Thứ Sáu, 19 tháng 5, 2023

NHẬN DIỆN ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC ĐỊCH VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Trong những năm qua, hoạt động lợi dụng vấn đề nhân quyền chống Việt Nam đang được các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước không ngừng đẩy mạnh với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt và nguy hiểm. Các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để tác động chuyển hóa nội bộ, gây sức ép về chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm thực hiện mục tiêu “chuyển hóa dân chủ” đối với Việt Nam; kích động biểu tình, phá rối an ninh, trật tự, gây bạo loạn nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội và an ninh, trật tự ở Việt Nam; hậu thuẫn, thúc đẩy hình thành lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phá vỡ sự ổn định chính trị, xã hội, làm suy yếu tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Chúng lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như: phủ nhận thành tựu, thực tiễn các giá trị lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa với những luận điệu như kích động vấn đề dân tộc thiểu số; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo, ngăn cản tự do ngôn luận, tự do hội họp; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội,... Chúng tung hô, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và phương Tây, tuyệt đối hóa quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị của quyền con người; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, chèn ép “những người bất đồng chính kiến”,… Chúng sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta như tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, những buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam và yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền,... Chúng tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” với những cái tên rất kêu mang tinh thần “dân tộc” như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”. Chúng còn thúc đẩy sự ra đời các khuynh hướng dân chủ cực đoan, “xã hội dân sự”, hình thành tổ chức chính trị bất hợp pháp; vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt, xử lý ở trong nước,… nhằm cổ suý, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh, phản bác âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nhước ta hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp thiết.

 


DÂN CHỦ LÀ BẢN CHẤT CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm Sự khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở khoa học đã được lịch sử ghi nhận và chứng minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con đường mà cách mạng Việt Nam phấn đấu là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường mang đến độc lập, tự do, công bằng, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Song, hiện nay các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách chống phá ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó chúng tập trung chống phá xuyên tạc bản chất tốt đẹp của nền đan chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, cần phải đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”

Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua các kỳ đại hội Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển, hoàn thiện lý luận, thực tiễn vấn đề dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa . Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ tiến bộ, tốt đẹp nhất trong lịch sử nhân loại, gấp triệu triệu lần dân chủ tư sản, đó là là chế độ dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của mỗi công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đều xuất phát từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Đồng thời, mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo đó, Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Văn kiện Đại hội XIII, tiếp tục khẳng định”: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”




PHÒNG, CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI

Đảng cộng sản lãnh đạo quân đội là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc đó là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thủ đoạn tinh vi, mục tiêu chống phá không thay đổi

Nhận thấy không xóa được chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, nếu không xóa được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Họ cho rằng, “quân đội do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”. Họ viện dẫn thực tiễn ở các thể chế chính trị tư sản với chế độ đa đảng, quân đội không do đảng nào lãnh đạo. Dựa vào đó, họ phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam”; đòi bỏ quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng” ở Điều 65, Hiến pháp 2013.

Mục tiêu nhất quán của những thủ đoạn trên là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò Quân đội ta là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Lý luận và thực tiễn đã bác bỏ âm mưu chống phá

Những thủ đoạn trên dù rất tinh vi, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn. Trên phương diện lý luận, nhà nước và quân đội là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, quân đội mang bản chất giai cấp của nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng nó. Không có nhà nước “phi giai cấp”, nên không có quân đội “phi chính trị”. Ở các nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, đảng nào thắng thế sẽ đứng ra lập chính phủ, nên quân đội bao giờ cũng phụ thuộc vào đường lối chính trị của đảng cầm quyền; đồng thời, bất cứ đảng cầm quyền nào cũng tìm cách nắm quân đội. Tuy vậy, khi mà sự tranh giành quyền lực giữa các đảng diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị, thường xuất hiện lời kêu gọi “quân đội không đứng về đảng phái nào”; nhưng trong thực tế, các đảng đều tìm sự hậu thuẫn từ quân đội.

Đối với các nước XHCN, Đảng cộng sản lãnh đạo quân đội là nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đây là nguyên tắc được V.I.Lênin đề ra ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thành công, để tổ chức xây dựng Hồng quân công nông. Nguyên tắc đó bảo đảm cho quân đội luôn giữ đúng định hướng chính trị của Đảng cộng sản, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với nhân dân, là công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.

Trên phương diện thực tiễn, ở Liên Xô vào cuối thế kỷ trước, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước mắc sai lầm nghiêm trọng khi tự xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với quân đội. Vì thế, quân đội Liên Xô mất phương hướng chính trị, không bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; mặc dù, quân số còn gần 4 triệu người với vũ khí trang bị hiện đại.

Ở Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng cộng sản lãnh đạo quân đội trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Chánh cương vắn tắt năm 1930 của Đảng xác định “Tổ chức ra quân đội công nông”[1], mà quân đội ấy phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. 14 năm sau, Đảng tổ chức ra Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với mô hình có chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Là người xây dựng, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn yêu cầu “Xây dựng quân đội - một quân đội nhân dân thật mạnh dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng”[2]. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội”[3]. Lịch sử gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã chứng minh: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội; việc thực hiện nguyên tắc Đảng cộng sản lãnh đạo quân đội là sự bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội.

Thực hiện hiệu quả các giải pháp phòng, chống

Để phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:

Trong mọi hoàn cảnh phải luôn giữ vững nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong lịch sử Đảng ta lãnh đạo quân đội, mặc dù hình thức diễn đạt ở mỗi thời kỳ có khác nhau. Theo đó, Đảng không chia sẻ, ủy quyền lãnh đạo quân đội cho bất kỳ tổ chức, lực lượng, cá nhân nào; không thông qua một khâu trung gian nào. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là toàn diện, trên mọi mặt công tác, mọi nhiệm vụ, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của quân đội, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng gắn liền với sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội. Mọi hoạt động của quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng quân đội thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện trong thực tế. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với quân đội đều nhằm bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững bản chất GCCN, tính nhân dân và tính dân tộc; có sức mạnh chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống. Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải kiên định nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội”.

Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh (TSVM). Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội chỉ được tăng cường khi bản thân Đảng TSVM. Đây là giải pháp căn cốt nhất để bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, cũng như đối với quân đội. Để Đảng luôn vững mạnh, chúng ta cần kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với chỉnh đốn, giữa xây dựng với bảo vệ Đảng; tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Vấn đề then chốt là tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội TSVM, mẫu mực, tiêu biểu, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quân đội cần thực hiện quyết liệt các biện pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, xử lý các trường hợp vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; bảo đảm mọi tổ chức đảng trong quân đội luôn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mọi người hiểu rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân. Trong thời gian tới, cần tăng cường thông tin, định hướng cho mọi tầng lớp nhân dân quán triệt những quan điểm cơ bản của Đại hội XIII về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội. Làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ những nội dung cơ bản của đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân, tư duy mới về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng; thấm nhuần nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng trong thời gian tới.

Để tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần phát huy vai trò của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội trong thời gian tới. Cần làm cho mọi quân nhân nhận thức đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng; hiểu rõ Quân đội ta là quân đội nhân dân do Đảng xây dựng, giáo dục và rèn luyện. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, không mơ hồ, mất cảnh giác trước những thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

Chủ động đấu tranh, phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhưng rất bức thiết, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ đơn vị mình, tổ chức mình vững mạnh toàn diện để không có ai dao động trước những thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường; phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí đối với nhiệm vụ đấu tranh phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận nòng cốt, chuyên sâu; tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua hệ thống giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền miệng và trên mạng xã hội, internet.

Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò nòng cốt. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; giữa phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với xây dựng nội bộ vững mạnh là phương thức hữu hiệu để làm thất bại mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch.

________________________________________

[1] - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H.2002, tr.1.

[2] - Sđd, Tập 7, tr. 220.

[3] - Sđd, Tập 7, tr. 14.


PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM “KHÔNG CÓ THỜI ĐẠI QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”

Nhận thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là công việc rất cần thiết. Mỗi quốc gia, dân tộc cần biết mình đang sống trong thời đại gì và bối cảnh thế giới nào, với những tính chất, đặc điểm, nội dung và xu thế phát triển ra sao.

Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp chúng ta tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội. Đó cũng là cách giúp chúng ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách đố phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch; từ đó không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của đời sống chính trị quốc tế.

Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng, trước đây cũng như bây giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại; nhận định các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là như vậy nhưng hiện nay một số luận điệu sai trái cho rằng: Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Vì vậy, các phần tử phản động, cơ hội chính trị cho rằng: Từ Đại hội XIII trở đi, không nên nói đến CNXH nữa. Họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ; nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa (XHCN) nữa thì nước ta làm sao có thể đi lên CNXH được? Luận điệu của họ không có gì mới nhưng cách diễn đạt khác đi. Những luận cứ đấu tranh chống các luận điệu này cần được làm rõ.

Sự thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được

Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH, thì nay CNXH sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của CNTB; rằng CNXH và CNCS đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa.

Cách nhìn nhận của họ rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và rất thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được, mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước thụt lùi. Sự đổ vỡ của mô hình XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản trên thế giới. Ai cũng biết rằng, sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa (TBCN) thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng. Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp, bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.

Thế giới thay đổi khôn lường, nội dung thời đại không thay đổi

Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, CNXH ở Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười cũng chấm hết.

Đây đúng là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng, thành quả mà Cách mạng Tháng Mười đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó quyết không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Lịch sử đã tỏ rõ, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, Anh, Pháp... thì hình thái kinh tế - xã hội TBCN mới thực sự thắng thế trước hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.

Sự phát triển của xã hội loài người từ sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ rằng, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười không chỉ là ngọn đèn pha tỏa sáng dẫn đường, mà còn có những đóng góp thực tế to lớn. Cách mạng Tháng Mười là tiếng chuông đánh thức lịch sử, báo hiệu một trang sử mới của thế giới. Thế giới trước Cách mạng Tháng Mười là một thời kỳ u mê, an phận, là thời đại của CNTB. Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười làm cho CNTB bị đổ vỡ một mảnh lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới với sự hình thành và phát triển của CNXH làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thành quả của Cách mạng Tháng Mười tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của CNTB, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của CNTB. CNTB không thể sống tự nó nữa mà đã phải cố gắng vì sự tồn tại của nó. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội... ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều do kết quả đấu tranh của những người lao động để giành quyền sống, quyền tự do, bình đẳng và sâu xa hơn là được ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định rằng, mặc dù tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới có nhiều thay đổi, có khi là thay đổi khôn lường, nhưng bản chất của thời đại không thay đổi. Tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động, nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức.

Niềm tin vững chắc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Nước ta quá độ lên CNXH tuy không còn có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước, nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được. Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó cũng là một khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, không chỉ có thời cơ mà còn có cả những thách thức, những nguy cơ. Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là những trung tâm kinh tế, kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp khó khăn, buộc chúng ta phải chấp nhận những điều kiện có lợi cho họ, hòng lái chúng ta đi chệch khỏi định hướng XHCN. Mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển là xu hướng của thời đại nhưng còn một xu hướng khác đối lập là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu toan của các thế lực cường quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên nhiều khu vực của thế giới, đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển đảo, xâm phạm độc lập, chủ quyền của nước khác.

Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có những chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu. Chúng ta thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc về mục tiêu chiến lược và mềm dẻo linh hoạt về sách lược. Đấu tranh không phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển sự hợp tác. Phải biết khéo tận dụng thời cơ, tranh thủ quan hệ với các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự hợp tác vừa có lợi, vừa bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động hai chiều tích cực và tiêu cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi kinh tế khu vực và kinh tế thế giới ổn định phát triển, tác động tiêu cực khi kinh tế thế giới và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ khủng hoảng. Chúng ta cần có chính sách sử dụng tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực, giữ cho nền kinh tế nước ta ổn định và phát triển. Đây là bài học thực tế đã xử lý trước những tác động tiêu cực của cơn khủng hoảng tài chính-tiền tệ và khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới trong thời gian qua.

Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN theo quan điểm của V.I.Lênin, người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.

Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; nhất định thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 


NHẬN DIỆN “CHỦ NGHĨA CHIẾT TRUNG” VÀ “THUẬT NGỤY BIỆN” CỦA NHỮNG KẺ CƠ HỘI VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Chủ nghĩa chiết trung là một quan điểm khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng cũng tỏ ra chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, song lại không rút ra được mối liên hệ cơ bản dẫn đến không thấy được tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng mà chỉ là sự kết hợp vô nguyên tắc của chúng tạo thành một mớ hỗn độn dẫn tới lúng túng, mất phương hướng.

Biểu hiện: Chủ nghĩa chiết trung tỏ ra chú ý nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, nhưng xem xét bình quân và không rút ra được các mối liên hệ cơ bản. Kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liện hệ và không chỉ ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.

Thuật ngụy biện là quan điểm khi đánh giá, xem xét sự vật, hiện tượng cũng chú ý tới các mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất để đạt được những động cơ nhất định.

Hình thức biểu hiện: Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân; Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận; Ngụy biện dựa vào sức mạnh; Ngụy biện bằng cách đánh đánh vào tình cảm; Ngụy biện đánh tráo luận đề…; Ngụy biện bằng cách dựa vào nhân quả sai.

Nguyên nhân: Không hiểu đúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, không hiểu hoặc cố ý vi phạm nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể dẫn đến thất bại.

Hiện nay, những kẻ cơ hội và các thế lực thù địch đã và đang dùng chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện làm thủ đoạn để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng ra sức phủ nhận công cuộc đổi mới, thổi phồng, cường điệu những sai lầm, thiếu sót, những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện các chủ trương, chính sách cụ thể để thông tin, tuyên truyền bôi nhọ Đảng, Nhà nước, hạ bệ thần tượng lãnh tụ, nói xấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước ta, chúng đòi đa nguyên, đa đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chúng phủ nhận những thành tựu to lớn của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời, đi từ chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện, chúng dựng chuyện, đả kích những hạn chế, sai lầm, thiếu sót của một số cá nhân cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp trong giải quyết vấn đề đất đai, dân tộc thiểu số, tôn giáo, các vụ khiếu kiện ở địa phương, sự trấn áp các phần tử chống đối, vi phạm pháp luật...

Thực chất, chúng đã cố tình đánh tráo các hiện tượng thành cái phổ biến, tất yếu, mang tính bản chất và vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số. Họ đã cố tình tuyệt đối hóa những sai lầm, khuyết điểm dù là nhỏ từ những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; qua đó lớn tiếng vu khống là có vấn đề “sai lầm”, là đầy “mâu thuẫn”, “lúng túng” và “bế tắc”. Hành động chống phá của chúng tập trung vào một số hoạt động chủ yếu như tìm cách ủng hộ các tổ chức phản động; dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt lưu vong ở nước ngoài; hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động tôn giáo ở trong nước; tài trợ về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động chống phá Việt Nam.

Biểu hiện cụ thể của hoạt động này mà các đối tượng thường sử dụng là lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để khống chế, kích động quần chúng, tuyên truyền chống chế độ. Lợi dụng thần quyền và hệ thống tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động, khống chế quần chúng, phá rối trật tự an ninh, gây bạo loạn. Lợi dụng các cơ sở tôn giáo ở vùng dân tộc làm nơi cất giấu vũ khí, phương tiện, nơi tụ họp, chỉ đạo hoạt động chống phá. Lôi kéo một số chức sắc, cốt cán trong các tổ chức tôn giáo là người dân tộc thiểu số, móc nối, cấu kết giữa những phần tử phản động trong nước với bọn phản động bên ngoài để hoạt động phá hoại an ninh quốc gia. Lợi dụng những sơ hở thiếu sót của chính quyền địa phương trong giải quyết, xử lý các vụ việc liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo... để xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền.

Ngoài ra, chúng còn lợi dụng sự công khai tự phê bình, đấu tranh chống tệ tham nhũng, quan liêu và các hiện tượng khác trong Đảng và trong bộ máy nhà nước, để lớn tiếng công kích, nói xấu Đảng và Nhà nước ta. Chúng khuyếch đại một số yếu tố thuộc quyền con người; tuyệt đối hóa lợi ích bộ phận, lợi ích nhóm, cá nhân hay “tự do tuyệt đối” để vu khống, lên án, tuyên truyền kích động về vấn đề con người bị xâm phạm. Chúng không nhìn thấy hòa bình và hạnh phúc của nhân dân, đời sống vật chất tinh thần xã hội hôm nay, mà có những người nước ngoài đã nói rằng “Việt Nam là nơi đáng sống nhất hành tinh”.

Nguyên nhân: chúng không hiểu đúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, không hiểu hoặc vi phạm nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể dẫn đến thất bại.

Có thể nói, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện là một trong các biện pháp phản khoa học, mà các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đã lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng chung, trong đó có Việt Nam. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo trước các thủ đoạn xảo trá của các thế lực cơ hội, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả của sự nghiệp đổi mới đất nước./.


GÓP PHẦN ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

“Phi chính trị hóa” quân đội thực chất là âm mưu, thủ đoạn chính trị nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội với luận điệu: quân đội là một tổ chức quân sự, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước, được tổ chức ra để bảo vệ lợi ích quốc gia nói chung, chỉ tuân theo hiến pháp; quân đội trung lập về chính trị (không có quân đội xã hội chủ nghĩa hay quân đội tư bản chủ nghĩa), đứng ngoài những biến động chính trị - xã hội, đứng ngoài cuộc đấu tranh của các đảng phái chính trị giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước… mục đích của chúng nhằm lôi kéo quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội bị tha hóa, biến chất về chính trị và làm cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân mất chỗ dựa vững chắc để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng một cách khách quan, khoa học nguồn gốc ra đời của quân đội, khẳng định quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài người. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước của giai cấp thống trị và để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã tổ chức ra quân đội thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước. V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Điều quan tâm đầu tiên của bất cứ cuộc cách mạng thắng lợi nào - như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh - là đập tan, là giải tán quân đội cũ, thay nó bằng một quân đội mới”[1].

V.I.Lênin cho rằng quân đội của chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Về bản chất chính trị của quân đội, Người chỉ rõ: hiện nay cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập và quân đội không thể cũng như không nên trung lập, không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ, bọn giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản. Trong các công trình nghiên cứu của mình, V.I.Lênin đã đề cập đến khá nhiều luận điểm nhằm khẳng định bản chất của quân đội cách mạng: không thể có thứ quân đội phi chính trị, phi giai cấp, quân đội “trung lập”, “đứng ngoài chính trị”; bất cứ quân đội nào thì về vấn đề chính trị của quân đội cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu, đó thực chất là vấn đề bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, do ai tổ chức và lãnh đạo, chiến đấu cho ai, vì ai; chính trị của quân đội vô sản là thực hiện chính trị của Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, biểu hiện tập trung ở chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng quân đội về chính trị là yêu cầu cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội; xem nhẹ, hoặc buông lỏng vấn đề xây dựng quân đội về chính trị là làm suy yếu, thậm chí làm biến chất quân đội; quân đội vô sản do một bộ phận tiên tiến những người cộng sản lãnh đạo, Đảng cộng sản là người lập ra quân đội, chỉ huy quân đội, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và: “thành lập các chi bộ cộng sản trong mỗi một đơn vị quân đội”[2].

Những luận điểm trên đây của V.I.Lênin rất quan trọng, hợp thành một chỉnh thể thống nhất và toàn diện, phản ánh giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.

Kế thừa và phát triển học thuyết Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả. Từ quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng quân đội nhân dân từ không đến có, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và căn dặn: “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền vận động trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”… đã đề cập rất rõ những vấn đề cơ bản trong xây dựng quân đội như mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất, chức năng, nhiệm vụ… của quân đội. Tên gọi: “Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân” thể hiện tư tưởng đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã là đội quân mang bản chất của giai cấp công nhân, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ Ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quân đội ta có lập trường chính trị vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo - tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy rõ quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân, là quân đội của nhân dân và do Đảng cách mạng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành gần 79 năm qua đã chứng minh Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[3].

Như vậy, quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đã thể hiện sự “mơ hồ về chính trị” hoặc đã cố tình làm ngơ không hiểu rõ bản chất giai cấp của quân đội nói chung cũng như bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam - có sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Lịch sử thế giới đương đại đã cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề “phi chính trị hóa” quân đội. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với quân đội, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ và tan rã nhanh chóng của Liên bang Xô viết vào cuối năm 1991. Mặc dù lúc đó Quân đội Liên Xô còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại, vượt xa các nước cả về lực lượng chiến đấu thông thường và lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng do bị tha hóa, biến chất, mất phương hướng về chính trị dẫn đến mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng mọi biện pháp để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội như: tuyên truyền phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam”, đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, cùng với hệ thống cơ quan chính trị trong quân đội, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội…

Trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, chúng ta khẳng định chắc chắn rằng Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân đồng thời có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Bản chất quân đội kiểu mới thể hiện rõ rệt ở sự thống nhất hữu cơ giữa tính Đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị - xã hội, cơ chế lãnh đạo chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội.

Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cơ sở chính trị - xã hội của Quân đội ta là phong trào cách mạng của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và gắn bó máu thịt với nhân dân. Lực lượng nòng cốt cùng toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quá trình trưởng thành của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội có những đặc điểm riêng, song đều có cái chung là được đặt sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng, sự tôi luyện của tổ chức quân sự và thực tiễn hoạt động quân sự, được nhân dân hết lòng đùm bọc, nuôi dưỡng, giúp đỡ và ủng hộ.

Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, thông qua hệ thống tổ chức Đảng, hệ thống chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở. Nhà nước thống nhất quản lý đối với quân đội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức Đảng trong quân đội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách theo chức trách, nhiệm vụ. Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện xuyên suốt của các tổ chức đảng, trong quân đội thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 513 của Đảng ủy quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).

Chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu rộng. Trong chiến đấu, quân đội thực hiện xuất sắc vai trò nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Trong lao động sản xuất, quân đội ta tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh, xung kích đến những vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ để xây dựng những khu kinh tế - quốc phòng, những công trình có ý nghĩa chiến lược quốc gia. Trong thực hiện chức năng đội quân công tác, quân đội luôn đồng cam cộng khổ cùng nhân dân, tích cực vận động và giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm nghèo, luôn xung kích đi đầu trong cứu trợ cứu nạn, hết lòng, hết sức giúp đỡ nhân dân phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, xả thân trong hiểm nguy để cứu tính mạng và tài sản của nhân dân.

Với bản chất, truyền thống tốt đẹp của mình, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, chúng ta tin tưởng rằng Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, luôn là lực lượng trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho bộ đội, nâng cao bản lĩnh chính trị, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo ra sự “miễn dịch” cần thiết, tăng cường sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các tư tưởng phi vô sản vào quân đội trong tình hình mới./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.

3. Hội đồng lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.361.

5. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.250.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.351.




HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

I. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường

Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”(2). Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3).

Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4).

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(5).

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.

Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.

 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”(7).

Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(8). Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(9). Trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(10).

Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(11).

 

Thứ hai, về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một là, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(12). Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”(13). Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(14).

Hai là, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(15). Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng, chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.

Ba là, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/1/1946, Hồ Chí Minh phát biểu mong muốn mọi người đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành.

Bốn là, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.

Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cho rằng, việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

Năm là, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16). Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta (17).

II. Học tập và làm theo Bác, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn hơn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(18).

Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên, cần thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu sau:

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.

Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị . Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

Năm là, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

Bảy là, nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tám là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện nêu gương./.

___

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, t.1, tr. 209.

(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 283, 320, 289.

(5) (8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr.1, 596.

(6) (16) Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.453, 391.

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr. 492.

(9) (11) (12) (13) (15) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr. 534, 534, 64, 40, 187.

(10) (14) Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.131, 624.

(17) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.92.

(18) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.110.