Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh
phúc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh
hiện nay, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
I. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường
Một
là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên
ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng,
cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động
giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay
không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện
sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu
trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).
Hai
là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí
Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc
chính là sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ
ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng
lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”(2). Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực,
tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết
hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3).
Ba là,
ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách
mạng.
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết
là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4).
Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và
chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”(5).
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày
28/1/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những
vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết
tâm giành cho được độc lập dân tộc.
Bốn
là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai
trò, sức mạnh của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”(6). Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào
cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy,
nhân dân cũng làm được”(7).
Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng
bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(8).
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải
ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(9). Trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ: “Chiến tranh
có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một
số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(10).
Năm
là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền
độc lập dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ
và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm
nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự
vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị
cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(11).
Thứ
hai, về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Một
là, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng
cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước
giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của Người đã
được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”(12). Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. “Nay chúng ta đã giành được quyền
độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng
cao dân trí”(13). Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối
cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(14).
Hai
là, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong
điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho
nhân dân. Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớn
lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”(15). Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến
dâng trọn vẹn cho cách mạng, chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân.
Ba là,
xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng
lòng của Chính phủ và người dân.
Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân,
xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị
đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch
thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/1/1946, Hồ
Chí Minh phát biểu mong muốn mọi người đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt
kinh tế và xã hội. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành.
Bốn
là, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có
chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.
Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cho
rằng, việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra
những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống của nhân dân.
Năm
là, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng
sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp;
không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích
hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch
sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16).
Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng
kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ
thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta (17).
II. Học tập và làm
theo Bác, xây dựng đất nước
phồn vinh, hạnh phúc
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn hơn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc
ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới
hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường
dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới
cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(18).
Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người
dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ
cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.
Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập
trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng
viên, cần thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu sau:
Một là, cần nhận
thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là
công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập
và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.
Hai
là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành
động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị . Kết
hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng
tâm, bức xúc trong thực tiễn.
Ba là,
đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc
vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành, nhằm lan tỏa,
khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện
bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân
dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách
nhiệm với dân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.
Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như tâm nguyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bốn
là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên
Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ có chức
vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong,
gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Mỗi
cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng
phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu
gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực
sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều kiện tiên
quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng
và xã hội.
Năm
là, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng
phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng,
rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên
thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh
có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục
bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”,
thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.
Sáu
là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên
cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng
khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối
tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ
giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bảy là, nâng cao
tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan,
đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực đấu tranh
phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tám
là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ
Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng,
pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất. Phát huy
vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị
- xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện nêu
gương./.
___
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, t.1, tr. 209.
(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 283, 320, 289.
(5) (8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr.1, 596.
(6) (16) Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.453, 391.
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr. 492.
(9) (11) (12) (13) (15) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr. 534, 534,
64, 40, 187.
(10) (14) Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.131, 624.
(17) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.92.
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.110.