Gần một thế kỷ của cuộc đời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tận
lực cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, được các tầng lớp
nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế yêu mến và kính trọng.
94 tuổi đời, 75 năm hoạt động cách mạng liên tục, 41 năm là Ủy
viên Trung ương Đảng, 35 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, 32 năm là Thủ tướng Chính
phủ, 10 năm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Phạm Văn Đồng đã cống
hiến trọn đời cho đất nước, mang hết nhiệt tình, tài năng và trí tuệ phục vụ
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự
nghiệp cách mạng, vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Người
học trò xuất sắc, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng
chí Phạm Văn Đồng, bí danh là Tô, sinh ngày 1/3/1906 trong một gia đình công
chức tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi và mất ngày 29/4/2000, tại
Thủ đô Hà Nội. Vào những năm đầu thế kỷ XX, khi còn là một thanh niên, đồng chí
Phạm Văn Đồng đã sớm giác ngộ cách mạng, đã biết đến lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
tìm hiểu tư tưởng cách mạng của Người thông qua sách báo được truyền bá vào
Việt Nam lúc bấy giờ như báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Tạp chí thư tín
quốc tế”…
Năm 1926, đồng chí được sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính
trị do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức và trực tiếp giảng dạy. Đây là một bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí. Đồng chí đã nhanh chóng
tiếp thu những tư tưởng mới - con đường cách mạng vô sản, và được kết nạp vào
Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Cũng từ đó, đồng chí có điều kiện
gặp gỡ nhiều hơn với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ý chí cách mạng, lý tưởng cộng sản
và tinh thần yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ảnh hưởng sâu sắc tới tình
cảm và lý tưởng của đồng chí, biến đồng chí từ một thanh niên yêu nước trở
thành một chiến sĩ cách mạng chân chính.
Đầu năm 1940, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về nước lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Người đã giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng những nhiệm vụ
quan trọng. Cũng từ đây, bắt đầu một thời kỳ dài gần 30 năm (cho tới khi Bác
mất), đồng chí Phạm Văn Đồng thường xuyên làm việc bên Bác, theo sự chỉ dẫn và
phân công của Người.
Là một trong những cán bộ tiền bối, được Bác Hồ trực tiếp giáo
dục và rèn luyện, đồng chí Phạm Văn Đồng đã trở thành người học trò xuất sắc,
một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác Hồ. Đồng chí thể hiện những phẩm chất
cao quý của một người cộng sản trung kiên, mẫu mực, đó là đức tính: Tận trung
với nước, tận hiếu với dân; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm; Cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư; chống quan liêu, tham ô, lãng phí; nói đi đôi với
làm, nêu gương về đạo đức, nhân cách; có tấm lòng nhân ái, bao dung…
Người cộng sản kiên
cường, mẫu mực, suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong suốt 15 năm
đầu đi theo con đường cách mạng (1926-1940), đồng chí luôn vượt qua mọi khó
khăn, gian nguy, mang hết nhiệt tình, tài năng và trí tuệ của mình cống hiến
cho cách mạng với niềm tin sắt đá vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến tháng 1/1949, đồng
chí là Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung Bộ.
Đồng chí đã có những cống hiến và sáng tạo trong việc xây dựng vùng tự do
Nam-Ngãi-Bình-Phú, xây dựng và củng cố căn cứ địa kháng chiến, thực hiện khẩu
hiệu tự lực cánh sinh, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Đồng
chí còn chỉ đạo việc thành lập và trực tiếp giảng dạy tại Trường Trung học Bình
dân Nam Trung Bộ. Khoảng tháng 2/1949, đồng chí được điều động trở lại công tác
tại Việt Bắc được bổ sung làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, sau đó là Phó
Thủ tướng Chính phủ. Từ năm 1951 đến 1986, được bầu vào Bộ Chính trị. Từ năm
1955 đến 1987, đồng chí được Đảng và Nhà nước giao trọng trách Thủ tướng Chính
phủ. Đồng chí còn kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại
Trung ương Đảng trong những năm 1954-1955. Trong thời gian từ 1986-1997, đồng
chí là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và
giữ cách sống mẫu mực của một đảng viên cộng sản chân chính theo tấm gương của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí luôn là tấm gương mẫu mực về một người cán bộ
lãnh đạo, tận tâm tận lực, vì dân, vì nước, liên khiết, khiêm tốn, giản dị, gần
gũi với nhân dân.
Tháng
5/1999, dù tuổi cao, sức khỏe không còn tốt, đồng chí vẫn gửi đến Tạp chí Cộng
sản bài viết "Nêu cao danh hiệu Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam". Với ngòi bút sắc sảo của mình, đồng chí đã chỉ rõ
những mặt yếu kém cần sửa chữa, khắc phục, với tinh thần thấy rõ sự thật, nói
đúng sự thật, nói hết sự thật, nghiêm khắc và sắc bén làm nổi rõ những gì phải
giải quyết, đồng thời đưa ra những biện pháp giải quyết thiết thực và hiệu quả.
Những lời tâm huyết từ đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng lão thành đã cống
hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng của dân tộc, đã có sức
lay động con tim độc giả. Bài viết đã gây được sự chú ý của dư luận trong những
ngày đầu cuộc vận động triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương VI (lần 2).
Nhà lãnh đạo xuất sắc,
Trong hai cuộc kháng
chiến cứu quốc, trên cương vị Phó Thủ tướng rồi Thủ tướng Chính phủ, đồng chí
Phạm Văn Đồng đã lo tổ chức một bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, ít tốn kém mà có hiệu
quả, tích cực phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế; đảm bảo cuộc sống của
nhân dân; huy động sức người, sức của cho kháng chiến; tăng cường sức mạnh và
sự an toàn hậu phương của chiến tranh; tổ chức tốt công tác chi viện cho tiền
tuyến.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
đồng chí rất trăn trở trước những khó khăn của đất nước. Đồng chí đã chỉ đạo
cho cán bộ đi khảo sát “khoán chui” trong nông nghiệp ở Hải Phòng. Đồng chí
trực tiếp làm việc với cán bộ lãnh đạo Hải Phòng và kết luận cái được, cái chưa
được trong cơ chế khoán này. Đó là tiền đề cho Chỉ thị của Đảng về khoán hộ
trong nông nghiệp ở thời kỳ đổi mới, một giải pháp hiệu quả cho nền nông nghiệp
nước nhà. Cũng thời gian này, đồng chí đã đồng ý cho Thành phố Hồ Chí Minh áp
dụng biện pháp mới trong cơ chế sản xuất công nghiệp và từng bước tổng kết. Từ
đó đã ra đời các Quyết định 25/CP và 26/CP của Chính phủ, mở ra cơ chế mới
trong sản xuất kinh doanh, từng bước xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Đó là
những bước đầu của tư tưởng đổi mới.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đồng chí khẳng định: Đổi
mới là xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là dân giàu, là
xây dựng một nền văn hóa mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Với phong
cách làm việc gắn kết chặt chẽ giữa tư duy lý luận sắc bén với thực tiễn sinh
động, đồng chí đã thể hiện là một người lãnh đạo kinh tế đổi mới, người quản lý
thông thái, đầy năng động và sáng tạo. Đồng chí rất nghiêm khắc đòi hỏi ở bản
thân và mọi người phải làm việc thực sự có hiệu quả, năng suất, chất lượng;
phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí. Những năm 1976-1985, ở cương
vị lãnh đạo, xây dựng nền kinh tế trên phạm vi cả nước, đồng chí đã lo tập
trung giải quyết những vấn đề trọng yếu, cấp thiết của đất nước ở tầm vĩ mô
nhằm thực hiện tốt các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực đối ngoại, đồng chí là một
nhà ngoại giao tài năng, có uy tín lớn trên thế giới; nhìn xa thấy rộng, tinh
tế và linh hoạt, kiên cường và mềm dẻo, ứng xử nhanh nhạy, sáng tạo, luôn thể
hiện lập trường chính trị sáng suốt trước mọi diễn biến của thời cuộc và phong
cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Đồng chí là Trưởng đoàn Việt Nam tham dự nhiều Hội
nghị quốc tế, giải quyết những vấn đề không chỉ của Việt Nam mà còn liên quan
đến nhiều nước, nhiều phong trào ở khu vực và quốc tế, như: Hội nghị Fontainebleau
(1946), Hội nghị Geneva (1954), Hội nghị các nước Á - Phi họp ở Indonesia
(1955), các Hội nghị cấp cao của Phong trào không liên kết…
Trong những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng chí tham gia vào việc
hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Gần một thế kỷ của cuộc đời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tận
lực cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, được các tầng lớp
nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế yêu mến và kính trọng. Là một nhà lãnh có
uy tín lớn của Đảng và Nhà nước ta, công lao, nhân cách của Thủ tướng mãi là
tấm gương sáng để các thế hệ con cháu tôn vinh và học tập.
Nguồn:
Chinhphu.vn
hoạt động này rất ý nghĩa
Trả lờiXóa