Ở Việt Nam, quan hệ dân tộc chủ yếu được hiểu ở cấp
độ quan hệ tộc người. Quan hệ dân tộc ở
Việt Nam là sự liên hệ, tác động, ràng buộc lẫn nhau trong tộc người, giữa các tộc người trong quốc gia
dân tộc Việt Nam và với người Việt Nam ở nước ngoài - quan hệ tộc người xuyên
biên giới.
Mục đích
quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay là nhằm trao đổi, phát triển kinh tế; duy
trì sự gắn kết họ hàng, đồng tộc; chia sẻ các giá trị lịch sử, văn hóa tộc người
và các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng... để phát triển toàn diện tộc người,
quan hệ tộc người trong quốc gia dân tộc Việt Nam.
Quan hệ dân tộc ở Việt Nam được xem xét dưới
các góc độ cơ bản: xét theo không gian, có mối quan hệ trọng nội bộ từng dân tộc nước
ta, quan hệ dân tộc trong nội bộ quốc gia – dân tộc Việt Nam và quan hệ dân tộc liên/xuyên biên
giới; xét
theo cấu trúc dân tộc - quốc gia, bao gồm: quan hệ
giữa các tộc người với quốc gia - dân tộc mà đại diện là Đảng, Nhà nước
thông qua thực hiện quan điểm, chính sách dân tộc, chủ trương, chính sách phát
triển các dân tộc; quan hệ giữa tộc người
đa số (người Kinh) với các tộc người thiểu số; quan hệ giữa các tộc người thiểu
số và trong nội bộ từng tộc người thiểu số và quan hệ tộc người xuyên biên giới.
Các mối quan hệ này tuy có vị trí và mức độ ảnh hưởng khác nhau, nhưng đều có mối
liên quan chặt chẽ, trong đó, mối quan hệ giữa người Kinh với các tộc người thiểu số và mối
quan hệ của từng tộc người với quốc gia dân tộc là những nội dung quan trọng. Với
xu thế cùng cộng cư, hôn nhân hỗn hợp, quan hệ làm ăn và nhiều yếu tố khác đang
dần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc.
Đặc điểm của quan hệ dân tộc là quan hệ diễn ra thường xuyên, lâu dài, trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của tất cả các tộc người và giữa các tộc người. Cho nên, quan hệ dân tộc rất đa dạng, sinh động, đa chiều, đa hình thức, cấp độ trong các không gian khác nhau, khá phức tạp và tồn tại lâu dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét