Nhận
thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình
hình thế giới là công việc rất cần thiết. Mỗi quốc gia, dân tộc cần biết mình
đang sống trong thời đại gì và bối cảnh thế giới nào, với những tính chất, đặc
điểm, nội dung và xu thế phát triển ra sao.
Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp chúng ta tìm thấy xu hướng
tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống
xã hội. Đó cũng là cách giúp chúng ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng
và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp
với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách đố phức tạp, tránh
được những vấp váp sai lệch; từ đó không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước
phong ba bão táp của đời sống chính trị quốc tế.
Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng,
trước đây cũng như bây giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu
bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại; nhận định
các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt
Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo. Cả trên phương diện
lý luận và thực tiễn là như vậy nhưng hiện nay một số luận điệu sai trái cho rằng:
Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Vì vậy, các phần tử phản động, cơ hội chính trị cho rằng: Từ Đại hội
XIII trở đi, không nên nói đến CNXH nữa. Họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ;
nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời
đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và phe xã hội chủ
nghĩa (XHCN) nữa thì nước ta làm sao có thể đi lên CNXH được? Luận điệu của họ
không có gì mới nhưng cách diễn đạt khác đi. Những luận cứ đấu tranh chống các
luận điệu này cần được làm rõ.
Sự
thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được
Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện
nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH, thì nay CNXH sụp đổ
rồi, thời đại này đương nhiên là của CNTB; rằng CNXH và CNCS đã tàn lụi thì dù có trăm năm
sau cũng không thể gượng dậy được nữa.
Cách nhìn nhận của họ rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và
rất thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại
khác không thể diễn ra nhanh chóng được, mà phải qua một chặng đường dài. Quá
trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co,
phức tạp chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những
bước thụt lùi. Sự đổ vỡ của mô hình XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản
trên thế giới. Ai cũng biết rằng, sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó
không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội
dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa (TBCN) thay thế thời
đại phong kiến đâu phải dễ dàng. Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm
năm, trải qua biết bao phức tạp, bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực
phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ
thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện
tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.
Thế giới
thay đổi khôn lường, nội dung thời đại không thay đổi
Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, CNXH ở
Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười cũng chấm hết.
Đây đúng là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng, thành quả
mà Cách mạng Tháng Mười đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó
quyết không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Lịch
sử đã tỏ rõ, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại
nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong
ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN đã phải
trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, Anh,
Pháp... thì hình thái kinh tế - xã hội TBCN mới thực sự thắng thế trước
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
Sự phát triển của xã hội loài người từ
sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ rằng, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười
không chỉ là ngọn đèn pha tỏa sáng dẫn đường, mà còn có những đóng góp thực tế
to lớn. Cách mạng Tháng Mười là tiếng chuông đánh thức lịch sử, báo hiệu một
trang sử mới của thế giới. Thế giới trước Cách mạng Tháng Mười là một thời kỳ u
mê, an phận, là thời đại của CNTB. Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười làm cho
CNTB bị đổ vỡ một mảnh lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới với sự
hình thành và phát triển của CNXH làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Thành quả của Cách mạng Tháng Mười tạo cho
loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của CNTB, làm thay đổi cả những yếu
tố bên trong của CNTB. CNTB không thể sống tự nó nữa mà đã phải cố gắng vì sự tồn
tại của nó. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi,
những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội... ở các nước
tư bản phát triển hiện nay đều do kết quả đấu tranh của những người lao động để
giành quyền sống, quyền tự do, bình đẳng và sâu xa hơn là được ảnh hưởng của
Cách mạng Tháng Mười.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận
định rằng, mặc dù tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới
có nhiều thay đổi, có khi là thay đổi khôn lường, nhưng bản chất của thời đại
không thay đổi. Tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến
động, nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
vẫn tồn tại, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới.
Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức.
Niềm
tin vững chắc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Nước ta quá độ lên CNXH tuy không còn
có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước, nhưng trong giai đoạn mới
của thời đại, khi cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế
giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước
nào sống biệt lập mà có thể phát triển được. Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng
nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc
lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất
kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó cũng là một khả
năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hòa nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, không chỉ có thời cơ mà còn có cả những
thách thức, những nguy cơ. Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các
nước tư bản phát triển, là những trung tâm kinh tế, kỹ thuật hùng mạnh, họ có
thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để gây sức ép đối với
chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp khó khăn, buộc chúng ta phải chấp
nhận những điều kiện có lợi cho họ, hòng lái chúng ta đi chệch khỏi định hướng
XHCN. Mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển là xu hướng của thời đại nhưng còn một
xu hướng khác đối lập là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu toan của các thế lực
cường quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên nhiều khu vực của
thế giới, đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển đảo, xâm phạm độc lập,
chủ quyền của nước khác.
Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự
nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có những
chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu. Chúng ta thực hiện phương
châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính nguyên
tắc về mục tiêu chiến lược và mềm dẻo linh hoạt về sách lược. Đấu tranh không
phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển sự hợp tác. Phải biết khéo tận dụng thời
cơ, tranh thủ quan hệ với các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự
hợp tác vừa có lợi, vừa bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những
tình huống xấu nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta
hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động
hai chiều tích cực và tiêu cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi
kinh tế khu vực và kinh tế thế giới ổn định phát triển, tác động tiêu cực khi
kinh tế thế giới và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ khủng hoảng. Chúng ta cần
có chính sách sử dụng tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực, giữ
cho nền kinh tế nước ta ổn định và phát triển. Đây là bài học thực tế đã xử lý
trước những tác động tiêu cực của cơn khủng hoảng tài chính-tiền tệ và khủng hoảng
kinh tế trong khu vực và thế giới trong thời gian qua.
Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết
tranh thủ những thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những
nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN theo
quan điểm của V.I.Lênin, người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát
triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm
mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách
mạng nước ta.
Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững
chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn,
đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; nhất
định thực hiện được mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét