Trước sự sụp đổ của Liên Xô và các
nước Đông Âu, đã xuất hiện những tư tưởng hoài nghi về lý luận hình thái kinh
tế xã hội của chủ nghĩa Mác, cá biệt có quan điểm cho rằng: trong bối cảnh
khủng hoảng của phong trào cộng sản công nhân quốc tế hiện nay, việc lựa chọn
con đường đi lên CNXH là trái với quy luật phát triển của lịch sử. Đây là quan
điểm hoàn toàn sai trái mà ngược lại chúng ta khẳng định đi lên CNXH là quy
luật phát triển tất yếu của lịch sử. Bởi vì:
Như chúng ta
đều biết, sau khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người nói chung và nhất là sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu nói riêng, C.Mác đã rút ra kết luận: sự
phát triển của xã hội loài người là sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế
- xã hội. V.I.Lênin đã nhận xét: “Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã
hội loài người, Mác đã hiểu rằng chủ nghĩa tư bản phát triển tất nhiên sẽ đưa
đến chủ nghĩa cộng sản - đây là điều căn bản - khi chứng minh chân lý đó, Mác
chỉ dựa trên việc nghiên cứu xã hội tư bản đó một cách chính xác nhất, tỉ mỉ
nhất, sâu sắc nhất, nhờ việc nắm vững đầy đủ tất cả những cái mà khoa học trước
đây đã cung cấp”. Chính vì thế, xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay
thế bằng xã hội khác, C.Mác xác định là xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai đoạn
đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Sự thay thế này là một quá trình lịch sử tự
nhiên.
Đồng
thời C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ
bản của xã hội mới, đó là: có LLSX xã hội cao; chế độ sở hữu xã hội về TLSX
được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn
nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, nền sản xuất được tiến hành theo một
kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng;
sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa
bỏ...
Để
xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn:
giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này
V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa
cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị
lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.
Vận
dụng học thuyết C.Mác vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước
đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
với nội dung cơ bản khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách
quan, bất cứ quốc gia
nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế
rất phát triển
Tất
nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so với các nước đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu.
Thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi
giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết
thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Tính
tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được quy định bởi đặc điểm cơ
bản là sự tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của giai cấp trong xã hội đã thay đỗi
một cách sâu sắc
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách
quan và lâu dài, có lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh
tế. Theo Lênin, mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non yếu với chủ nghĩa
tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ
là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp.
Trên
cơ sở phân tích tính chất và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thới kỳ tự do
cạnh tranh, C.Mác và Ph. Ăngghen đã nêu ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản ở các nước lạc hậu khi cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu giành được thắng
lợi. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản thời kỳ độc quyền, phát triển ra quy luật
phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin
rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số
nước riêng lẻ chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả cả nước. Khi chủ
nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào thời đại mới-
thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều
kiện đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, điều kiện để một nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là:
Thứ nhất, điều kiện bên trong, có
Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước
công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Thứ hai, điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của
các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
Lênin cũng chỉ
ra rằng: Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường
gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp, phù hợp với đặc điểm của
từng nước.
Sinh
ra và lớn lên trong bối cảnh ở đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ, Nguyễn Ái
Quốc sau nhiều năm bôn ba khắp các châu lục tìm đường cứu nước đã rút ra kết
luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” và “chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng
thế giới”. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng 3-2-1930 đã chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, mở đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Và đây là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái
kinh tế- xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế-
xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội nói trên đều
tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Cho
dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ
và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản
xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn
vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay
gắt và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao
động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự
phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội.
Hơn
nữa, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là do nhiều nguyên nhân khách
quan, chứ không phải là sự sụp đổ của một mô hình. Ngày nay, từ những bài học
xương máu của Liên Xô và Đông Âu, PTCS và CNQT đã có sự phục hồi, phát triển
mạnh mẽ, công cuộc đổi mới của các nước XHCN còn lại như Việt Nam, Trung Quốc
thu được nhiều thắng lợi to lớn một lần nữa giúp chúng ta khẳng định: Chủ nghĩa
tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế
của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam : cách mạng dân tộc, dân chủ gắn
liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải
phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “làm
cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng XHCN là
sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân
tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước. Đặc
biệt, qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa
quan trọng: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm
lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao
hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện
ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện bước đầu đạt kết quả tích cực.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát
triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống
của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng,
an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình,
ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị
thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan
trọng.
Đảng
ta khẳng định: "Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi
mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử".
Và đó cũng là cơ sở để chúng ta bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch chống
phá cách mạng nước ta hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét