Thứ Tư, 4 tháng 4, 2018

ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC KHƠ-ME Ở VIỆT NAM

Người Khơ-me có tên tự gọi là Khơ-me, tên gọi khác là Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ-me Krôm; dân số hiện nay có 1.260.640 người, đông nhất trong là các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơ me ở Việt Nam.
Dân tộc Khơ-me thuộc tiểu chủng và ngữ hệ Nam Á, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me; hình dáng tầm vóc cao trung bình, da ngăm đen, trán thấp, mũi dẹt, môi dày, tóc đen, xoăn tự nhiên.
Người Khơ-me đã cư trú lâu đời ở phía Nam bán đảo Đông Dương. Từ thế kỷ VII-XVII, nhiều cư dân của Vương quốc Chân Lạp trốn tránh chế độ quân chủ hà khắc đã di cư đến vùng Tây Nam Bộ sinh sống. Đến thế kỷ XVII, khi các Chúa Nguyễn vào xây dựng Đàng Trong thì người Việt cũng đi vào khai phá vùng đất châu thổ sông Cửu Long. Lúc này lại có thêm càng nhiều người Khơ-me đến sinh sống ở Sài Gòn, Đồng Nai.
Người Khơ-me từ xa xưa cho đến nay là dân tộc trồng lúa nước, có nhiều kinh nghiệm trong canh tác. Công cụ canh tác nông nghiệp của họ gần giống với người Kinh. Đồng bào rất thành thạo nghề đánh cá, phát triển nghề đan, dệt chiếu, vải, làm đường thốt nốt, làm gốm.
Trong ăn uống, thức ăn chính của người Khơ-me là cơm tẻ, cơm nếp. Họ biết chế biến nhiều loại mắm, nhất là mắm Bhóc là mắm làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép với thính. Gia vị trong ẩm thực được ưa thích nhất là vị chua (quả me), tiêu, tỏi, sả, ớt, cari. Người Khơ-me mặc Xà rông, thanh niên ngày nay thích mặc âu phục, người đứng tuổi mặc áo bà ba đen, khăn rằn quấn đầu, vắt vai. Nhà ở của họ giống nhà người Kinh trong vùng, nhưng khác nhau ở cách bày trí bên trong.
Gia đình một vợ một chồng là hình thức phổ biến trong cộng đồng Khơ-me, nhưng còn tồn tại tàn dư mẫu hệ. Phụ nữ ưa kín đáo nhưng lại cởi mở, hiếu khách. Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thỏa thuận của con; việc cưới qua ba bước: làm mối, dạm hỏi, lễ cưới. Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái, chồng về ở một thời gian, khi có con ra ở riêng bên vợ. Trong tang ma, người chết được hỏa thiêu, tro được giữ trong tháp Pì chét đẩy  xây cạnh ngôi chính điện trong chùa. Hai lễ tết lớn trong năm là của người Khơ-me là Chuôn Chnăm Thmây vào tháng tư dương lịch và Chào mặt trăng vào rằm tháng 10 âm lịch. Dịp này, bà con thường tổ chức đua thuyền giữa các phum, sóc.
Tôn giáo có vai trò quan trọng, chi phối đời sống của người Khơme. Họ thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng, gọi hồn lúa, thần mặt trăng. Con trai Khơ-me khi lớn được gửi vào chùa từ 3-5 năm để học kinh Phật, chữ Khơ-me, sau tu hành và hoàn tục mới được đi học tiếp và lập gia đình. Di sản đặc sắc nhất của văn hóa Khơ-me được thể hiện ở nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp.
Trong quá trình cách mạng nước ta, dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, đồng bào Khơ-me đã đoàn kết cùng với các dân tộc anh em, chung tay, đóng góp công sức xứng đáng vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã lợi dụng một số vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, khơi lại mâu thuẫn dân tộc, sử dụng luận điệu “đòi lại đất Tây Nam Bộ cho Campuchia”, kích động vấn đề bảo tồn tôn giáo, chữ viết và văn hóa, tạo dựng cái gọi là “nguy cơ đồng hóa dân tộc”; cấu kết giữa bọn phản động trong nước và ngoài nước, nhất là ở Việt Nam và Campuchia để phá hoạt sự đoàn kết, thống nhất dân tộc. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét