Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC HMÔNG Ở VIỆT NAM

Dân tộc Hmông có tên gọi chính thức là Hmông, các tên gọi khác như: Mẹo, Mèo, Miến Hạ, Mán Trắng. Họ có các nhóm địa phương là Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Đỏ, Hmông Đen, Hmông Xanh, Na Miẻo. Hiện nay, dân số Hmông ở nước ta có 1.068.215 người, cư trú chủ yếu ở vùng núi các tỉnh phía Bắc, dọc biên giới Việt – Trung, Việt - Lào. Người Hmông vốn có nguồn gốc lâu đời ở miền Nam Trung Quốc. Đồng bào di cư vào Việt Nam làm ba đợt, sớm nhất cách đây khoảng 300 năm.
Dân tộc Hmông chủ yếu làm nương rẫy (định canh hoặc du canh) và một phần ruộng bậc thang, chăn nuôi trâu bò, lợn gà, ngựa (thồ). Cây trồng chính là ngô, lúa mạch, khoai, rau, lạc vừng, lanh, thuốc phiện, cây ăn quả
Trong văn hóa ẩm thực, người Hmông ngày ăn hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa; mèn mén (bột ngô đồ), cơm canh là món truyền thống. Bột ngô xúc bằng thìa gỗ, uống rượu, hút thuốc lá bằng điếu cày; mời khách chiếc điếu do tự tay nạp thuốc là biểu hiện thiện cảm quý trọng.
Trang phục người Hmông khá sặc sỡ, đa dạng, mang đặc điểm của các nhóm địa phương rõ rệt. Phụ nữ Hmông Hoa mặc áo thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Phụ nữ Hmông Đen mặc váy vải Chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực. Phụ nữ Hmông Trắng mặc váy màu trắng, áo xẻ ngực, thiêu hoa văn ở cánh tay, yếm sao. Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống, nếu có chồng thì cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng. Trang phục đàn ông Hmông mặc quần áo màu chàm, đội mũ nồi.
Mặc dù cư trú ở vùng cao nhưng người Hmông ở nhà trệt, không làm nhà sàn. Nhà có ba gian, hai chái và thường có ba cửa, gian giữa đặt bàn thờ. Lương thực cất trữ trên sàn gác, một số nơi có nhà kho. Bản làng Hmông có nhiều dòng họ, trong đó có một đến hai họ lớn. Quan hệ làng bản được gắn bó chặt chẽ qua thờ cúng chung thổ thần của bản, các sinh hoạt lễ tết, địa giới đất đai. Những người Hmông cùng họ, có cùng tín ngưỡng tổ tiên, dù bất kỳ ở đâu cũng coi nhau là anh em ruột thịt. Người trưởng họ có tiếng nói và vị trí quan trọng đối với cả dòng tộc. Sự cố kết dòng họ không chỉ ở nơi cư trú mà còn mang tính khu vực và xuyên quốc gia.
Người Hmông còn bảo lưu nhiều bản sắc tộc người thể hiện ở nghi lễ vòng đời (sinh đẻ, cưới hỏi, tang ma, cúng vía…) rất khác biệt với các dân tộc khác, các tập tục sinh hoạt gia đình, dòng họ, làng bản. Hàng năm, các dòng họ đều tổ chức lễ cúng chung cả họ (sầu su, thi su), lễ cúng ma bản v.v… Đồng bào có tín ngưỡng đa thần, ảnh hưởng từ Đạo giáo. Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho thờ cúng tổ tiên, ma nhà, ma bếp, ma cửa, bàn thờ tổ sư nghề. Trước đây, tết năm mới của người Hmông từ đầu tháng 12 theo cách tính lịch cổ truyền phù hợp với nông lịch truyền thống, nay đã chuyển sang ăn tết Nguyên Đán. Ngày tết dân làng thường chơi còn, thổi kèn, múa khèn, ca hát nhảy múa ở những bãi ruộng quanh làng.
Từng có nhà nước với lịch sử di cư lâu dài làm cho dân tộc Hmông luôn hướng về thủ lĩnh và khát khao một thủ lĩnh tộc người. Chính những điều đó tạo nên một niềm tin tiềm ẩn ở dân tộc này về một vị vua và tổ quốc riêng của mình. Thực dân Pháp từng dựng lên “Vua Mèo” Vương Trí Sình ở Đồng Văn - Hà Giang, đánh trúng vào tâm lý khát khao thủ lĩnh của người Hmông. Đế quốc Mỹ cũng từng dùng con bài dân tộc Hmông trong cuộc chiến tranh Đông Dương, dựng nên tướng phỉ Vàng Pao tại Lào. Gần đây, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng một bộ phận đồng bào Hmông để truyền đạo trái pháp luật, kích động “xưng vua”, chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng nước ta.
Hiện nay, được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, đời sống kinh tế-xã hội của người Hmông có nhiều cải thiện. Đại đa số đồng bào tin theo Đảng, Nhà nước, tích cực đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng quê hương, đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét