Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

Nghiêm khắc với cán bộ sai phạm, sức mạnh của Đảng càng được nhân lên

Ngày 18-9, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thông báo kết luận kỳ họp thứ 17, xem xét, kết luận một số nội dung quan trọng.
Trong đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã chỉ rõ những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015-2020, trong đó có ông Nguyễn Xuân Anh (Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố Đà Nẵng) và ông Huỳnh Đức Thơ (Phó Bí thư Thành ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng); đồng thời công bố kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng UBND tỉnh Gia Lai và ông Phạm Thế Dũng, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai; xem xét, thi hành kỷ luật đối với Ban Thường vụ Đảng uỷ và một số thành viên Hội đồng thành viên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; xem xét, thi hành kỷ luật một số cá nhân thuộc Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và kết luận kiểm tra tài chính đảng đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Nông.
Câu chuyện kỷ luật cán bộ trong Đảng không phải bây giờ mới có. Tuy nhiên, trước đây, kỷ luật thường mới chỉ dừng ở mức phê phán chung chung, chưa rõ ràng. Còn bây giờ, kỷ luật đã cụ thể hơn đúng người, đúng tội. Qua mỗi lần như vậy, nhìn lại, Đảng ngày càng mạnh lên.
Cả lý luận lẫn thực tế đều đã chứng minh rằng, một trong những điều làm nên sức mạnh cho Đảng là lòng tin của nhân dân. Khi dân tin vào Đảng và Đảng nói, làm và thi hành kỷ luật đúng người đúng tội, thì sức mạnh của Đảng càng được nhân lên.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Đình Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, việc công khai kỷ luật cán bộ là điều rất quan trọng, điều này có lợi cho Đảng, đem lại niềm tin trong nhân dân. 
Qua đó, sẽ có sự gắn kết chặt chẽ trong mối liên hệ giữa Đảng với dân: “Đảng ta như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Đảng viên mắc kỷ luật đến đâu thì phải xử lý đúng theo kỷ luật của Đảng. Xử lý như vậy không phải đấu tranh nội bộ, không phải bè cánh, chỉ có 1 đảng chân chính đảng cách mạng, đảng vì dân thì chúng ta mới tự phê bình và phê bình. Ai có kỷ luật đến đâu chúng ta xử lý đến đó. Lịch sử các đảng cộng sản trước nay đều như vậy. Mỗi lần như vậy chỉ có tăng sức mạnh của Đảng, tăng niềm tin của nhân dân”.
Từ sau Đại hội XII, Ủy ban Kiểm tra Trung ương công bố công khai nhiều vụ việc lớn, liên quan đến sai phạm nghiêm trọng của không ít cán bộ Đảng viên các cấp. Điều này cho thấy, Đảng đang tích cực thực hiện nhóm giải pháp tăng cường kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Bộ Chính trị và Trung ương khóa XII.
Trong thực tế, đặc biệt là khi cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, do tác động của kinh tế thị trường nên có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất. Sự suy thoái, biến chất đó có một phần nguyên nhân từ kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, pháp luật nhà nước chưa nghiêm, dẫn tới tình trạng vô kỷ luật, vun vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức, lối sống...
Ông Phạm Thế Duyệt, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng: Nếu làm không kiên quyết, hiệu quả, đồng bộ, nhất là nếu chỉ dừng lại ở hành động của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng hay Ban Nội chính, thì người dân chưa thể yên tâm và chưa coi đó là quyết tâm của toàn Đảng được.
Ông Phạm Thế Duyệt trăn trở: “Nhìn xuống hơn các bộ, ngành, Mặt trận, đoàn thể có "sôi" lên không, hay chỉ có đồng chí Tổng Bí thư cương quyết, hay chỉ trông chờ vào 8 đoàn kiểm tra do Tổng Bí thư thành lập kiểm tra giám sát việc xử lý tham nhũng và đến tháng 10 có kết luận? Nếu là chính quyền thì cũng toàn đảng viên được cử ra để làm việc ấy. Vậy thì những nơi này hãy làm đi, đừng ỷ lại vào các đoàn kiểm tra đến. Tôi tin nếu làm được như vậy thì dân sẽ phấn khởi, sẽ tin ngay”.

Việc xử lý những cá nhân, tổ chức sai phạm là cần thiết. Nhưng sâu xa hơn, phải tìm cho ra nguyên nhân của từng vụ việc. Đồng thời, cũng phải chỉ ra được cái sai, cái hạn chế, yếu kém của tổ chức Đảng, khi biết sai mà không ngăn chặn, thấy đúng lại không bảo vệ; tiến hành kỷ luật nghiêm minh trong Đảng, chắc chắn sẽ lấy lại được niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh chống “suy thoái”, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí./.

Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

Dù ở góc nhìn nào, không thể không thừa nhận một sự thật hiển nhiên là: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong hơn 70 năm sau đó, cùng với những tác động sâu sắc của những thắng lợi ấy đến các phong trào cách mạng trên thế giới, đã thật sự làm thay đổi số phận của nước Nga và nhiều dân tộc khác, đánh dấu một bước tiến lớn của nhân loại trong tiến trình lịch sử.
Sở dĩ Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thành công to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại đến như vậy, đó chính là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của lãnh tụ thiên tài V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích Nga, sau này là Đảng Cộng sản Liên Xô. Với sự đúng đắn ấy, Đảng của những người cộng sản đã động viên hàng trăm triệu con người nhất tề đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, và vào những lúc lâm nguy đã không ngần ngại hy sinh của cải và tính mệnh để bảo vệ Tổ quốc và chế độ. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đánh sập chủ nghĩa phát-xít là một minh chứng hùng hồn.
Bài học lớn rút ra, muốn cho Đảng Cộng sản thật sự là lực lượng lãnh đạo và là đội ngũ tiên phong chiến đấu của cách mạng thì Đảng phải nắm vững ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể, tìm ra đường lối, hình thức và phương pháp cách mạng đúng đắn để giành thắng lợi. Đảng phải xây dựng sự vững mạnh của mình về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, thật sự phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thường xuyên thông qua công tác xây dựng Đảng mà tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng và đạo đức, nhất là bệnh quan liêu, xa dân, tham nhũng và lãng phí, những nguy cơ đe dọa sự mất còn của Đảng, của chế độ.
 Nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhờ đó mà trong các bước thăng trầm của cách mạng, Đảng ta đều giữ vững được ngọn cờ tiên phong, lãnh đạo nhân dân ta liên tiếp giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến cứu nước cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay. Không ai có thể tự cho mình là hoàn thiện, toàn mỹ. Đảng ta cũng vậy. Trong hoạt động của mình, bên cạnh những thành tựu to lớn, vào những thời điểm và trên những mặt công tác nhất định, Đảng cũng đã phạm sai lầm, khuyết điểm, trong đó có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng. Nhưng đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, Đảng ta đã trung thực và dũng cảm tự phê bình và phê bình về các sai lầm, khuyết điểm đó, tự chịu trách nhiệm trước nhân dân, cam kết sửa chữa, nhờ đó đã được nhân dân đồng tình ủng hộ, tìm cách khắc phục để vượt qua khó khăn và thử thách.
Trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, Đảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt. Then chốt vì chỉ có thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng thì mới có điều kiện thực hiện tốt các nhiệm vụ khác. Nếu không sẽ ngược lại. Trong xây dựng Đảng, Đại hội VI chủ trương Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức và cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Cương lĩnh Đại hội VII khẳng định: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo...”. Nhằm khẳng định bản chất cách mạng của Đảng, đồng thời đề cao trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và dân tộc, từ Đại hội X qua Đại hội XII, Đảng ta đã thay đổi cách diễn đạt về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Mục tiêu và nội dung chủ yếu của công tác xây dựng Đảng được xác định là: Phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Tám nhiệm vụ cơ bản xây dựng Đảng mà Đại hội XI nêu lên là theo tinh thần ấy.
Với quyết tâm “tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới”, Nghị quyết Hội nghị TW4(khóa XI) “nêu lên ba vấn đề cấp bách” đòi hỏi toàn Đảng phải “tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt”, trong đó vấn đề cấp bách nhất là “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng”; nối tiếp và phát triển đến Hội nghị TW4(khóa XII) ban hành Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, với trọng tâm là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Điểm mới của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra 8 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Một đợt tự phê bình và phê bình đã được tiến hành trong các cấp lãnh đạo của Đảng từ trên xuống, bắt đầu từ cấp cao nhất là Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nghị quyết TW 4 thể hiện mạnh mẽ tinh thần chỉnh đốn Đảng. Đợt tự phê bình và phê bình được coi như bước đột phá đầu tiên. Những kết quả đạt được là tích cực, nhưng mới là bước đầu. Để thực hiện đầy đủ tinh thần và nội dung của Nghị quyết TW4 và nói rộng hơn, của Nghị quyết Đại hội XI, XII về xây dựng Đảng, chúng ta còn phải làm rất nhiều việc và cần nhiều thời gian hơn nữa.

Thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình trong nội bộ, thường xuyên rèn luyện để nâng cao năng lực, phẩm chất và đạo đức (mà nay cần hết sức nhấn mạnh đạo đức), đó là những công việc phải làm của một đảng cách mạng chân chính. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”./.

Những bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917

100 năm, Cách mạng Tháng Mười không chỉ là biểu tượng sáng ngời về khát vọng và sức mạnh của CNXH, mà nhiều bài học lớn, bổ ích từ Cách mạng Tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị trong thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người. Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ngày càng thấm nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười.
Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công
Thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và trên cơ sở liên minh công nông ngày càng vững chắc, trong mỗi giai đoạn cách mạng, cần tập hợp mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ thành một mặt trận rộng rãi, thực hiện thống nhất hành động dưới nhiều hình thức giữa các lực lượng ấy để chống kẻ thù chung
Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền
Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng
Không ngừng tǎng cường và củng cố nền chuyên chính vô sản. Sau khi đã giành được chính quyền thì nhiệm vụ hàng đầu của giai cấp công nhân là phải tǎng cường nền chuyên chính vô sản để hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng, triệt để xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản
Trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa một bên là giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức với một bên là bọn đế quốc cùng bè lũ tay sai bán nước, bọn phong kiến địa chủ và tư sản phản động, nhân dân các nước cần có tinh thần cách mạng triệt để, luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến cùng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khǎng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa.
“Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”, Lời kêu gọi thiêng liêng ấy của Lênin còn vang mãi bên tai chúng ta, nhắc nhở chúng ta luôn luôn bảo vệ và tǎng cường tình đoàn kết vĩ đại giữa các lực lượng cách mạng vì lợi ích chung của giai cấp công nhân và của loài người.

Thứ Tư, 20 tháng 9, 2017

Tầm vóc lịch sử thế giới và ý nghĩa vạch thời đại của Cách mạng Tháng Mười

Cách đây vừa đúng 100 năm, một cuộc cách mạng đã nổ ra và thắng lợi ở nước Nga - Tổ quốc của Lênin vĩ đại. Ðó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, binh sĩ cách mạng và đông đảo quần chúng lao động ở nước Nga tiến hành dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đứng đầu là Lênin - nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng vô sản.
Sự kiện này không chỉ đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Nga, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa và những tàn dư của chế độ chuyên chế Nga hoàng, giải phóng cho công - nông và nhân dân lao động, đưa họ tới địa vị của người làm chủ xã hội, mà còn làm rung chuyển thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga để lại một dấu ấn đặc biệt không thể phai mờ trong lịch sử thế giới hiện đại, trong ký ức và lương tâm của loài người tiến bộ.
Mở ra một thời đại mới, Cách mạng Tháng Mười đồng thời còn mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống lại ách áp bức, bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ mọi hình thức nô lệ, vươn tới tự do, bình đẳng, thực hiện quyền tự quyết dân tộc.
Với Cách mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản và Lênin đã cống hiến cho nhân loại một mẫu mực về khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền; về khoa học và nghệ thuật nắm bắt tình thế và thời cơ cách mạng, hành động mau lẹ và kiên quyết, kết hợp nhiệt tình cách mạng, lòng dũng cảm và sức sáng tạo của quần chúng với tính tổ chức và kỷ luật của đội tiên phong cách mạng để giành chiến thắng.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười chứng thực sức mạnh có tổ chức quần chúng đông đảo, mà nòng cốt là công - nông - binh, trong giờ phút quyết định đã vùng dậy, tự giải phóng, lật đổ quyền lực thống trị tư sản, giành quyền lực về tay mình, xác lập quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước kiểu mới của số đông, đó là quyền tự do, dân chủ của những người lao động được cách mạng giải phóng và trở thành những người chủ của chế độ mới.
Do đó, Cách mạng Tháng Mười Nga khác về căn bản so với các cuộc cách mạng trước đó, nó thủ tiêu mọi hình thức bóc lột, chứ không phải đem hình thức bóc lột này thay thế cho hình thức bóc lột khác. Nó vượt qua tính hạn chế, nửa vời của các cuộc cách mạng trong quá khứ, kể cả cách mạng tư sản dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Với Cách mạng Tháng Mười, lần đầu tiên trong lịch sử, CNXH hiện thực đã ra đời.
Từ đây, CNXH được biết đến không chỉ là học thuyết lý luận, mà còn là một chế độ xã hội kiểu mới, không chỉ là lý tưởng, khát vọng giải phóng và mục tiêu phát triển, mà còn là sức mạnh giải phóng trong thực tế, là chế độ xã hội XHCN đã trở thành hiện thực sinh động.
Tầm vóc lịch sử thế giới và ý nghĩa vạch thời đại của Cách mạng Tháng Mười còn ở chỗ, dù mới chỉ có nước Nga Xô-viết, Nhà nước XHCN duy nhất,  nhưng vào lúc bấy giờ, sự xuất hiện cái mầm non mới nhú đó đã chứng tỏ một sự thật là, CNXH đã phủ định về nguyên tắc đối với CNTB.
100 năm đã đi qua trong lịch sử Cách mạng Tháng Mười, cũng đồng thời là lịch sử của CNXH hiện thực.
Thế hệ những người cách mạng làm nên kỳ tích Tháng Mười đã trao truyền cho các thế hệ sau một di sản vĩ đại và thiêng liêng. Nhân dân các dân tộc, trong đó có Việt Nam và cả loài người mang ơn sâu nghĩa nặng với Cách mạng Tháng Mười.
Thời gian càng lùi xa, âm hưởng của Cách mạng Tháng Mười, cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong thế kỷ XX càng có sức vang vọng. Thế giới đổi thay nhanh chóng, lịch sử đầy ắp các sự kiện, các tình huống biến cố thăng trầm, nhưng Cách mạng Tháng Mười mãi mãi còn được nhắc tới bởi nó đã mở đầu và tạo dựng nên một diện mạo mới của lịch sử, một tầm vóc có một không hai của thời đại mới. Cách mạng Tháng Mười không phải là một hiện tượng thuần Nga, cũng không phải là sản phẩm được tạo ra từ sự cuồng nhiệt của ý chí và không tưởng mà những kẻ thù của cách mạng, những kẻ cơ hội và phản bội lý tưởng từng xuyên tạc, bóp méo lịch sử, mưu toan xóa bỏ ảnh hưởng, tầm vóc của cuộc cách mạng này trong đời sống ý thức xã hội.
Bản chất của lịch sử là tường minh, khách quan và công bằng. Cách mạng là đầu tàu của lịch sử, là ngày hội vĩ đại biểu dương sức mạnh sáng tạo của quần chúng. Những giá trị sáng tạo đích thực, chân chính được cách mạng sản sinh đã trở thành những giá trị, những tài sản văn hóa nhân loại không gì phủ nhận được. Cách mạng Tháng Mười là một cuộc cách mạng như thế. Lịch sử CNXH hiện thực gắn liền với lịch sử Cách mạng Tháng Mười. Sức sống, triển vọng và xu thế phát triển của CNXH, tự bản thân nó đã tôn vinh, khẳng định và bảo vệ chân giá trị của cuộc cách mạng này. Ðó là chân lý và đạo lý của lịch sử mà các thế hệ những người cách mạng cùng với nhân dân và nhân loại tiến bộ luôn nhận thức và hành động trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và CNXH.

GIÁ TRỊ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA NĂM 1917

Mặc dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ, nhưng Cách mạng Tháng Mười vẫn để lại những giá trị vĩ đại và bền lâu, mà không ai phủ nhận, xuyên tạc được.
Cách mạng Tháng Mười đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đường phát triển theo hướng tiến bộ, nhân văn cho loài người - đó là giá trị đầu tiên, to lớn nhất. Cách mạng Tháng Mười đã xóa bỏ chế độ Nga hoàng và giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, xóa  bỏ áp bức giai cấp, áp bức dân tộc… đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, khát vọng ngàn đời của nhân loại cần lao mong muốn thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột, bất công; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc đã trở thành hiện thực sinh động của hàng trăm triệu con người, nhiều dân tộc ngưỡng vọng, phấn đấu noi theo.
Như vậy, Cách mạng Tháng Mười đã biến chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận trở thành hiện thực; chủ nghĩa xã hội đã phủ định chủ nghĩa tư bản. Từ đây, chiều hướng phát triển chủ yếu, trục xuyên suốt của sự vận động lịch sử là đấu tranh xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế dần trở thành lực lượng nòng cốt của các phong trào cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc đã có xu hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa... Hiện nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Liên Xô đã đóng góp giúp đỡ to lớn phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đứng đầu là Liên Xô đã từng là lực lượng lớn mạnh, có tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự to lớn, đủ sức răn đe, ngăn chặn sự hiếu chiến, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Với sự ủng hộ nhiệt tình, to lớn của Liên Xô, phong trào giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phát triển như vũ bão; phong trào cộng sản- công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới lớn mạnh không ngừng. Liên Xô đã thực sự là thành trì của hoà bình, an ninh quốc tế, góp phần chủ yếu cứu loài người khỏi thảm hoạ phát xít. Nhờ đó, trong  những năm 1960, có khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc ở các mức độ khác nhau, một số nước trong đó lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ một nước phát triển thành một hệ thống thế giới, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt hành tinh. Nếu không có Cách mạng tháng Mười, không có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước  xã hội chủ nghĩa, thì những biến đổi tiến bộ trên thế giới ắt đã bị chậm lại.
Cách mạng Tháng Mười Nga ảnh hưởng to lớn đến cách mạng Việt Nam. Như một sự tất yếu lịch sử, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với Cách mạng Tháng Mười. Người đã xác định rõ cách mạng Việt Nam phải đi theo Cách mạng Tháng Mười. Bởi: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi”. Từ đây Người đã xác định rõ con đường, lực lượng, phương pháp cách mạng Việt Nam: đánh đổ thực dân phong kiến, tư sản phản động, giành độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Lực lượng cơ bản của cách mạng là công nông: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là bầu bạn của cách mệnh”. Sử dụng phương pháp bạo lực của quần chúng nhân dân: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại được”. Cách mạng Việt Nam cũng là một bộ phận và quan hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới, để chống lại tư sản và đế quốc. Tuy vậy, chúng ta không được trông chờ, ỷ lại mà phải phát huy sức mạnh dân tộc, “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Để cách mạng Việt Nam thắng lợi nhất thiết phải phải xây dựng được một Đảng kiên trung, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nòng cốt: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Từ đó Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam; tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, Liên Xô đã ủng hộ to lớn, toàn diện công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Nếu không có sự giúp đỡ quý báu, chí tình, chí nghĩa đó, cách mạng Việt Nam ắt sẽ gặp không ít khó khăn, và khó có được thành tựu như hiện nay. Chúng ta biết ơn sự ủng hộ giúp đỡ vô cùng trong sáng, vô tư, to lớn, quý báu đó.



Lý tưởng và thành tựu vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917

Cuộc tấn công của hàng nghìn công nhân cùng với các chiến sĩ Cận vệ đỏ và binh sĩ cách mạng vào Cung điện Mùa Đông trong đêm 25 tháng 10 (theo lịch Nga) - tức ngày 7-11-1917 đã đưa cuộc Cách mạng Tháng Mười đến thắng lợi hoàn toàn. Cũng trong đêm 7-11-1917, Đại hội Xô viết (Liên Xô) toàn Nga đã khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập chính quyền Xô viết do Lênin đứng đầu.
Lịch sử không thể thay đổi. Người ta chỉ có thể thay đổi cách nhìn nhận về lịch sử tùy theo quan điểm và lợi ích chính trị của mình mà thôi. Cho dù Liên Xô đã tan rã, các thế lực thù địch với CNXH có xuyên tạc, bôi nhọ nhưng người ta không thể phủ nhận được lý tưởng, những giá trị và thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng này gắn với sự ra đời và tồn tại trên 70 năm của Nhà nước Xô viết (1917-1991) và một thế kỷ qua (1917-2017) sự tồn tại các nhà nước đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười.
Nói về cuộc Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự tồn tại của chế độ XHCN, thì không thể có sự kiện, từ một quốc gia phát triển trung bình ở châu âu, chỉ sau hai kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hóa (1929-1939), nước Nga và Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết đã trở thành một quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đủ sức đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai. Những năm sau chiến tranh, nhà nước Liên Xô đã phát triển vượt bậc trở thành cường quốc quân sự, đủ sức làm đối trọng với chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, Liên Xô trở thành quốc gia đi đầu trong lĩnh vực chinh phục không gian vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác.
Không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự tồn tại của chế độ XHCN, thì không thể có sự kiện nước Nga lạc hậu trở thành một quốc gia phát triển về nhiều mặt, từ công nghiệp đến nông nghiệp; từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật như mạng lưới điện, hệ thống giao thông vận tải, đến hạ tầng xã hội. Đặc biệt, Nhà nước Xô -viết đã thực hiện chính sách xã hội tiên tiến, đó là thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già cô đơn được chăm sóc, nuôi dưỡng. 

Có thể nói, dưới chế độ XHCN, Liên Xô đã trở thành một nền văn hóa mới, hiện đại. Cho đến nay những công trình văn hóa, khoa học dưới thời Xô viết vẫn là một thành tựu của nhân loại, được các dân tộc tôn trọng. Thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga năm 1917 cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị về lý tưởng và thành tựu vỹ đại, bài học kinh nghiệm, vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước của các nước tiến bộ trên thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ của nhân loại./.

Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Chống phá, lật đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Hiện nay, chúng chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất mãn trong nước gây rối, làm mất ổn định xã hội ở một số vùng nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và Tây Nghệ An của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo, mua chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương và uy hiếp các đơn vị lực lượng vũ trang. Ở Tây Bắc, chúng kích động người H’ Mông đòi thành lập khu tự trị riêng. Ở Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần đây nhất là ở Nghệ An, một số phần tử quá khích trong tôn giáo đã lợi dụng những thiếu sót của ta trong công tác quản lý xã hội ở địa phương, kích động đồng bào giáo dân biểu tình chống đối chính quyền, tuyên truyền bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, v.v... Gây mất ổn định chính trị ở địa phương, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân, nhất là thế hệ trẻ (thanh niên, học sinh, sinh viên) vào chủ nghĩa xã hội mà trực tiếp là vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để tăng sức mạnh.
Vì vậy, chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lý trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài. Hoạt động đấu tranh, xử lý bạo loạn luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, cơ quan tham mưu và phối hợp thống nhất hành động cho các lực lượng tham gia. Kịp thời phân hóa, cô lập và đấu tranh kiên quyết với bọn đầu sỏ, cực đoan, giáo dục vận động những người dân lầm đường, lạc lối.

Thanh niên, học sinh, sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, đồng thời cũng là một đối tượng mà các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá nhằm làm suy thoái về đạo đức, lối sống và phai nhạt niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mỗi người phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, cống hiến cho đất nước, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và góp phần đấu tranh, ngăn ngừa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, hòng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Tự do hóa thương mại ở Việt Nam

Nghiên cứu âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta bắt gặp không ít luận điểm tìm cách xuyên tạc, chống phá thể hiện trên nhiều góc độ, nội dung trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,... không chỉ công kích đường lối đổi mới kinh tế mà còn dùng sức ép kinh tế đòi thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta khi chúng ta tham gia ký kết các hiệp định kinh tế khu vực và liên khu vực. Trên thực tế, thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp, gây áp lực kinh tế, chính trị, chúng đòi Việt Nam phải tư nhân hóa nền kinh tế, hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, bởi theo chúng, kinh tế nhà nước là ung nhọt, là sân sau của những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải đất nước, để từ đó thúc đẩy khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, tự do hóa thương mại, tự do hóa thị trường theo hướng kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế, nhất là tự do hóa thương mại trong tình hình hiện nay ở nước ta là một nhiệm vụ, hình thức đấu tranh đặc biệt quan trọng. Theo đó, cần hiểu cho chắc tự do hóa thương mại ở Việt Nam là gì:
Tự do hóa thương mại là việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để làm cho luồng hàng hóa và dịch vụ di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn. Tự do hóa thương mại trước hết nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu của mỗi nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hóa và dịch vụ nước ngoài dễ dàng xâm nhập vào.
Các biện pháp để mở rộng tự do hóa thương mại quốc tế bao gồm việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thương mại và kinh tế; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và tổ chức thương mại quốc tế; chủ động xây dựng lộ trình cắt giảm thuế quan và phi thuế quan theo các cam kết; điều chỉnh chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu như chính sách đầu tư, tỷ giá hối đoái, tín dụng theo chiều hướng nới lỏng sự can thiệp của nhà nước; hình thành các thể chế thương mại phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Quá trình này gắn liền với các biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
Lợi ích lớn nhất của tự do hóa thương mại là thúc đẩy trao đổi, buôn bán, phát huy lợi thế so sánh của các nước, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Đối với người tiêu dùng (bao gồm cả những nhà nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất ra hàng hóa), tự do hóa thương mại sẽ tạo cho họ cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt hơn với giá hợp lý hơn.
Nhận thức được tính khách quan của tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế, ngay từ Đại hội VII (1991), Đảng ta đã đề ra chủ trương: “Đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia”, “Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh”, và “gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện”. Đại hội X (2006), chủ trương: Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tới Đại hội XI (2011), chủ trương này tiếp tục được nâng tầm thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, trong đó, Việt Nam không chỉ “là bạn, đối tác tin cậy” mà còn là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”; hai định hướng lớn là “phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư” và “tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỷ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu”.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương tự do hóa thương mại và lồng ghép chủ trương này trong các định hướng về hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nhiệm vụ: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tư do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước”. Để việc tự do hóa thương mại đem lại hiệu quả cao nhất, Đại hội cũng thông qua các định hướng như: phát triển mạnh thị trường trong nước, mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài nước, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường; đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp, phấn đấu cân bằng thương mại bền vững; nâng cao chất lượng sản phẩm; tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi của các hiệp định, thỏa thuận thương mại để thúc đẩy xuất khẩu.
Tự do hóa thương mại trên cơ sở phải giữ vững độc lập, tự chủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, trong đó cốt lõi là bảo đảm an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh thông tin, ... mang bản sắc Việt Nam. Tự do hóa thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân

Sự ra đời của nhà nước pháp quyền đã đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người, là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật luôn mang tính giai cấp, là sự hiện thực hóa ý chí của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội tuân theo. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ý chí của giai cấp thống trị thống nhất với ý chí và nguyện vọng của đa số người dân, nên pháp luật được xây dựng dựa trên cơ sở ý trí, nguyện vọng của người dân, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của người dân. Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân và do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số người do hạn chế về nhận thức hoặc bất đồng về chính kiến đã có quan điểm không đúng khi cho rằng: “đã có pháp quyền, tại sao phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, hay “trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Đảng, nhà nước, cán bộ, công chức của Đảng, nhà nước đứng ngoài pháp luật”… Mục đích của các quan điểm này nhằm phủ nhận các giá trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ca ngợi nhà nước pháp quyền của các nước phương Tây. Trước những luận điệu đó, cần nhận thức đúng đắn một số vấn đề sau:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Mỗi quốc gia, dân tộc có đặc điểm lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội, thể chế chính trị khác nhau thì có nhà nước pháp quyền khác nhau. Nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Như vậy, Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng là điều bình thường, không có gì là trái với quy luật khách quan cả.

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các đảng phái, tổ chức, tôn giáo, công dân phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo... của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Đảng Cộng sản là người lãnh đạo toàn diện, mọi mặt xã hội, lãnh đạo cả hệ thống chính trị, nhưng Đảng Cộng sản cũng là một thành viên trong hệ thống chính trị, mọi hoạt động của Đảng, cũng như hoạt động của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Đảng và nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm Hiến pháp và pháp luật. Không có một tổ chức, hoặc cá nhân nào có thể đứng trên, hay đứng ngoài pháp luật được.

NHẬN THỨC, CẢNH GIÁC VỚI “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

Những năm qua, việc phủ nhận, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “đột phá khẩu” để các thế lực thù địch, các thế lực phản động, thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,... phối hợp chống phá sự nghiệp cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Vì vậy, cần nhận thức đúng, nâng cao cảnh giác với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tự diễn biến là sự thay đổi ngay từ nội bộ, sự thay đổi theo chiều hướng xấu, chiều hướng tiêu cực. Tự diễn biến xảy ra ở hai phạm vi: đối với tổ chức và cá nhân. Đối với tổ chức, là những thay đổi ở tầm quản lý vĩ mô về đường lối, chủ trương, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí suy yếu và tan ra tổ chức đó. Còn đối với cá nhân, là sự thay đổi về nhân thực chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi; tự bản thân cán bộ, đảng viên nhận thức chính trị và hành động xa rời, thậm chí đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư tưởng của Đảng. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức và ngược lại “tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan của cán bộ, đảng viên, như: lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu bản lĩnh chính trị, hoang mang, dao động trước tác động của các yếu tố bên ngoài; thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân thường xuyên; không chủ động học tập, nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, tư tưởng của Đảng...
Tự chuyển hóa là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến” nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã có sự chuyển hóa, thay đổi về bản chất. Biểu hiện chuyển hóa chính trị ở Việt Nam xuất hiện từ hai hướng: một mặt, đó là âm mưu và hoạt động tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch; mặt khác, đó là sự “tự chuyển hóa” chính trị của nội bộ ta. Tuy nhiên, hai hướng này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Yếu tố bên ngoài thúc đẩy, tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo sự chú ý và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, “tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị nên hết sức nguy hiểm. Do vậy, phương châm, nguyên tắc bảo đảm an ninh nội bộ, phòng, chống chuyển hóa chính trị là phải chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính.
Yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ được thể hiện cụ thể là: xuất hiện các quan điểm, tư tưởng lệch lạc, trái chiều trong nội bộ; sự mất lòng tin đối với lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự xuống cấp về đạo đức, thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, muốn theo hướng phát triển tư bản chủ nghĩa; công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu  sơ hở, thiếu sót; tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, tổ chức; một bộ phận trong đội ngũ trí thức, luật sư, báo chí, văn nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng muốn thoát lu khỏi sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội XII: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước”.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, Đại hội XII của Đảng xác định: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”



Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu khách quan

Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp quyền. Hiện nay các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc xác định mục đích, nội dung, phương hướng và biện pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ được đông đảo người dân ở các nước này, mà còn cả những người dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đồng tình, ủng hộ.
Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Xuất phát từ nhu cầu, khát vọng của con người mong muốn có một xã hội tiến bộ, công bằng, không có áp bức, bóc lột mà ở đó pháp luật giữ vị trí thượng tôn trong xã hội mà các nhà hiền nhân trí sĩ đã hướng con người tới việc phải xây dựng cho được Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của nhân dân, bảo đảm chủ quyền của nhân dân là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước... Đồng thời, còn xuất phát từ bản chất và tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi người dân trên các phương diện khác nhau của đời sống xã hội, mà vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa đặt ra như một tất yếu khách quan. Không chỉ có vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn chứa đựng những rủi ro bởi sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, cùng với đó những biểu hiện của tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên cần có những cơ chế, chính sách, điều luật đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn, tiêu diệt những hiện tượng đó, đảm bảo cho pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực thi đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy được tác dụng của mình.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền mang bản chất của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành xã hội trên cơ sở hiến pháp và pháp luật với mục đích đảm bảo quyền lực cho nhân dân. Giá trị xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là việc tạo ra một hệ thống các quan hệ bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong tất cả các lĩnh vực xã hội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động, điều này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội. Khi nhân dân được làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đương nhiên mọi công dân đều có quyền lực. Toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến những nguyên tắc tổ chức đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. 

Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

Giải pháp đấu tranh chống “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch hiện nay

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Đây là giải pháp quan trọng nhất để giành thắng lợi trong “trận chiến văn hóa” mà các thế lực thù địch tiến hành ở Việt Nam. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng bảo đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, phát huy khả năng sáng tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, làm hạn chế sự sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa.
Thứ hai, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Một trong những vấn đề nền tảng trong cuộc chiến chống “xâm lăng văn hóa” là chúng ta cần tạo ra sức đề kháng, đó chính là môi trường văn hóa lành mạnh ở ngay mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị và mỗi gia đình. Đây cũng là phương châm kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhân tố quyết định, “chống” là quan trọng. Quán triệt tinh thần đó, các cấp, các ngành, các tổ chức, cơ quan, đơn vị và các địa phương cần cụ thể hóa đường lối văn hóa của Đảng, tiến hành đồng bộ các giải pháp phù hợp với thực tiễn để hướng dẫn, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia có hiệu quả vào xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, tăng cường giáo dục, bồi đắp giá trị văn hóa giữ nước, nâng cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức trách nhiệm cho mọi công dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong thực hiện, các cấp, các ngành cần quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”. Trên cơ sở đó, cần phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp và các tầng lớp nhân dân; trong đó, cơ quan chủ trì công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng ở các cấp là nòng cốt; các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn học, nghệ thuật,… là lực lượng tiên phong; mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường và tổ chức trong xã hội là nền tảng, bảo đảm những giá trị văn hóa nói chung, văn hóa giữ nước nói riêng được giáo dục, tuyên truyền ngay từ mỗi gia đình, dòng tộc, đến nhà trường và xã hội.
Thứ tư, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, để đặt ách đô hộ đối với Việt Nam, các thế lực xâm lược luôn tìm mọi cách để đồng hóa dân tộc ta, trước hết về văn hóa. Song, lịch sử cũng chứng minh rằng, không có một thế lực nào thực hiện được dã tâm đó, bởi nền văn hóa đặc sắc đã được hình thành, thử thách, tôi luyện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước đã trở thành cốt cách, nền tảng của dân tộc ta. Để văn hóa thực sự là công cụ bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, chống lại sự “xâm lăng văn hóa” của kẻ thù, chúng ta phải quán triệt, thực hiện tốt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giải quyết hài hòa mối quan hệ, lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung và tôn trọng những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc không trái với lợi ích quốc gia, dân tộc, tạo động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong một thế giới đầy biến động ngày nay, nhiều tổ chức, nhà đầu tư, du khách quốc tế tìm đến Việt Nam vì sự ổn định về chính trị và cũng vì một Việt Nam lôi cuốn, hấp dẫn bởi nét văn hóa đặc sắc, độc đáo đó. Song, các thế lực thù địch không muốn Việt Nam phát triển theo đường lối độc lập, tự chủ. Cái họ muốn là đất nước Việt Nam từ bỏ quá khứ, từ bỏ bản sắc của mình để “hòa nhập”, “phát triển” theo ý đồ của họ, mà thực chất là “hòa tan” vào văn hóa phương Tây. Điều đó lý giải vì sao chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ngày càng đẩy mạnh “xâm lăng văn hóa” đối với Việt Nam. Vì vậy, nhận diện đúng và kiên quyết đấu tranh chống “xâm lăng văn hóa” không chỉ là một yêu cầu quan trọng, cấp bách trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay mà còn góp phần thiết thực đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người Việt Nam. Đó chính là yếu tố bảo đảm cho Việt Nam trường tồn và phát triển.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn

Nhận diện thủ đoạn “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch hiện nay

Mục tiêu “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch là tiêm nhiễm văn hóa xấu độc, làm xói mòn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; đồng thời, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, phản bội lại Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đối tượng chúng hướng tới là nhân dân, trước hết là lớp trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, bản lĩnh chưa vững vàng, còn ít kinh nghiệm sống. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu trò thâm hiểm; đặc biệt là chiến thuật “tâm công” theo phương châm “mưa dầm thấm lâu” để đánh vào lòng người. Chúng lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông để truyền bá các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai cùng những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất tầm thường của mỗi người. Qua đó, từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một số người sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm; khơi dậy bản năng thấp hèn, chạy theo lạc thú, lợi ích vật chất, chỉ lo “cái tôi” mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị hiện hữu tốt đẹp của dân tộc. Cùng với công kích chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước. Chúng tuyên truyền các giá trị văn hóa phương Tây; phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa - văn nghệ và đòi tách lĩnh vực này ra khỏi đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Đồng thời, đề cao chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội trong văn hóa - văn nghệ; hạ bệ những tác phẩm đỉnh cao chứa đựng sâu sắc tính nhân văn, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta,… tiến tới phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa - văn nghệ. Đặc biệt là, các thế lực thù địch còn dùng mọi thủ đoạn để kích động, lôi kéo, lung lạc đội ngũ nhà văn, nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật; thực hiện âm mưu ly gián về nhân tâm, tư tưởng và chia rẽ về tổ chức, lôi kéo văn nghệ sĩ đi theo các trào lưu tư tưởng văn hóa phương Tây, đào sâu “tự do, dân chủ” trong sáng tác, thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập” để đối trọng với Hội Nhà văn Việt Nam.... Thậm chí, họ còn dùng những tác phẩm văn học, nghệ thuật để tạo cớ gây áp lực đòi “nhân quyền”, kích động bạo lực và lối sống thực dụng, dung tục, hòng làm phai mờ những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là mưu đồ rất thâm độc của các thế lực thù địch khi thực hiện “xâm lăng văn hóa” đối với nước ta.

CẦN NHẬN BIẾT RÕ NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ

Hiện nay có nhiều quan niệm nguồn gốc ra đời của trào lưu xã hội dân chủ (chủ nghĩa xã hội dân chủ) là từ chủ nghĩa Mác, đồng nghĩa với chủ nghĩa xã hội khoa học; họ cho rằng thực chất chủ nghĩa xã hội dân chủ là chủ nghĩa xã hội. Đây là quan điểm hết sức sai trái, cần phải vạch rõ nguồn gốc của xã hội dân chủ để nhận biết được bản chất của trào lưu này.
Trào lưu xã hội dân chủ được xây dựng bởi những đại diện của nhiều trào lưu chính trị khác nhau: “Học thuyết của đạo Cơ đốc về hình ảnh con người và những yêu cầu đạo đức của con người, các quyền của con người do cách mạng Pháp tuyên bố, luận lý học và những tư tưởng khai hóa của Kant, triết học biện chứng của Hêghen về lịch sử, sự phê phán của chủ nghĩa Mác đối với chủ nghĩa tư bản, sự phê phán của Bectanh đối với chủ nghĩa Mác. Lý thuyết tự phát của Rôda Lúc xăm bua và sự phê phán chủ nghĩa bônsêvich, chủ nghĩa tự do của sumakho và nhiều khác nữa – tất cả những cái đó là hành động nối tiếp nhau, tác động lẫn nhau để nhận thức chủ nghĩa xã hội dân chủ”.
  Cương lĩnh của Đảng Dân chủ xã hội Đức cũng đã nghi nhận: “CNXH dân chủ ở châu Âu có cội nguồn tinh thần trong đạo Cơ đốc giáo, trong triết học nhân văn, trong triết học cận đại, trong học thuyết xã hội và lịch sử của Mác, trong những kinh nghiệm của phong trào công nhân”.
Nhìn chung, trào lưu xã hội dân chủ có ba cuội nguồn:
- Triết học đạo đức của thời kỳ Khai sáng (đại biểu triết đạo đức Kant). Ông giữ vững vai trò rất quan trọng trong triết học cổ điển Đức.
- Đạo Thiên chúa thiên tả. Từ thời Cộng hòa Ưeimar đã có những người theo đạo Thiên Chúa có tư tưởng dân chủ xã hội tồn tại trong Đảng Dân chủ xã hội và trong công đoàn. Họ cho rằng trong Kinh thánh đã ghi rõ: Mọi người phải sống với nhau một cách bình đẳng, bác ái. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải xây dựng một xã hội sao cho có sự bình đẳng, bác ái, kể cả chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Nếu không làm được điều đó có nghĩa là vi phạm kinh thánh.
  - Chủ nghĩa Mác trong thời kỳ dài có thể được coi là cội nguồn của trào lưu xã hội dân chủ. Chủ nghĩa Mác trong suốt nửa thế kỷ đã đóng vai trò quan trọng đối với trào lưu này ở châu Âu và đặc biệt đối với phong trào dân chủ xã hội Đức. Song ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác trong đảng dân chủ xã hội ở châu Âu rất khác nhau.
 Ba cội nguồn trên có ngay từ buổi đầu và song song tồn tại trong trào lưu dân chủ xã hội. Lúc đầu chủ nghĩa Mác là mạnh nhất, còn lại hai cội nguồn khác yếu hơn. Nhưng quá trình phát triển của trào lưu này, tương quan của ba cội nguồn này cũng thay đổi. Trào lưu xã hội dân chủ đã nhiều lần tự thích nghi với những điều kiện đang thay đổi và mỗi lần thích nghi nó lại càng xa rời nguồn gốc ban đầu của nó.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội dân chủ là chiết trung, hỗn tạp hệ tư tưởng  không cố định luôn thay đổi lý luận họ (chưa rõ ràng) thực chất là phục vụ cho giai cấp tư sản. Họ thừa nhận chế độ sở hữu của giai cấp tư sản, thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân… Từ nguồn gốc đó, có thể thấy bản chất trào lưu xã hội dân chủ khác hoàn toàn với chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội.

NHẬN DIỆN MỘT SỐ HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG KHÔNG GIAN MẠNG CHỐNG PHÁ NƯỚC TA

Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới, bên cạnh những mặt tích cực thì nó còn tiềm ẩn những yếu tố đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, điển hình là tình trạng các thế lực thù địch, phản động sử dụng không gian mạng để tuyên truyền, xuyên tạc, đưa thông tin “thật, giả lẫn lộn” nhằm phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình, gây rối, bạo loạn với mục đích không đổi là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ độc lập dân tộc và chế độ chính trị XHCN ở nước ta. Các hoạt động chống pháp của chúng trên không gian mạng được nhận diện qua một số phương thức như sau:
Một là, tuyên truyền phá hoại tư tưởng của quần chúng nhân dân thông qua mạng internet nhằm truyền bá những quan điểm, tư tưởng sai trái, tác động vào nhận thức, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ ta. Có thể nói, trên không gian mạng hiện nay, được sự hậu thuẫn về tài chính cùng với lợi dụng những tính năng của các phần mềm, chúng đã lập ra nhiều trang mạng phản động, nhiều blog cá nhân, đặc biệt là qua các trang mạng xã hội như facebook, Youtube để tung ra những luận điệu nhằm phê phán nền tảng tư tưởng của chế độ ta, bôi nhọ, hạ bệ các thế hệ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, thông qua mạng internet, các ổ nhóm phản động lưu vong đã móc nối, tập hợp lực lượng để lôi kéo quần chúng nhân dân; thành lập các hội, nhóm trong nước để tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Trong thời gian vừa qua, nhiều tổ chức phản động được tiếp tục thành lập với nhiều tên gọi, nhiều vỏ bọc để tiến tới hình thành một xã hội dân sự ở Việt Nam. Đây là một âm mưu rất thâm độc. Các nhóm xã hội dân sự này bất tuân theo các quy định của pháp luật, vì thế chúng chỉ dám lợi không gian mạng để kêu gọi và công khai các hội, nhóm của mình. Được sự chỉ đạo cũng như tài trợ về kinh phí nên các hội, nhóm này thành lập ngày một đông với đủ các thể loại khác nhau như: Hội văn đoàn độc lập Việt Nam; Hội nhà báo độc lập; Hội cựu tù nhân lương tâm; Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam; Mạng lưới blogger Việt Nam…
Ba là, thông qua mạng internet, kích động biểu tình nhằm tiến tới phá rối an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây bạo loạn ở một số địa phương. Đáng chú ý, thời gian gần đây, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, tham ô, tham nhũng, … các phần tử cực đoan đã ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước như lợi dụng vụ việc gây ô nhiễm môi trường của công ty Formosa, khiếu kiện đất đai ở Đồng Tâm, những sai phạm của một vài cán bộ, đảng viên như Trịnh Xuân Thanh để nói xấu Đảng, kích động, gây rối dẫn tới mất ổn định an ninh xã hội kéo dài ở một số địa phương.
Bốn là, gần đây, các thế lực thù địch tăng cường thủ đoạn ghép nối clip, hình ảnh, âm thanh có liên quan đến một số lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta và các cơ quan chức năng đang thực hiện nhiệm vụ… để xuyên tạc, bóp méo sự thật, gây nhiễu thông tin, câu like trên không gian mạng… Đây là thủ đoạn nguy hiểm, thâm độc mà chúng muốn hướng đến đối tượng thanh niên, sinh viên, hòng bôi nhọ, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước ta.

Trên đây là một số thủ đoạn cơ bản lợi dụng không gian mạng của các tổ chức phản động để tiến hành các hoạt động phá hoại sự nghiệp phát triển của đất nước. Vì vậy, đối với mỗi người dân đất Việt, đặc biệt là các bạn trẻ khi tham gia vào không gian mạng cần phải nêu cao cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình trước ánh sáng công lý và pháp luật. 

Thứ Năm, 14 tháng 9, 2017

XIN ĐỪNG ĐẦU ĐỘC TÂM HỒN TRẺ THƠ, THƯA CÁC CHA XỨ


Chăm sóc, bảo vệ, nuôi dưỡng thiếu niên, nhi đồng – những chủ nhân tương lai của nước nhà là nghĩa vụ, trách nhiệm của cả cộng đồng. Hiện nay cả xã hội đang nỗ lực để các em được nuôi dưỡng, đắp bồi bằng tinh hoa và văn minh của nhân loại, thì ở nơi “tôn nghiêm, thánh thiện” lại đang đầu độc, hủy hoại những tâm hồn trẻ thơ trong trắng bằng sự nhồi nhét những tư tưởng “bạo quyền”, “đàn áp”, “lừa dối”, “vu cáo”, “côn đồ”... bởi những kẻ “chăn dắt” phần hồn. Cụ thể, chiều ngày 03/09/2017 vừa qua. Khi hàng triệu các em học sinh, sinh viên nô nức chuẩn bị cho lễ khai giảng năm học mới 2017-2018 thì những vị linh mục cực đoan đã tiến hành cái gọi là “hưởng ứng thông báo của Đức Giám Mục Phao-lô Nguyễn Thái Hợp vị cha chung của giáo phận”. Sau thánh lễ Chúa nhật toàn thể các em Thiếu nhi thánh thể trong xứ đoàn Đaminh Savio giáo xứ Dũ Yên, đã xuống đường tuần hành và tiến hành hoạt động được những vị chủ chăn ở đây núp dưới danh nghĩa “mời gọi ông bà cha mẹ hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxico về việc chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên lần thứ III”.
Vụ việc nếu diễn ra như đúng bản chất của nó là “chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên” thì không phải nói làm gì, vậy nhưng thực tế việc đẩy các em thiếu nhi xuống đường “tuần hành” là âm mưu của những kẻ nhẫn tâm đang đầu độc những tâm hồn trẻ thơ với những băng rôn, khẩu hiệu thể hiện sự ngông cuồng, chống phá chính quyền mà vị Đức Cha của giáo phận đã thực hiện như bấy lâu nay. Thử hỏi xem các em thiếu nhi hiểu những băng rôn cầm trên tay với những dòng chữ: “Quyết sống chết với sông quyền”, “Cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình ngự trị trên quê hương Việt Nam”.... là như thế nào?
Phải chăng “Cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình” là kích động giáo dân tụ tập thêm người hòng gây áp lực lên chính quyền để “kiện” những điều vô lý, thiếu căn cứ pháp luật, lợi dụng triệt để lòng tin của giáo dân để gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống sản xuất của người dân, đi ngược đường hướng, giáo lý, giáo luật của Công giáo, trái với chức trách, bổn phận của chức sắc tôn giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của Giáo hội Công giáo Việt Nam và những tín đồ chân chính khác như những gì mà Đức Cha đã thể hiện.
Hay đó việc một vị linh mục như Nguyễn Đình Thục đã chỉ đạo giáo dân lấn chiếm gần 1/2 dòng sông Thái ở xã Quỳnh Ngọc (huyện Quỳnh Lưu) để xây dựng công trình trái phép khiến ngăn dòng chảy làm bức tử dòng Sông. Thậm chí tại giáo xứ Phú Yên do Đặng Hữu Nam làm chủ chăn thì y đã bảo lãnh cho một số người trong ban hành giáo và giáo dân ra đánh bắt cá bằng mìn, hủy hoại môi trường biển (như Nguyễn Văn Hữu - chủ tàu NA-90088-TS, Nguyễn Văn Hữu - chủ tàu NA-90182-TS, Bùi Khắc Quyền - chủ tàu NA-93131-TS bị bắt nổ mìn và xử án treo...). Ngoài ra, miệng thì hò hét biển nhiễm độc nhưng những vị linh mục này cùng với ả dân chủ ba que Emily Page Le, tiếp linh mục phản động Nguyễn Duy Tân trên bàn luôn đầy tôm, cá...
Xin thưa với những vị chủ chăn rằng, cho dù một số vị chức sắc, chức việc có nhân danh gì đi chăng nữa thì hành động lợi dụng trẻ em làm “công cụ” để phục vụ cho những mưu đồ chính trị của những kẻ luôn tự coi mình là“bề trên” là việc làm bất nhẫn, trái luân thường đạo lý, là tội ác khiến dư luận và người dân vô cùng phẫn nộ, lên án. Tin rằng, bất cứ bậc làm cha, làm mẹ nào và toàn thể xã hội, thấy những hình ảnh phản cảm, chất chứa dã tâm được bày trò, dàn dựng, đều đau lòng và phẫn nộ. Các em nhỏ ngây thơ đã bị một số chức sắc, linh mục sử dụng như những công cụ để phục vụ mưu đồ cổ súy cho những hành vi vi phạm pháp luật.

Mỗi người dân Việt Nam chúng ta đều hiểu rằng, sau hơn một năm xảy ra sự cố Formosa, người dân đã được Chính phủ, các cấp chính quyền quan tâm thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ, giúp đỡ, tiến hành đền bù, khắc phục khó khăn, cuộc sống đang dần trở lại sản xuất bình thường thì một số nơi người dân lại nhẹ dạ cả tin nghe theo sự xúi giục của một số ít người vì lợi ích cá nhân để trục lợi, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối an ninh trật tự, mà điều này chính những người trong cuộc biết rất rõ điều đó... Hơn ai hết, mỗi một người dân, mỗi một giáo dân hãy phát huy trách nhiệm công dân của mình, đừng để niềm tin của mình bị lợi dụng cho những điều đi ngược lại lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc...

Sự thật về linh mục Nguyễn Duy Tân

Thời gian qua lợi dụng quyền tự do dân chủ quá trớn, linh mục Nguyễn Duy Tân, giáo xứ Thọ Hòa,  giáo phận Xuân Lộc - Đồng Nai đã có nhiều hành vi vi phạm pháp luật và gây ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc.
Ảo tưởng về lật đổ Nhà nước Việt Nam bằng con đường bất bạo động và bạo động
Linh mục Tân ảo tưởng “Năm 2018, CS sẽ phải giải thể mà không tốn một viên đạn” theo đó từ ngày 27/12/2016 đến ngày 30/12/2016 tại Dòng Chúa cứu thế Sài Gòn, những vị linh mục trong văn phòng Công Lý Hòa Bình của Dòng Chúa cứu thế Sài Gòn đứng đầu là linh mục Nguyễn Duy Tân đã tổ chức chương trình “Tri ân thương phế binh Việt Nam Cộng hòa xuân 2017” với chủ đề “Bên nhau đi nốt cuộc đời”. Nội dung của chương trình là tổ chức trao quà cho các “thương phế binh VNCH” ở Sài Gòn và các vùng phụ cận (Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An) với phần quà tết và 1 triệu đồng tiền mặt. Ngay sau buổi lễ khai mạc chương trình này diễn ra đã gặp phải sự phản đối, lên án của cộng đồng mạng những ngày qua và người dân đã và đang lên án trước những chiêu trò “đánh lận con đen” của những vị linh mục tại Dòng Chúa cứu thế Sài Gòn.
Cấu kết với các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước
Linh mục Nguyễn Duy Tân đã có quan hệ với đối tượng chống đối Nhà nước Việt Nam tại Mỹ trong đó Emily Page Le là ví dụ điển hình Emily Page - Le sinh năm 1984, Quê mẹ: TP Biên Hòa, Đồng Nai.  Bố Emily Page - Le là ông George William Page nguyên là sỹ quan thủy quân lục chiến Quân đội Hoa Kỳ. Mẹ của Emily Page - Le là bà Lê Hoàng Hoa, một dược sỹ đã nghỉ hưu.  Gia đình Emily Page - Le là tín đồ Công giáo cực đoan, có mối quan hệ khá thân thiết với số chống cộng cực đoan tại Hoa Kỳ, Canada... ; cầm đầu nhóm tín đồ công giáo cực đoan thường xuyên biểu tình trước đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ.  Emily Page - Le là thành viên của phong trào "Phục hưng Việt Nam", "Phong trào yểm trợ thương phế binh VNCH", "Nhóm biệt động Nam Cali" - các tổ chức chống cộng lưu vong tại Mỹ. Đồng thời là người được đám chống cộng cực đoan giao phụ trách "Hội Phụ nữ Âu Cơ Nam Cali".
Thách thức chính quyền và quần chúng nhân dân
Chính Nguyễn Duy Tân đã nhiều lần gọi điện, kích động chính quyền các cấp, thóa mạ cán bộ các cơ quan ban ngành, xuyên tạc các vấn đề lịch sử. Mặc dù đã được chính quyền nhắc nhở nhiều lần nhưng chứng nào tật nấy linh mục Tân vẫn ngựa quen đường cũ thường xuyên giao du, lên mạng internet chửi bới, xuyên tạc tình hình chính sách tôn giáo và đại đoàn kết dân tộc.
Với những “thành tích” chống phá đó, quần chúng nhân dân tại các tỉnh phía Nam đã nhiều lần nhắc nhở linh mục Tân chấp hành sứ vụ nhưng linh mục Tân tiếp tục có những hoạt động gây hấn khiến một số công dân như Nguyễn Trọng Nghĩa đã bức xúc đến nơi ở để vạch mặt hành vi trắng trợn của linh mục Tân.

Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười Nga là nguồn cổ vũ to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, Đảng ta và Chủ tịch Hồ chí Minh đã nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công; giành thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đưa cả nước đi lên CNXH, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam 87 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nguồn gốc sâu xa từ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, sâu sắc tới cách mạng Việt Nam trên nhiều phương diện, cả lý luận và thực tiễn. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Với lòng biết ơn sâu sắc khi nói về ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Uống nước nhớ nguồn. Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười”.
Nhưng gần đây, kẻ thù của CNXH đã xuyên tạc đủ điều nhằm bôi nhọ và hạ thấp hình ảnh của Cách mạng Tháng Mười Nga. Họ cho rằng, Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ có ý nghĩa địa phương, chỉ có giá trị thuần túy ở Nga; qua đó, phủ nhận tính tất yếu và biện chứng của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng như của cách mạng XHCN nói chung, phủ nhận tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin… đều nhằm phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga và CNXH hiện thực, lái các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam đi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Độc lập dân tộc và CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luôn hướng tới lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, gắn độc lập dân tộc với CNXH là thể hiện sự trung thành của toàn Đảng, toàn dân ta với con đường mà Cách mạng Tháng Mười đã mở ra. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” . Dù thế giới có những thay đổi, biến động lớn lao, nhưng mà thời đại mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra là không thay đổi, con đường mà nhân dân ta đi là đúng đắn. Chỉ có đi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhân dân ta mới thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Tổ quốc Việt Nam XHCN mới trở nên phồn vinh, thịnh vượng và được bảo đảm vững chắc; dân tộc Việt Nam mới cùng tiến bước theo nhịp bước của thời đại.