Thứ Ba, 24 tháng 10, 2023

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM “Ở VIỆT NAM KHÔNG CÓ NHÂN QUYỀN”

Trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó, tự do ngôn luận, tự do báo chí đang là một mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ. Mới đây, trên trang “Rfavietnam”, Đài RFA đăng bài “Nhiều tổ chức XHDS kêu gọi Quốc hội Châu Âu gây sức ép mạnh hơn lên Việt Nam về vấn đề nhân quyền” và cho rằng: “Nhà nước độc đảng ở Việt Nam đã vi phạm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền người lao động”. Nội dung của bài viết là những luận điệu sai trái, thiếu thiện chí, cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín nước ta trên trường quốc tế.

Như chúng ta đã biết, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng, thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016), Luật An ninh mạng năm 2018 quy định trách nhiệm của Nhà nước: tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ sáu trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc và bài kích chống đối chế độ. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo cho rằng “Tự do báo chí ở Việt Nam ngày càng suy giảm”.

Thực tế cho thấy, ở Việt Nam quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Nhà nước Việt Nam đã tập trung xử lý các đối tượng lợi dụng phương tiện này để phục vụ cho mưu đồ chống phá, vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật Việt Nam, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Thực tế đó là minh chứng vạch trần sự phiến diện, xuyên tạc về “Việt Nam gia tăng đàn áp quyền tự do ngôn luận” và “Tự do báo chí ở Việt Nam ngày càng suy giảm”.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí đối với các chế độ xã hội và nhà nước là một điều kiện bảo đảm quyền con người. Hơn thế nữa còn là một điều kiện quan trọng để phát triển xã hội trên các mặt, từ tư tưởng, chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa. Tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân Việt Nam đã được hiến định bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật minh bạch. Vì vậy, mọi người cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đấu tranh phản bác mọi luận điệu xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA VIỆT NAM

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam nam 2019, đã thể hiện rõ bản chất hòa bình và tự vệ; trong đó thể hiện rõ mục tiêu: tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

Những năm qua, cùng với quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện nhất quán trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng, trong đó nêu rõ chủ trương “Bốn không”, thể hiện rõ sự công khai, minh bạch tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ; phương châm nhất quán là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung; tăng cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin của các quốc gia khác với Việt Nam.

Tuy nhiên, bất chấp sự thật, các thế lực thù địch đã không từ thủ đoạn nào để công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam. Họ cho rằng, chính sách quốc phòng nói chung, chủ trương “bốn không” của Đảng, Nhà nước ta nói riêng đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn; “không liên minh quân sự”, “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam “tự trói tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực Biển Đông, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc, v.v.

Cần khẳng định rõ, những luận điệu trên hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của Việt Nam. Bởi, quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là: “Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 xác định: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ: Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào.

Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”.

Trên thực tế, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng chính sách quốc phòng đã đề ra, tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử hơn 510 lượt cán bộ, nhân viên với 04 lượt bệnh viện dã chiến và Đội Công binh số 1 đến thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và Trụ sở Liên hợp quốc, được Liên hợp quốc cùng cộng đồng quốc tế đánh giá cao, tạo uy tín, vị thế, đưa Việt Nam hai lần  trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ (2008 – 2009) và 2020 – 2021 với số phiếu bầu rất cao (192/193 phiếu tán thành). Đây là minh chứng thể hiện rõ mong muốn, thiện chí của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong thực thi chính sách quốc phòng mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận

 

 

 

 


NHỮNG ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ UY TÍN HAY CHÍNH DANH LẠI NHẬN XÉT VỀ TÍNH CHÍNH DANH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Được nhân dân tin tưởng, ủy thác, công nhận là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo đất nước, đó là một vinh dự lớn lao của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thế nhưng vinh dự luôn đi kèm với trách nhiệm. Trước đây, Đảng đã hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của mình là lãnh đạo thành công công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Còn ngày nay, trách nhiệm của Đảng là lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đó cũng là ý nguyện, mong muốn của từng người dân Việt Nam. Nên chẳng thể nói như các đối tượng thù địch rằng, chế độ một đảng cản trở sự phát triển đất nước

Còn với ý kiến phải đa đảng mới dân chủ, mới phát triển thì sao? Ở một số ít quốc gia có trình độ phát triển cao dưới chế độ đa đảng thì trong cả quá trình lịch sử cũng chỉ có từ 1 đến 2 đảng là nắm quyền, các đảng khác thường không có tiếng nói. Còn ở nhiều quốc gia khác, nhất là các quốc gia sau các cuộc cách mạng để chuyển thành chế độ đa nguyên, đa đảng thì tình hình chính trị trở nên rất rối ren, đất nước khó phát triển.

Vậy thì Việt Nam, dưới chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền thì sao? Với bối cảnh sau hai cuộc chiến tranh, có một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, phụ thuộc vào viện trợ, lại trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận của nước ngoài, Đảng ta đã gặp muôn vàn khó khăn khi phải đưa đất nước phục hồi từ một xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác.Thế nhưng sau gần 40 năm đổi mới, dù còn có những hạn chế, nhưng nhìn một cách tổng thể, những thành tựu đạt được là khá toàn diện và đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, bộ mặt đất nước thay đổi, cuộc sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Vì vậy, với nhận định một đảng làm cản trở sự phát triển là luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần phải đấu tranh lên án, vạch trần âm mưu đen tối, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch.

 


PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TÍNH CHÍNH DANH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Với mục tiêu hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhồi nhét tư tưởng về "đa nguyên chính trị,  đa đảng đối lập". Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã không từ bỏ thủ đoạn chống phá nào. Do đó, thời gian qua, trên các trang mạng xã hội vẫn tiếp tục xuất hiện những luận điệu xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực.

Đứng sau những luận điệu nhằm vẽ nên một bức tranh u tối về đất nước, đó vẫn là những cái tên, những tổ chức chẳng hề xa lạ, nơi bắt nguồn của những thông tin sai lệch, những phát ngôn thù hằn, kích động. Phía sau những luận điệu hoạt động chống phá này, có một điều không hề thay đổi và các đối tượng này cũng chẳng hề giấu giếm, đó là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc đả kích tính chính danh, đồng thời nhồi nhét tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng tiến tới thay đổi chế độ ở nước ta.

Như chúng ta đã biết, tháng 4/2018, với tội danh "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", đối tượng Nguyễn Văn Đài bị tuyên án 15 năm tù. Sau đó, Chính phủ Việt Nam cho phép đối tượng này định cư tại nước ngoài. Tuy nhiên, ngựa quen đường cũ, trong những năm qua, Nguyễn Văn Đài vẫn liên tục tung ra các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về mọi lĩnh vực của xã hội, đặc biệt nhằm vào thể chế một đảng lãnh đạo của Việt Nam. Nguyễn Văn Đài kêu gọi "bỏ điều 4 Hiến pháp quy định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam", kích động thực hiện cách mạng màu, cổ súy việc áp dụng mô hình "đa nguyên đa đảng", lập nên các "đảng đối lập" tham gia điều hành đất nước. Với mục tiêu chống phá đất nước, đồng thời kiếm chác cho cá nhân, luận điệu này của Nguyễn Văn Đài tiếp tục được tung hứng, phát tán bởi nhiều đối tượng khác đang sống ở nước ngoài chuyên đưa tin giả, tin xuyên tạc.

Việt Tân - một tổ chức đã được Bộ Công an Việt Nam đưa vào danh sách tổ chức khủng bố và một số cơ quan truyền thông nước ngoài vốn không có thiện chí với Việt Nam. Các luận điệu này lâu nay đã được chỉ rõ là hoàn toàn xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, đi ngược lại với bối cảnh phát triển và ý nguyện của nhân dân Việt Nam.

Những năm qua, công cuộc phòng, chống tham nhũng tiêu cực tại Việt Nam đã đạt được những kết quả chưa từng có, được thế giới đánh giá cao. Thậm chí, cụm từ "đốt lò" còn được báo nước ngoài sử dụng nguyên văn thay vì được dịch sang tiếng Anh, để khẳng định dấu ấn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực.

Thế nhưng, hơn 10 năm Việt Nam chống tham nhũng thì cũng chừng ấy năm, các đối tượng thù địch lặp đi lặp lại những luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc rằng: "Tham nhũng là bản chất của chế độ", "chống tham nhũng là đấu đá nội bộ" hay "đã là Đảng Cộng sản thì không thể chống được tham nhũng"…

Lợi dụng những biến động trên thế giới, những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển đất nước, chiến lược chống phá của các đối tượng này được dự báo sẽ còn được ráo riết đẩy mạnh. Cùng với dấu hiệu cho thấy sự liên kết giữa các đối tượng vi phạm pháp luật, cơ hội chính trị nhằm tăng cường chống phá, các đối tượng đứng sau các tài khoản mạng xã hội như Việt Tân, Chân trời mới, Tập hợp dân chủ đa nguyên… tiếp tục thổi phồng các hạn chế, thiếu sót, đặc biệt là các vấn đề nhạy cảm, lợi dụng không gian mạng để tán phát các thông tin này trên một diện rộng hơn, với tần suất cao hơn.


Thứ Tư, 18 tháng 10, 2023

NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA DẢNG

Trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC) của Đảng, phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất, chặt chẽ về mặt tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cho Đảng tan rã cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ hòng thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Để thực hiện âm mưu này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, núp bóng dân chủ, đội lốt nhân quyền rêu rao cho rằng: tập trung và dân chủ là hai mặt không thể thống nhất, đã tập trung thì không thể có dân chủ, đã dân chủ thì không thể tập trung, tập trung với dân chủ như lửa với nước, nên hoặc chỉ có tập trung, hoặc chỉ có dân chủ.

Thực chất các luận điệu này là muốn tách rời, đối lập tập trung và dân chủ nhằm phủ nhận một mặt nào đó để Đảng dẫn tới dân chủ vô chính phủ, khi đó sự chặt chẽ, thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng bị phá vỡ, Đảng mất sức chiến đấu, uy tín của Đảng bị giảm sút, không còn đủ sức lãnh đạo cách mạng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo.

Trong bối cảnh đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị cho rằng: nguyên tắc TTDC chỉ phù hợp khi Đảng còn hoạt động bí mật hoặc trong điều kiện chiến tranh, nay thời bình, nguyên tắc đó là lỗi thời, không còn phù hợp, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới trì trệ, tiêu cực. Điều nguy hiểm hơn, họ lợi dụng những khuyết điểm, sai phạm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để đổ lỗi cho những khuyết điểm, hạn chế đó đều do nguyên tắc TTDC không còn phù hợp.

Lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm, nhất là khi Đảng ta đẩy mạnh thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có trường hợp ngoại lệ” đã xử lý nghiêm nhiều cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng sai phạm, làm trong sạch Đảng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, quy chụp, đánh đồng hiện tượng thành bản chất. Họ cho rằng, tham nhũng là bản chất của Đảng, là hệ quả của thực hiện nguyên tắc TTDC, là lợi ích nhóm, lợi ích của cán bộ, đảng viên. Họ cho rằng: chống tham nhũng là để thanh trừng phe cánh chứ không phải là để làm cho Đảng sạch hơn, mạnh hơn.

Sự thật hoàn toàn trái ngược: trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ chống tham nhũng được coi là phương thuốc chữa bệnh đặc hiệu, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Với quan điểm “xử một người, cứu muôn người”, “chặt cành để cứu cây”, Đảng sẽ thật sự trong sạch, thật sự xứng đáng với sứ mệnh lịch sử và trọng trách mà nhân dân giao phó. “Cuộc đại phẫu” này tuy đau đớn, nhưng cần thiết và được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chưa khi nào uy tín của Đảng được nâng cao như ngày nay. Vì vậy, những luận điểm đánh lận bản chất, bôi đen mục tiêu của Đảng cần phải được nhận diện và đấu tranh. 

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN LUÔN LÀ MỤC TIÊU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Kể từ khi ra đời và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn phải đấu tranh quyết liệt với hệ tư tưởng tự sản, với chủ nghĩa chống cộng và các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lôgíc của cuộc đấu tranh sinh tử ấy đã chỉ ra rằng: khi cách mạng đang ở cao trào, đang thắng lợi thì các thế lực thù địch tìm mọi cách để chống đỡ, phòng ngự, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, tạm thoái trào thì chúng chuyển mạnh sang phản công và tấn công, tập trung công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của chúng ta. Chúng đã và đang triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm của đảng cộng sản và phong trào xã hội chủ nghĩa để chống phá, thậm chí chúng còn bịa đặt một cách thô thiển để thoá mạ, cố tình chứng minh cho điều mà chúng muốn là “chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời”, không thể giữ vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản.

Chúng còn lợi dụng sự kiện sự sụp đỗ chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và các nước Đông Âu để chống phá. Chúng rằng chủ nghĩa xã hội là bước đi sai lầm của lịch, là một “ảo tưởng bốc đồng” của một bộ phận nhân loại,….

Một số khác cho rằng chỉ nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một phần của nhận thức, không thể coi là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động được. Nếu như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các thế lực chống cộng phải giả danh chủ nghĩa Mác để xét lại điểm này, điểm khác, thì hiện nay, chúng công khai tuyên bố bác bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin; coi đó là lý luận “lỗi thời”, “quái gở”, là “không thích hợp với phương Đông, mà cũng chẳng thích hợp với phương Tây”; rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin không còn chỗ đứng nữa”, bây giờ chỉ còn phải lựa chọn giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa không tự do trong kinh tế, giữa bảo thủ và xã hội dân chủ hay là con đường thứ ba giữa hai cánh của con đường chính trị tư sản mà thôi...

Các thế lực thù địch, chống cộng, những kẻ cơ hội, xét lại rất táo bạo, trắng trợn, thô bỉ trong việc nói và làm, bất chấp thực tế lịch sử và hiện thực khách quan. Chúng cố tình quên rằng, chính từ quá trình nghiên cứu một cách khoa học sự hình thành, vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra quy luật phát triển tất yếu của lịch sử: chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị diệt vong và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu; đã chỉ ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động mục tiêu cần phải đến và con đường dẫn tới mục tiêu đó.


CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC, BÔI ĐEN LỊCH SỬ DÂN TỘC

Xuyên tạc, bôi đen lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc là một thủ đoạn quen thuộc của các phần tử cơ hội, chống phá cách mạng, trong đó có Lê Dủ Chân. Sau bài viết “Xin đừng quên Tổ quốc”, Lê Dủ Chân viết thêm bài “Đảng Cộng sản đã làm được gì cho Tổ quốc và nhân dân Việt Nam” nhằm tìm cách thuyết phục, kêu gọi các lực lượng thù địch chống phá Đảng và Nhà nước ta. Nhưng xuất phát điểm vốn đã sai lầm, nên càng cố giải thích, phân tích bao nhiêu, Lê Dủ Chân càng lún sâu vào sự vô lý, sai lầm bấy nhiêu. Bài viết của ông ta, từ đầu đến cuối, hoặc là những dẫn chứng mang tính vu khống, xuyên tạc, bóp méo sự thật, hoặc là những suy diễn chủ quan, nặng nề định kiến sai lầm.  Vi vậy, mọi công dân cần cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của chúng, để không bị chúng dụ dỗ, lôi kéo và mắc lừa.


ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Như chúng ta đã biết, năm 1858, thực dân pháp nổ sung tấn công đà nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã anh dung liên tiếp đúng lên đấu tranh đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Lớp lớp các anh hùng, sĩ phu, hào kiệt như: Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái... không cam chịu mất nước, không cam chịu làm nô lệ, không sợ hy sinh máu xương đã anh dũng đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp. Song, tất cả các phong trào cứu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, hào kiệt theo các trào lưu tư tưởng khác nhau lần lượt thất bại. Cách mạng nước ta bị dìm trong biển máu, công cuộc cứu nước lâm vào khủng hoảng, bế tắc...Sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước và tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Sau 15 năm ra đời, nắm vững thời cơ cách mạng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta trường kỳ kháng chiến gian khổ suốt 9 năm để làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; góp phần làm tan dã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hôi trên thế giới. Quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất đất nước, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên đã bị thực dân, đế quốc xâm lược và bọn tay sai cầm tù, sát hại, hàng vạn đảng viên đã anh dũng hy sinh và đi vào sử sách của dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.  Đây là một sự thật lịch sử đã  được nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới và nhân dân ta thừa nhận, tôn vinh.

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 93 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới đã chứng minh chân lý khách quan: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


KHÔNG THỂ COI SỰ SỤP ĐỖ MÔ HÌNH CNXHH Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU LÀ SAI LẦM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.

Như chúng ta đã biết, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX là bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân sâu xa từ nhận thức không đúng, vận dụng máy móc, giáo điều những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng điều tệ hại nhất và là nguyên chủ yếu, trực tiếp dẫn đến sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều sai lầm chủ quan, kéo dài, ngày càng trầm trọng của các đảng cộng sản và những người lãnh đạo của các đảng và nhà nước ở đó. Họ đã xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ Mác - Lênin, để cho chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn chính trị, mất cảnh giác, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, mất phương hướng chính trị, thiếu sắc sảo, nhạy bén trong lãnh đạo, quan liêu, bảo thủ, trì trệ... không theo kịp sự phát triển của thực tiễn.

Ở vào thời điểm có tính chất bước ngoặt liên quan đến vận mệnh của chủ nghĩa xã hội thì họ không đủ bản lĩnh và trí tuệ chèo lái con| thuyền cách mạng vượt qua sóng to, gió lớn mà lại tự “dâng hiến” mọi thành quả đã đạt được trong gần một thế kỷ đấu tranh cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản không một chút do dự.

Tất cả điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phá sản, những nguyên lý cơ bản của nó là sai lầm. Trái lại, chính vì không nắm vững bản chất cách mạng và khoa học; xơ cứng, giáo điều trong vật dụng, phát triển; buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, lùi bước trong cuộc đấu tranh tư tưởng, mất cảnh giác với kẻ thù ở bên ngoài, không tỉnh táo đề phòng sự phá hoại từ bên trong đã làm cho chủ nghĩa xã hiện thực sụp đỗ. Bài học xương máu” ấy đang nhắc nhở chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải luôn luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối không lặp lại sai lầm “theo vết xe đổ”, để mất vai tròlãnh đạo của Đảng Cộng sản, mất chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã phải để biết bao xương máu mới có được.


CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

    Thời gian qua trên mạng xã hội xuất hiện những bài viết mang quan điểm sai trái của các đối tượng thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, chúng tìm mọi cách phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây nghi kỵ trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, thành tựu 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại của đảng ta là hoàn toàn đúng đắn và khoa học

Phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh khẳng định: Trong tổng thể các thành tựu của đất nước có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại và hội nhập quốc tế. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đặc biệt quan tâm, chủ động triển khai và đạt nhiều kết quả quan trọng, tích cực, toàn diện nổi bật trên các mặt công tác là: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ, nâng tầm quan hệ với các đối tác; đồng thời đưa các mối quan hệ này ngày càng phát triển đi vào chiều sâu trên cơ sở tăng cường tin cậy chính trị, nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác.

“Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

          Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, mọi luận xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước trên các trang mạng xã hội là hoàn toàn không có cơ sở, đó chỉ là những thông tin bịa đặt, sai lệch, nhằm phủ nhận  những thành tựu của công tác đốiÂY ngoại và chống phá đảng và nhà nước ta. Vì thế, cần cảnh gián trước những luận điệu xuyên tạc đó.


Thứ Hai, 16 tháng 10, 2023

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng trong tình hình hiện nay là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vô cùng cấp thiết đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam có hiệu quả, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới không chỉ là đặc trưng bản chất, một thuộc tính vượt trội so với các học thuyết lý luận khác trong lịch sử, mà còn là mệnh lệnh, yêu cầu của cuộc sống chúng ta. Đây là một trong những biện pháp tốt nhất đúng như lời dạy của Ph.Ăngghen “Mỗi khi có những phát minh vạch thời đại, chủ nghĩa duy vật phải thay đổi hình thức của mình”. Là người đấu tranh, bảo vệ và phát triển thành công chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: “Không có gì là lạ nếu trên con đường phát triển của chủ nghĩa Mác đều phải kinh qua chiến đấu; mỗi lần chiến đấu thắng lợi chủ nghĩa Mác lại càng được củng cố, hoàn thiện”. Ở đây, quan niệm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cần được hiểu một cách mềm mại với nhiều trình độ, quy mô, phạm vi khác nhau, có thể diễn ra ở qui mô lớn, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới, như V.I.Lênin đã từng thực hiện, nhưng cũng có thể là sự vận dụng sáng tạo, phát triển một, hoặc một số luận điểm trong toàn bộ hệ thống những quan điểm, học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khả năng bảo vệ, phát triển của nó không chỉ ở sức mạnh và khả năng tự thân, mà quan trọng hơn, nằm ở hoạt động của triệu triệu quần chúng, cán bộ, đảng viên cộng sản, khi họ đã yêu quý gắn bó với nó, trên cơ sở nhận thức sâu sắc sự đúng đắn bản chất cách mạng khoa học của nó. Vì vậy, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được tiến hành một cách cơ bản, hệ thống, có chiều sâu với những nội dung, hình thức đa dạng, phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể. Đó là một trong những yếu tố góp phần tạo nên sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Hai là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, nhận diện quan điểm sai trái cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Giáo dục, nâng cao nhận thức và nhận diện được quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là vấn đề hết sức quan trọng. Tình trạng nhận thức không đúng, nhận diện không chính xác các quan điểm sai trái, thù địch có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản xuyên suốt là do chúng ta chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chưa tuyên truyền sâu rộng trong xã hội; phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch chưa trở thành động lực bên trong thôi thúc mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia. Để công tác này đạt hiệu quả thiết thực, mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, bí thư cấp ủy các cấp phải là tấm gương trong học tập và nghiên cứu lý luận, phải nhận diện được và có quan điểm rõ ràng trước các quan điểm lệch lạc, thù địch, từ đó tuyên truyền, giáo dục và vận động đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống.

Hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách giáo điều, máy móc, giản đơn, cảm tính, tư duy kinh nghiệm, không hiểu rõ bản chất các học thuyết, quan điểm, tư tưởng,… những biểu hiện đó sẽ làm suy giảm nghiêm trọng uy tín, sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo điều kiện để các thế lực thù địch tấn công, xuyên tạc làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Vì vậy, các cấp ủy đảng phải luôn nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong nhận thức, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ba là, kiên quyết, chủ động vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch.

Ngay từ khi chủ nghĩa Mác mới ra đời, giai cấp vô sản và những người cộng sản đã tổ chức đấu tranh làm thất bại những đòn tiến công hiểm độc của chủ nghĩa cơ hội và các trào lưu tư tưởng tư sản phản động. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ nội dung, hình thức, lực lượng phương tiện, thủ đoạn chống phá của chúng đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là không giống nhau. Do vậy, để đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, trước hết chúng ta cần nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn, lực lượng, phương tiện mà các lực lượng phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây thực chất là công tác nắm địch trong đấu tranh cách mạng, để “biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”. Việc nắm địch không dừng lại ở việc nắm âm mưu, thủ đoạn chung mà phải tiến tới nắm rõ nhân thân, sở trường, sở đoản của những kẻ có tư tưởng thù địch, cơ hội chính trị; mục đích cụ thể, mục đích lâu dài, cơ sở tư tưởng, nguồn gốc phát sinh, phát triển của những luận điệu chống phá mà họ sử dụng.  Hơn nữa, những nội dung này cần sớm phổ biến kịp thời tới các lực lượng tham gia đấu tranh và lưu trữ trong kho dữ liệu dưới những hình thức phù hợp, vừa mang tính bảo mật cao, vừa dễ dàng truy cập, phổ biến khi cần thiết.

Bốn là, xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao.

Đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân toàn bộ hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, phải không ngừng củng cố tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng, là biện pháp “tự đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù. Xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ quan, đơn vị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ năng lực, uy tín và trình độ để giáo dục, thuyết phục và định hướng cho quần chúng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch. Thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, tiếp tục thực hiện có hiệu quả sinh hoạt tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Kế hoạch của Ban Bí thư, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm, khắc phục thái độ thờ ơ, bàng quan, mất cảnh giác trước các quan điểm sai trái. Phấn đấu mỗi tổ chức đảng, mỗi chi bộ là một pháo đài vững chắc trên trận địa đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, bảo vệ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước.

Năm là, phát huy vai trò của các lực lượng, phương tiện từ Trung ương đến địa phương trong tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điểm sai trái.

Để đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương cần sử dụng và phát huy hiệu quả các cơ quan chức năng trong nắm, đánh giá, dự báo tình hình; tham mưu kịp thời với cấp ủy đảng, chính quyền các nội dung biện pháp đấu tranh ngăn chặn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; cung cấp thông tin, kịp thời định hướng tư tưởng, nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm diễn ra trong đời sống xã hội. Sử dụng và phát huy hiệu quả các cơ quan báo chí, truyền thông, các thiết chế văn hóa ở cơ sở; bám sát các sự kiện chính trị của đất nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để xác định nội dung, biện pháp tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta; nêu cao ý thức cảnh giác, chủ động phát hiện và đấu tranh kịp thời với các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.   

Những luận điểm sai trái dù có sử dụng trăm phương nghìn kế, song không thể phủ nhận được tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn nhất định thành công; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do Đảng ta đề ra nhất định sẽ trở thành hiện thực./.


NHẬN DIỆN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.

Những quan điểm, luận điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) hiện nay thường được thể hiện trong các bài nói, bài viết, tài liệu, sách báo đăng trên nhiều phương tiện thông tin, đi từ nhiều kênh khác nhau để vào Việt Nam. Qua nghiên cứu, theo dõi có thể khái quát, nhận diện luận điểm sai trái ở một số nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Xuyên tạc, bác bỏ bản chất cách mạng và khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội mác xít nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Các lực lượng phản động, thù địch, bất mãn, cơ hội chống đối chính trị sử dụng một số trang mạng trên Internet làm phương tiện để phát tán, đăng tải các luận thuyết tư sản về sự vận động, phát triển của lịch sử. Đáng lưu ý là chúng khuếch trương, cổ xúy những cách tiếp cận theo hướng tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, sự phát triển của các nền "văn minh", phủ nhận vai trò quyết định và mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và hình thái kinh tế - xã hội, nhằm thay thế cách tiếp cận duy vật lịch sử mácxít. Quan điểm này về thực chất là phủ nhận vai trò đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, cho tới nay xã hội loài người đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội và đang quá độ tiến vào hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa theo đúng quy luật vốn có của nó. Đây là cách biện luận phản khoa học, trái với quy luật khách quan của lịch sử; chúng còn cho rằng, ở những nước phong kiến, tiền tư bản như ở Việt Nam thì không thể bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giá như Việt Nam không theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đất nước không phải lâm vào mấy chục năm chiến tranh, kinh tế sẽ phát triển hơn, nên họ "khuyên nhủ" Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa cũng chưa muộn!

          Thứ hai,. Trước sự phát triển mới của chủ nghĩa tư bản và những biến đổi trong giai cấp công nhân, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc và lập luận rằng: giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, do vậy sẽ không thể lật đổ được chế độ cũ và lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển Thực chất của quan điểm này là sự biện hộ cho địa vị thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản nhằm khẳng định sự tồn tại "vĩnh hằng" của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

          Thứ ba, Các thế lực thù địch hiểu rõ việc tiến công một cách trực diện vào tư tưởng Hồ Chí Minh là rất khó, vì vậy chúng đã đi đường vòng. Chúng cho rằng, hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã "lỗi thời", chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, phù hợp với dân tộc Việt Nam. Do đó, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao "chủ nghĩa Hồ Chí Minh" để thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin. Mới đọc qua có người dễ lầm tưởng, đó là sự đánh giá đúng tư tưởng Hồ Chí Minh! Đây thật sự là một chiêu trò rất nguy hiểm của một số người nhân danh "cấp tiến" trong mục tiêu phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất của quan điểm trên không chỉ là sự phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn xuyên tạc, bóp méo, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính chất nguy hiểm của các quan điểm này còn thể hiện ở chỗ: bằng nhiều hình thức phát tán, lan truyền nhanh thông qua mạng xã hội; từ đó phần nào gieo rắc sự hoài nghi, dao động về nền tảng tư tưởng của chúng ta; tạo nên "khoảng trống" về tư tưởng và ý thức hệ để chúng dễ bề truyền bá các quan điểm, tư tưởng phi vô sản vào đời sống tinh thần xã hội ta; tạo ra sự "diễn biến bên trong", nhất là diễn biến về tư tưởng, từ đó dẫn đến "tự diễn biến" về những mặt khác trong xã hội.

          Thứ tư, Các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền "đa nguyên chính trị", “đa đảng đối lập", coi đây là một ngón đòn lợi hại, “bệ đỡ” lý luận cốt yếu cho mưu toan thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta. Theo họ, "từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ"[1]. Tính phức tạp, độc hại, nguy hiểm của quan điểm này là nó được khoác cái vỏ "vì dân chủ", mị dân, dễ gây nên sự mơ hồ, ngộ nhận, lẫn lộn về nhận thức, dao động về tư tưởng; nếu không thực hiện được ý đồ xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng thì cũng gây nên sự chia rẽ trong xã hội; sự hoài nghi, thiếu niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng. Với cách lập luận về vấn đề trên, một mặt nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; mặt khác “lái” nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ kiểu tư sản. Họ còn luận chứng rằng, Việt Nam thực hiện đa đảng thì sẽ dân chủ hơn, đất nước sẽ phát triển và đời sống nhân dân được tốt đẹp hơn.

Năm là, xuyên tạc mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy dân chủ trong công tác xây dựng Đảng. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội là “quái thai của lịch sử”, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là đưa dân tộc vào cảnh “nồi da xáo thịt”, làm cho đất nước “cứ luẩn quẩn trong cảnh đói nghèo”; không có chủ nghĩa xã hội hoặc chủ nghĩa xã hội chlà bước quá độ để tiến tới chủ nghĩa tư bản, những người mácxít bàn về chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào bàn về hư vô”, thực chất là phủ nhận, xuyên tạc mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.

          Thứ sáu,. Để thực hiện mưu đồ "phi chính trị hóa" quân đội, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị sử dụng nhiều phương thức. Về tư tưởng, lý luận, họ lập luận rằng: quân đội là công cụ của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng, chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào. Ý đồ của đằng sau luận điệu trên là phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội, phủ nhận lập trường chính trị của lực lượng vũ trang cách trang, chia rẽ quân đội với Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

Với những luận điểm sai trái nêu trên, đã làm cho nội bộ xã hội ta xuất hiện các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng và niềm tin cộng sản chủ nghĩa; thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; tạo nên sự bi quan, hoang mang nghi ngờ trong tư tưởng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây chia rẽ nội bộ, làm giảm sức đề kháng, tạo cơ sở cho các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.



[1] Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2007, tr. 53.

SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA LỊCH SỬ

Con đường phát triển của dân tộc Việt Nam đến đầu thế kỷ XX đánh dấu một bước chuyển quan trọng, với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930), đưa dân tộc phát triển theo một con đường phát triển mới - con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng XHCN. Ngay trong Cương lĩnh thành lập Đảng đã xác định rõ: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1). Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc thực hiện mục tiêu con đường đã lựa chọn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đã xóa bỏ chế độ phong kiến, thuộc địa, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra thời đại vẻ vang của lịch sử dân tộc - thời đại quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH. Tiếp đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc và các thế lực xâm lược biên giới, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước. Hiện nay, sau gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: chính trị - xã hội ổn định, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được khẳng định. Đó là sự thật không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, thời gian qua trên một số diễn đàn, nhất là trên các trang mạng xã hội xuất hiện các quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta. Họ cho rằng, sự lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật; nếu không đi theo con đường cách mạng vô sản thì vẫn giành được độc lập dân tộc mà không phải đổ máu, hy sinh hàng triệu con người trong chiến tranh; đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, kinh tế sẽ phát triển như một số nước trong khu vực đã trở thành những “con.ồng”, “con hổ” của châu Á; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từng là thành trì của CNXH cuối cùng cũng từ bỏ ngọn cờ để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó, hiện nay Việt Nam nên chuyển hướng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mới phù hợp,v.v.. Những luận điệu trên đây không có cơ sở khoa học và thực tiễn, là âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Hiện thực lịch sử ở Việt Nam đầu thế kỷ XX cho thấy, trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân chịu cảnh áp bức, bóc lột của cả chủ nghĩa thực dân và địa chủ phong kiến, đã có rất nhiều phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương, phong trào khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Dân chủ tư sản,v.v.. song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Ðó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc, “tình hình đen tối như không có đường ra”(2).

Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo tiếng gọi “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển học hỏi những yếu tố tiến bộ để về giúp đồng bào thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Vì vậy, Người đã đến những nước tư bản phát triển như Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước thuộc địa. Qua quan sát và tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, tìm hiểu cuộc sống của người dân ở chính quốc và các nước thuộc địa. Từ đó, Người đi đến kết luận: cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ, cách mạng tư sản Pháp đều là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng chưa đến nơi, vì cách mạng thành công chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức, bóc lột. Cho nên, nếu lựa chọn con đường cách mạng tư sản này cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc, nhưng nhân dân vẫn bị áp bức, vẫn phải chịu kiếp ngựa trâu, thì độc lập dân tộc sẽ chẳng có nghĩa lý gì.

Ở đây cần nhấn mạnh rằng, ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911), Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến các nước tư bản, xem đó như là mục tiêu để cứu nước và giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, thực tế lại không cho đáp án như vậy. Trong bối cảnh đó, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), mở ra thời đại phát triển mới đối với lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Đánh giá về sự kiện này, Người viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”. Từ tiếng vang của Cách mạng Tháng Mười, Người mới tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, lần đầu tiên Người đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cuơng về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin vào tháng 7-1920, từ đó Người kết luận đây mới là con đường cứu nước và giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Như vậy, phải mất gần mười năm trời, Nguyễn Ái Quốc mới tìm ra được con đường cứu nước giải phóng dân tộc, chứ không phải ngay từ đầu Người đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười, tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng. Trong bối cảnh đất nước như vậy, dân tộc Việt Nam đã chọn con đường cách mạng vô sản là tất yếu lịch sử.

Về lý luận, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội về quy luật ra đời, phát triển và thay thế của các chế độ kinh tế, chính trị - xã hội, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích những khả năng ra đời của CNXH, trong đó có khả năng ra đời CNXH từ những nước tiền tư bản. Khi nghiên cứu những nước phương Đông lạc hậu, các nhà kinh điển đã chỉ ra những điểm khác biệt về điều kiện cách mạng giữa phương Đông và phương Tây. Trong đó, phương Đông không tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất theo kiểu phương Tây, mà tồn tại chế độ công hữu tập quyền, từ đó nó quy định phương Đông tồn tại một cơ cấu xã hội “hết sức đặc biệt” - chế độ công xã nông thôn, có đặc điểm lối sống tập thể, quan hệ cộng đồng cố kết. Vì vậy, đến năm 1882, vấn đề đặt ra đối với C.Mác là: “Bây giờ, thử hỏi công xã Nga, cái hình thức thật ra đã bị phá hoại ghê gớm của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, hình thức cộng sản chủ nghĩa được không?. Hay là, trái lại, trước hết nó cũng phải trải qua cái quá trình tan rã giống quá trình mà tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây phải trải qua?.

Ngày nay, lời giải đáp duy nhất có thể có được cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(3).

Sau này, trong điều kiện phát triển mới của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin có điều kiện và cơ sở để phát triển quan điểm đó của C.Mác. V.I.Lênin cho rằng: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(4).

Các nhà kinh điển cũng lưu ý, chỉ bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội này để phát triển lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn khi có các điều kiện: đã xuất hiện mô hình xã hội mới tỏ ra ưu việt, tiến bộ hơn; chế độ xã hội hiện tồn đã thối nát và lạc hậu; đã xuất hiện giai cấp đủ khả năng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Đồng thời các ông cũng đưa ra cảnh báo đối với những nước lạc hậu việc lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH thì dễ, nhưng để đạt được nó - xây dựng thành công CNXH, sẽ khó khăn hơn, lâu dài hơn, phức tạp hơn và phải trải qua rất nhiều lần thử nghiệm, trong quá trình đó đôi lúc phải trả những cho những sai lầm.

Như vậy, việc lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở khoa học và thực tiễn. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu, khách quan của thời đại.