Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

DI SẢN VỀ TẤM GƯƠNG NHÂN HẬU, THỦY CHUNG, KHIÊM NHƯỜNG CỦA PH.ĂNGGHEN TRONG CUỘC SỐNG

Sinh ra và lớn lên trong dòng tộc tư sản lớn có sở sản xuất, cơ sở buôn bán trong và ngoài nước, Ph.Ăngghen hoàn toàn có điều kiện sống một cuộc sống giàu sang nếu Ông nghe theo, làm theo ý muốn của cha mình. Song, Ph.Ăngghen đã không làm như vậy bởi ngay từ khi còn rất trẻ Ông đã sớm nhận thấy vẻ đẹp của vùng đồi núi quê hương ông hoàn toàn trái ngược với cảnh khổ cực của những người thợ dệt vải, dệt kim mà nhiều người phải tìm sự lãng quên khổ cực ấy trong các ly rượu mạnh. Ông căm giận khi những chủ xưởng giàu có, bề ngoài ra vẻ mộ đạo, siêng năng đi lễ nhà thờ nhưng lại bắt trẻ con làm việc cực nhọc cả ngày để kiếm vài xu, để chúng chết dần, chết mòn cùng cha mẹ chúng đang bị vắt kiệt sức trong các xí nghiệp. Những cảnh tượng ấy đeo bám Ông, ám ảnh Ông suốt cả cuộc đời. Ông yêu thích Dichprit, Telơ, Phauxtơ vì trong văn học Đức, theo Ông, đây là những nhân vật tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống áp bức, những nhân vật tượng trưng cho lòng dũng cảm, tinh thần sẵn sàng hy sinh cũng như lòng khao khát hiểu biết. Ông coi đó là những tấm gương và dự định sẽ hướng cuộc đời của mình theo tinh thần của họ, trung thành với lý tưởng nhân đạo và tự do mà họ đã đấu tranh và sẵn sàng chịu đựng để đạt được nó. Với lý tưởng như vậy, từng bước, từng bước Ông đến với giai cấp vô sản, gắn bó với họ, thủy chung chiến đấu vì cuộc sống của họ cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Đối với bạn bè, tấm lòng nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ph.Ăngghen cũng luôn mẫu mực. Quan hệ với C.Mác và gia đình C.Mác là ví dụ điển hình. C.Mác và Ph.Ăngghen gắn bó với nhau trước hết và quan trọng nhất vì tư tưởng, lý tưởng của các Ông thống nhất với nhau nhưng gia cảnh của các Ông thì rất khác nhau. Từ năm 1849 cho đến năm 1883 (năm C.Mác từ trần), C.Mác và gia đình sống ở Luân Đôn. Đây là thời gian tư tưởng về các lĩnh vực của C.Mác và Ph.Ăngghen đã bước vào giai đoạn phát triển, nhiều lĩnh vực đã chín mùi và sự chống phá về tư tưởng của các thế lực thù địch với giai cấp vô sản cũng diễn ra rất khốc liệt. Việc thể hiện thành tác phẩm những tư tưởng khoa học về cách mạng vô sản và chống các luận điểm mị dân, xuyên tạc của các học giả tư sản là nhu cầu rất cấp thiết nhưng đây cũng lại là thời kỳ gia đình C.Mác cực kỳ khó khăn về kinh tế. Có lúc “Các chủ hiệu bánh mì, hiệu thuốc, hàng thịt cầm hóa đơn kéo đến tụ tập trước cửa. Mác chạy đến hết người quen nọ, người quen kia, tất tả ngược xuôi mãi mới vay được số tiền cần thiết”. “Các đồ đạc của vợ chồng Mác lần lượt thay nhau chạy về ngôi nhà có treo ba quả cầu vàng trước cửa hiệu cầm đồ”. Trong bối cảnh ấy, Ph.Ăngghen luôn là người chung lưng gánh vác cùng C.Mác. Tháng tháng, vào những ngày nhất định, Ph.Ăngghen lại gửi tiền về Luân Đôn cho gia đình C.Mác. “Đối với gia đình ông (gia đình Mác - Tg), sự giúp đỡ tài chính thường xuyên của Ph.Ăngghen là sự cần thiết sống còn”. Chỉ có sự giúp đỡ đó mới cho phép Mác chịu nổi gánh nặng của cuộc đấu tranh mệt nhọc chống lại sự thiếu thốn để hoàn thành các tác phẩm của mình. Ngay cả trước khi từ trần, trong di chúc, Ph.Ăngghen cũng không quên để lại một phần tài sản của mình cho những người thân trong gia đình C.Mác.

Sự giúp đỡ của Ph.Ăngghen đối với C.Mác không thuần túy chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Khi C.Mác từ trần, bộ “Tư bản” được đánh giá là bộ kinh điển mẫu mực thể hiện quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, được C.Mác coi là “sự nghiệp của cuộc đời mình”, mới xuất bản được tập I vào năm 1867, các tập còn ở dạng bản thảo viết tay của C.Mác. Nếu không xuất bản thành sách, những nội dung còn lại của “Tư bản” sẽ bị xuyên tạc. Vì lợi ích của giai cấp vô sản và cũng vì C.Mác, Ph.Ăngghen đã dừng tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” - tác phẩm đang chuẩn bị dang dở của mình - tập trung hơn chục năm còn lại của cuộc đời để chỉnh lý, bổ sung nội dung và bỏ tiền của mình xuất bản được tập II vào năm 1885, tập III vào năm 1894. Bằng việc xuất bản tập II và tập III của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen đã dựng cho người bạn của mình một tượng đài trang nghiêm, vĩnh cửu mà trên tượng đài đó, Ph.Ăngghen không ngờ Ông cũng đã để lại tên Ông bằng những nét vàng không bao giờ phai nhạt.

Cho đến đây, lý luận của giai cấp vô sản gồm 3 bộ phận cấu thành do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng ở thế kỷ XIX đã hình thành trọn vẹn. Thông thường, theo truyền thống của nhân loại, tên của các nhà phát minh sẽ được đặt cho phát minh nhưng ngay từ năm 1883 - năm C.Mác từ trần, khi nhiều ý kiến đề xuất tên của hai người là tên của lý luận, Ph.Ăngghen đã rất khiêm nhường bày tỏ quan điểm của mình với nội dung là: Tôi không hề phủ nhận công lao của tôi trong 40 năm cộng tác với Mác, nhưng những gì tôi đã làm thì không có tôi Mác vẫn có thể làm được, còn những gì Mác đã làm thì tôi và chúng ta chưa thể nào làm được, Mác đứng cao hơn tôi một cái đầu, nhìn xa hơn tôi một tầm, Mác là thiên tài còn chúng ta giỏi lắm chỉ là người có tài mà thôi, tôi chỉ xứng đáng là cây vĩ cầm thứ hai đứng bên cạnh Mác, bởi vậy học thuyết này xứng đáng được mang tên của Mác.

Lý luận của giai cấp vô sản thế kỷ XIX mang tên một người: Chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác, Kinh tế chính trị Mác và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo đề xuất của Ph.Ăngghen, ta không thấy có tên Ông ở đây nhưng trong mỗi nét chữ, mỗi tư tưởng của triết học Mác, kinh tế chính trị Mác và chủ nghĩa xã hội khoa học đều có cả trí tuệ, tiền của, thời gian, sức lực của Ph.Ăngghen trong đó mà nếu không có trí tuệ, tiền của, thời gian, sức lực này, không thể có chủ nghĩa Mác.

1 nhận xét: