Dân tộc Hoa nước ta có tên gọi khác là người
Khách, người Hán, người Tàu; gồm các nhóm địa phương từ Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu,
Phúc Kiến, Sạng Phang, Xìa Phống, Thảng Nhằm, Minh Hương,
Hẹ... Đồng bào di cư đến Việt Nam vào các thời
điểm khác nhau, sớm nhất vào thế kỷ XVI,
cuối thời Minh đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Hiện nay, dân sô dân tộc Hoa ở
nước ta có 823.071 người.
Người Hoa cư trú ở nông thôn
chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, họ làm nghề dịch vụ, buôn
bán; các nghề tiểu thủ công nghiệp khá phát triển như gốm, giấy, nhang... Một bộ
phận cư trú ở ven biển sống làm muối, đánh cá. Đặc biệt, họ có truyền thống
buôn bán rất giỏi.
Lương thực chính của người Hoa là
gạo, bữa ăn thường có mì xào, hủ tiếu, vằn thắn... Gia đình bình dân, sáng điểm
tâm bằng cháo trắng với trứng vịt muối, nhà khá giả là hủ tiếu, bánh bao, xíu mại...
Người Hoa nấu ăn giỏi, thích các món xào với gia vị; thức uống là các loại nước
thuốc ngoài tác dụng giải khát còn là loại thuốc mát.
Trang phục truyền thống của người
Hoa chỉ còn thấy ở một số người có tuổi hay trong các nghi lễ cưới xin, tang
ma. Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc
áo “sườn xám” may dài, ôm ngang hông, xẻ tà phần dưới đùi. Đàn ông mặc áo màu
đen hay xanh đậm, cài khuy vải một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc kiểu áo tứ
thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi.
Làng của người Hoa thường ở ven
chân núi, trong cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao thông
thuận tiện; nhà ở sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị, người Hoa thường sống tập
trung, có khu phố riêng. Nhà cửa thường có 3 loại: nhà 3 gian hai chái, nhà chữ
Môn và nhà chữ Khẩu. Nổi bật trong nhà ở là các bàn thờ tổ tiên, dòng họ, thờ
Phật và các vị thần thánh cùng các câu đối, liễn, các tờ giấy hồng chữ Hán để cầu
phúc, lợi, bình yên.
Trước đây, xã hội của họ có phân
hóa giai cấp sâu sắc và mang tính phụ quyền cao. Mối quan hệ với những người
cùng họ được hết sức coi trọng. Mỗi một dòng họ có một từ đường để thờ cúng. Hằng
năm vào một ngày nhất định, người cùng họ làm lễ giỗ họ tại từ đường. Gia đình
theo chế độ phụ hệ một vợ một chồng; kết hôn trong cùng một nhóm địa phương. Người
kinh doanh, sản xuất thường có các lễ hội nghề nghiệp tương ứng, có một vị tổ
và một ngày giỗ tổ nghề trong năm.
Một năm, người Hoa có nhiều ngày lễ
tết như Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu… Nguyên Tiêu
là tết đặc trưng, tín ngưỡng và văn hóa truyền thống được biểu hiện trong dịp
này. Nổi bật trong tín ngưỡng
dân gian là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, các vị thần, thánh, Bồ tát... Hệ
thống chùa miếu của người Hoa khá phát triển trong cộng đồng.
Sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa có nhiều thể loại như hát, múa, hài kịch với nhiều loại nhạc cụ tiêu, sáo, các loại đàn (tì bà, nhị, nguyệt), chập chõa... Hát “sơn ca” (sán cố) là hình thức được nhiều người ưa chuộng, nhất là tầng lớp thanh niên. Tổ chức văn nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư đã có từ lâu là các “nhạc xã”. Múa lân, sư tử, rồng là những loại hình nghệ thuật mang tính quần chúng được trình diễn vào những ngày lễ tết.
Sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa có nhiều thể loại như hát, múa, hài kịch với nhiều loại nhạc cụ tiêu, sáo, các loại đàn (tì bà, nhị, nguyệt), chập chõa... Hát “sơn ca” (sán cố) là hình thức được nhiều người ưa chuộng, nhất là tầng lớp thanh niên. Tổ chức văn nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư đã có từ lâu là các “nhạc xã”. Múa lân, sư tử, rồng là những loại hình nghệ thuật mang tính quần chúng được trình diễn vào những ngày lễ tết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét