường lối chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, ly khai… như đòi cái gọi là quyền “tự trị” của các dân tộc thiểu số, thành lập “Vương quốc Mông độc lập”, “nhà nước Đê ga độc lập”, “quốc gia Khơ me Crôm”… Chúng triệt để lợi dụng sự chênh lệch giữa các dân tộc về chính trị kinh tế - xã hội, lợi dụng sự khác nhau về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo giữa các dân tộc, những tồn tại của lịch sử để tuyên truyền kích động đòi ly khai, tự trị và tìm cách luật pháp hóa, quốc tế hóa vấn đề dân tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, như tổ chức kỷ niệm cái gọi là “lễ mất đất” (ngày 04 tháng 6) của một nhóm người Khơ me hải ngoại, “ngày thành lập FULRO” (ngày 20 tháng 09)... tung hô cái gọi là “vấn đề người Thượng ở Tây Nguyên”, “vấn đề người Chăm”, “vấn đề người Khơ-me”, “vấn đề người Mông”...
- Mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc chống đối chính quyền, di cư và vượt biên trái phép, gây bất ổn chính trị - xã hội. Thâm độc hơn, chúng còn gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo và nhân quyền gây xung đột, bạo loạn, tạo các “điểm nóng” để vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”… lấy cớ can thiệp vào nội bộ nước ta, phá hoại khối đoàn kết, thống nhất giữa các dân tộc anh em, làm mất uy tín và vai trò của Đảng. Trong năm 2001, 2004 chúng đã kích động hàng chục nghìn người ở Tây Nguyên tham gia biểu tình, bạo loạn phá hoại kinh tế, chống đối chính quyền; xúi dục, lừa gạt người dân tộc thiểu số trốn ra nước ngoài đã khiến cho nhiều người bỏ nhà cửa, nương rẫy biến họ từ người dân lương thiện có cuộc sống ổn định bỗng chốc rơi vào cảnh “màn trời chiếu đất”, “tan đàn sẻ nghé”. Tháng 4, 5 năm 2011, chúng kích động, lừa gạt, đồng bào Mông ở Mường Nhé (Điện Biên) bỏ sản xuất, tụ tập đông người, chống đối cán bộ chính quyền, gây mất trật tự an ninh khu vực.
- Lợi dụng những sơ hở, những sai sót trong việc thực hiện chế độ chính sách cho các đối tượng chính sách xã hội để thổi phồng khuyết điểm, nói xấu cán bộ, nói xấu chính quyền. Chúng lợi dụng những yếu kém, hạn chế trong quản lý xã hội của chính quyền cơ sở, những vấn đề nhạy cảm bức xúc trong cộng đồng như tranh chấp đất đai, tham nhũng, hối lộ… để kích động, tiếp tay, can thiệp, làm phức tạp hóa tình hình, gây mâu thuẫn, xích mích trong nhân dân, đối lập nhân dân với chính quyền. Lợi dụng trình độ nhận thức còn hạn chế, lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số để lừa bịp mê hoặc, lôi kéo quần chúng tham gia hậu thuẫn cho lực lượng chống phá, bạo loạn lật đổ khi có thời cơ. 
- Nuôi dưỡng các phần tử bất mãn, tiêu cực ở trong nước, xây dựng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài, tạo lực lượng bên trong cấu kết với lực lượng bên ngoài, khi thời cơ đến thì tạo cớ,  lấy cớ cán thiệp vào công việc nội bộ ở nước ta. Chúng tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các tộc người ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, như: “Liên đoàn Khơ - me Cam-pu-chia Crôm thế giới”, “Mặt trận dân tộc giải phóng Khơ-me Cam-pu-chia Crôm”, “Trí thức Mông”, “Trung tâm nghiên cứu văn hóa Mông”, Hiệp hội người Thượng Đề - ga” (MDA), “Trung tâm Thái học”, “Văn phòng Chăm-pa quốc tế - IOC”, “Hội bảo tồn văn hóa Chăm pa”…
- Hỗ trợ thành lập các đài phát thanh như VOKK (Khơ-mAe Cam-pu-chia Crôm), RFA (Châu Á tự do), đài Đề-ga và in ấn báo chí, tạp chí, tài liệu (Champakha, VIJAYA…) bằng tiếng dân tộc, tán phát băng đĩa có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “chiếm đất”, “đàn áp, kìm kẹp người dân tộc thiểu số”, “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế”, tuyên truyền về một cuộc sống giàu sang… nhằm xây dựng ảo tưởng, khoét sâu tâm lý ly khai, kích động tư tưởng đòi “tự trị”, “ly khai” “chia nhỏ”, “xé lẻ” Việt Nam.
- Lợi dụng hoạt động tôn giáo, thực hiện “Đạo hoá” dân tộc để lôi kéo, tập hợp dân chúng, hình thành các khung chính quyền ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, cũng như sử dụng hệ thống nhà nguyện Tin Lành để chỉ huy, phối hợp các hoạt động chống đối. Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đã tăng cường lợi dụng bình phong hoạt động “đạo hoá” dân tộc, nhất là truyền đạo Tin Lành với nhiều hình thức khác nhau nhằm tiến tới mục đích chuyển hoá ý thức hệ tư tưởng của đồng bào các dân tộc từ lòng tin theo Đảng, theo cách mạng sang lòng tin vào đấng Cứu thế (Chúa Trời, Vàng Chứ), làm thay đổi nếp sống văn hoá truyền thống bằng thứ văn hoá xa lạ, trên cơ sở đó dùng thần quyền để lừa bịp và tập hợp lực lượng, hình thành các nhen nhóm phản động dưới vỏ bọc tôn giáo, chuẩn bị nguồn lực bên trong, khi hội đủ điều kiện thì kích động đồng bào các dân tộc gây bạo loạn, tạo cớ can thiệp.
- Lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo, thăm thân, du lịch, ngoại giao, hợp tác, nghiên cứu văn hóa dân tộc … để thu thập thông tin tình báo, tập hợp lực lượng, móc nối xây dựng cơ sở, tạo dựng “ngọn cờ” tiến hành các hoạt động phá hoại. Hiện nay, có không ít tổ chức phi chính phủ hỗ trợ, kích động biểu tình, bạo loạn, vượt biên trái phép gây mất ổn định chính trị - xã hội. Chúng lợi dụng chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ quốc tế của Nhà nước ta để tranh thủ đưa người từ nước ngoài vào xâm nhập vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm đi sâu tìm hiểu các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đời sống của dân tộc thiểu số cũng như chủ trương của đảng, nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa.
Âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đã và đang làm tổn hại đến mối quan hệ giữa các dân tộc và cản trở quá trình xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta; trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội. Vì vậy, để chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta của các thế lực thù địch, cần phải thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
  Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của nhân dân về chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Trong suốt các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm : “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”.  Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta đã và đang được cụ thể hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay. Mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là không có cơ sở và đi ngược lại lợi ích của các dân tộc, cần phải kiên quyết đấu tranh. Để nhân dân nhận thức sâu sắc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, đề cao cảnh giác, đấu tranh với những luận điệu sai trái, phản động cần đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng khu vực, từng dân tộc. Chú trọng khơi dậy tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường, một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng của các dân tộc, tôn giáo; tôn trọng phong tục, tập quán của mỗi dân tộc. Cần đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền như: học tập chính trị; thông qua các phương tiện đại chúng (sách, báo, tài liệu, đài phát thanh, truyền hình, mạng Internet…); tổ chức các lễ hội truyền thống theo phong tục, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc; tranh thủ già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ; tăng cường cán bộ, đảng viên xuống những nơi khó khăn, phức tạp để làm tốt công tác vận động quần chúng.
Hai là, xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các khuynh hướng, lực lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải lấy lợi ích căn bản của đại đa số nhân dân làm điểm xuất phát. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình phát triển.
Ba là, mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Không ngừng hoàn thiện pháp luật, thực hiện có chất lượng dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ nhằm động viên, phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả nạn quan liêu, tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo ra sự đồng thuận cao trong đời sống xã hội.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo động lực to lớn cho sự phát triển bền vững, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. Do đó, cần tập trung thực hiện thắng lợi các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như: Chương trình 135, Chương trình xóa đói giảm nghèo, Chương trình xóa mù và tái mù chữ…; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết đất sản xuất, nhà ở cho những hộ đặc biệt khó khăn, thực hiện tín dụng ưu đãi để người dân có vốn phát triển sản xuất; tư vấn giúp đỡ đồng bào áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất và đời sống. Phổ cập giáo dục phổ thông, nâng cao dân trí, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về vùng sâu, vùng xa. Chăm lo đời sống tinh thần của các dân tộc thiểu số và đồng bào theo đạo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa từng dân tộc.
Năm là,  tích cực chăm lo xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh về mọi mặt, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác dân tộc, tôn giáo. Cần coi trọng xây dựng tổ chức đảng, chính quyền cấp huyện, xã, làng, bản thực sự trong sạch, vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp; xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cấp, các ban ngành đoàn thể, chú trọng nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách về dân tộc, tôn giáo ở địa phương. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, khắc phục bệnh quan liêu xa rời cơ sở, xa rời quần chúng trong cán bộ, đảng viên.
Sáu là, tăng cường quốc phòng, an ninh làm thất bại hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch. Chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, phát động quần chúng tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an thực sự trong sạch, vững mạnh, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội xây dựng địa bàn an toàn, ổn định về mọi mặt. Chủ động nắm chắc tình hình địa phương, phát hiện và xử lý kịp thời những mâu thuẫn trong nhân dân theo đúng pháp luật. Tăng cường kế hoạch nghiệp vụ phối hợp giữa các lực lượng quân đội và công an đấu tranh với các nhóm phản động tại sào huyệt của chúng ở Lào, Myanma... chủ động tấn công địch từ bên ngoài, ngay tại sào huyệt của chúng, tập trung vào số đối tượng cốt cán, cầm đầu phản động ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc là di sản văn hóa quý giá của dân tộc ta, là nền tảng tinh thần cao đẹp, là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam, là chân lý sáng chói cho các thế hệ người Việt Nam tiếp bước và là di sản văn hóa quý báu mà chúng ta phải bảo tồn, lưu giữ mãi đến muôn đời sau. Mọi âm mưu, thủ đoạn chia sẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là đi ngược lại truyền thống, lợi ích và khát vọng ngàn đời của dân tộc. Do đó, cần chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, gọp phần xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.