Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022

BỔN PHẬN CÔNG BỘC TRONG GIỮ GÌN “PHƯƠNG DIỆN QUỐC GIA”

Từ điển tiếng Việt giải thích “phương diện quốc gia” từ ý thơ của cụ Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là: “Vị quan đảm đương công việc một vùng đất nước”. Trong thời đại ngày nay, mỗi cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị đều có một phần “phương diện quốc gia” trên cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, mọi việc làm, hành vi ứng xử của cán bộ, nhất là trong môi trường có yếu tố nước ngoài, đều có ảnh hưởng nhất định đến hình ảnh đất nước, vị thế quốc gia, dân tộc. Cán bộ giữ cương vị càng cao, sự ảnh hưởng càng lớn. Cán bộ tốt thì dân được nhờ, đất nước được tiếng thơm. Cán bộ tiêu cực, không biết giữ mình thì đất nước mang tiếng xấu. Sự lợi dụng của các thế lực thù địch, phần tử phản động nhằm mưu đồ chống phá Đảng, chống phá đất nước cũng từ những hành vi tiêu cực đó mà ra.

Chính vì vậy, để giữ “phương diện quốc gia”, mỗi cán bộ, đảng viên phải có sự thống nhất cao về mặt nhận thức, có thái độ đấu tranh kiên quyết, bài trừ những thông tin tiêu cực về tình hình đất nước trên không gian mạng, nêu gương và dẫn dắt quần chúng. Cần nhận thức một cách thấu đáo và khách quan, việc đấu tranh phát hiện, xử lý những vụ việc tiêu cực vừa qua là sự thể hiện thái độ kiên trì, kiên quyết, không có vùng cấm của Đảng, Nhà nước ta đối với tham nhũng, tiêu cực.

Việc các cơ quan chức năng điều tra, khám phá thành công những vụ án, vụ việc tiêu cực trong nội bộ, chính là kết quả, thành công của cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lấy những vụ việc, biểu hiện tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy kết, quy chụp, lên án cả hệ thống chính trị, bôi nhọ đất nước... là thủ đoạn võ đoán, quy chụp, thể hiện rõ ý đồ thù địch.

Để giữ “phương diện quốc gia”, bên cạnh tập trung các giải pháp đấu tranh phản bác, phủ nhận, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, cần đặc biệt coi trọng việc củng cố trận địa từ bên trong. Đó chính là ý thức trách nhiệm, bổn phận của đội ngũ công bộc trước lợi ích quốc gia, dân tộc. Phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh...; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên...”.

Như vậy, văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đạo đức công vụ... chính là những nhân tố cốt lõi để cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện, xứng đáng là công bộc của dân, là đại diện cho vị thế quốc gia. Trong có ấm thì ngoài mới êm. Nếu mỗi công bộc của dân có ý thức, bổn phận giữ “phương diện quốc gia” đúng mực thì chúng ta sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực trong bộ máy công quyền, các thế lực thù địch khó tìm cớ để chống phá Đảng, chống phá đất nước. Đó cũng là phương châm lấy xây để chống trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đạo đức công vụ phải gắn liền với xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp. Đó chính là phương châm của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp trong môi trường hội nhập quốc tế, nhất là cán bộ, doanh nhân trong các ngành liên quan đến ngoại giao, du lịch, thương mại... Trong từng môi trường, hoàn cảnh có yếu tố quốc tế, chính họ là cầu nối, là “sứ giả” của văn hóa dân tộc, thể hiện phong cách, thái độ, trình độ văn hóa, văn minh của đất nước, con người Việt Nam trong mắt bạn bè. Hiệu quả thu hút đầu tư, phát triển kinh tế cũng đến từ những ấn tượng về đất nước, con người Việt Nam thông qua những hình ảnh thân thiện ấy.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất".

Quan điểm của Đại hội XIII của Đảng và thông điệp từ Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 phải được thể hiện, tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống xã hội. Chúng ta xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là cách thiết thực để giữ “phương diện quốc gia” trong ý thức, hành vi của mỗi cán bộ, đảng viên, để khi “quan trên trông xuống người ta trông vào” không hổ thẹn với lương tâm.

NHẬN DIỆN CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH QUỐC GIA

Sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, đời sống kinh tế-xã hội của cả nước đã có sự khởi sắc tích cực trên nhiều lĩnh vực. Chiến lược thích ứng an toàn với dịch Covid 19 mang lại khí thế, diện mạo mới cho môi trường sản xuất, kinh doanh, tái hoạt động các đường bay quốc tế, từng bước đón du khách từ các quốc gia, vùng lãnh thổ đến Việt Nam.

Hoạt động thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại ở nhiều địa phương, vùng kinh tế trọng điểm đã tăng tốc ngay từ đầu năm mới. Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2-2022 được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 17-2 cho thấy, nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2022 có sự phục hồi tích cực. Dù xuất khẩu hàng hóa tháng 1-2022 giảm so với tháng trước do ảnh hưởng của nghỉ Tết Nguyên đán, nhưng cán cân thương mại hàng hóa vẫn thặng dư 1,4 tỷ USD. Cam kết và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiến  triển tích cực.

Việt Nam thu hút 2,1 tỷ USD vốn FDI đăng ký trong tháng 1-2022, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, việc chăm lo an sinh xã hội cho đồng bào trước, trong và sau Tết Nguyên đán đã trở thành phong trào thiện nguyện, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kiều bào yêu nước. Những thành tích, dấu ấn tích cực ấy đã thể hiện rõ nét tính ưu việt của văn hóa Việt Nam, bản chất nhân văn xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết, thống nhất, gắn bó giữa Đảng với dân.

Tuy nhiên, bức tranh kinh tế-xã hội đất nước đầu năm 2022 vẫn có những mảng tối, tiêu cực. Và đây chính là cái cớ để các phần tử cực đoan chính trị, có tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước và các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, khai thác, khoét sâu, tăng cấp độ, quy mô, tính chất xuyên tạc, chống phá.

 Vụ việc tiêu cực từ Công ty Việt Á, vụ việc nhận hối lộ xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), việc kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, có dấu hiệu vi phạm pháp luật xảy ra ở một số cơ quan, đơn vị... đã bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, bóp méo, bôi đen, nhằm ý đồ lèo lái dư luận, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Trên một số trang mạng xã hội như “Việt Tân”, “RFA Tiếng Việt”, “Tiếng dân”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Diễn đàn dân chủ”... và tài khoản của một số đối tượng cực đoan, có tư tưởng thù địch, xuất hiện nhiều bài viết, clip có nội dung xuyên tạc.

Chúng bám vào những vụ việc tiêu cực đó để chỉ trích Chính phủ và hệ thống chính trị, quy kết lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bôi nhọ hình ảnh quốc gia, vị thế dân tộc, kêu gọi các nhà đầu tư và du khách quốc tế tẩy chay Việt Nam. Với chiêu bài lấy hiện tượng quy kết bản chất, lấy cái cá thể chụp mũ tổng thể, các thế lực thù địch và đối tượng phản động cho rằng, “Việt Nam là đất nước của tham nhũng, tiêu cực”, rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chống tham nhũng vì Việt Nam chỉ do một đảng lãnh đạo, một đảng thì không thể có dân chủ, không thể chống được tham nhũng”...

Trước những luận điệu xuyên tạc ấy, công chúng yêu nước dễ dàng nhận ra bản chất, bộ mặt của những đối tượng, tổ chức mang tư tưởng thù địch với đất nước. Mấy tháng trước, khi đại dịch Covid-19 hoành hành, chúng đã kích động, rêu rao rằng “công tác phòng, chống dịch của Việt Nam đã thất bại”, “Việt Nam chống dịch kém nhất thế giới”...

Đến khi chúng ta khống chế dịch thành công, chuyển sang thích ứng an toàn với dịch Covid-19, phục hồi các hoạt động kinh tế-xã hội, thì chúng lại chuyển sang bám vào những vụ việc tiêu cực, những mảng tối của “hậu Covid-19” để xuyên tạc, kích động chống phá. Không ít đối tượng nhân danh hoạt động “phản biện”, “góp ý”, “đấu tranh”... ra sức bôi đen hình ảnh đất nước, hạ thấp uy tín quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Mục đích của chúng là hòng làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho hình ảnh Việt Nam trở nên méo mó, lệch lạc trong mắt kiều bào và bạn bè quốc tế, phá hoại công cuộc đổi mới, hội nhập của đất nước.  


NÂNG CAO VỊ THẾ VÀ UY TÍN CỦA ĐẤT NƯỚC

Định hướng công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và công tác đối ngoại của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng được đề cập trong cuốn sách của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng Với cách gợi mở dung dị nhưng rất sâu sắc, đồng chí đã chỉ rõ quan điểm và quyết tâm tiếp tục xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc dân tộc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Đó là tư duy ngoại giao: Mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”. 

 Cũng với cách tiếp cận rất gần gũi, dễ hiểu, Tổng Bí thư chỉ ra mối quan hệ giữa “trong ấm, ngoài êm”, có nghĩa là phải xây dựng đoàn kết nội bộ, xây dựng đất nước "ấm" về kinh tế, về đời sống tinh thần, nội bộ thật sự đoàn kết, ổn định... thì mới có thể thực hiện các mục tiêu góp phần giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị trong khu vực và trên thế giới. Thực tế cho thấy, nhiều năm qua, Quân đội ta đã thực hiện tốt quan điểm này, nâng cao chất lượng công tác đối ngoại quốc phòng, vừa góp phần xây dựng nền hòa bình nhân loại, thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế, đồng thời nhất quán tư duy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Những tinh thần trong cuốn sách của Tổng Bí thư cần được các cấp ủy, chỉ huy nghiên cứu, phát huy vai trò của từng cá nhân, từng tổ chức trong góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy cần sớm cụ thể hóa những quan điểm, nội dung trong cuốn sách vào công tác giảng dạy ở các nhà trường trong và ngoài quân đội, góp phần tạo nên một thế hệ con người mới, có tâm thế về trình độ ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ, chủ động hòa nhập, bắt nhịp với xu thế hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay.

KẾ THỪA SÁNG TẠO, CÓ CHỌN LỌC, PHÁT TRIỂN

Sau khi cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra mắt, tôi đã tìm đọc và thực sự thấm thía bởi nội dung cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc nhiều vấn đề thực tiễn quá trình xây dựng CHXH ở nước ta.

Trong nội dung các bài viết, bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh sự kế thừa có chọn lọc để bổ sung, hoàn thiện, phát triển những đặc trưng cốt lõi của CNXH ở Việt Nam; chỉ rõ sự sáng tạo, khác biệt về chất giữa CNXH mà nước ta đang xây dựng so với chủ nghĩa tư bản. Những vấn đề này vô cùng bổ ích, giúp mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn, nhận thức đầy đủ hơn và tin tưởng hơn vào con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Điển hình như, trong bài viết nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-2021), bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, ngày 15-5-2021, Tổng Bí thư khẳng định: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.

Tinh thần đó cũng được đề cập trong các nghị quyết của Đảng về phát triển con người, coi trọng giáo dục-đào tạo, xây dựng văn hóa, hội nhập quốc tế, đường lối ngoại giao, hợp tác quốc phòng... Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp; cho nên sự kế thừa tinh hoa nhân loại một cách sáng tạo, có chọn lọc, phù hợp với hoàn cảnh, đặc thù Việt Nam là tất yếu khách quan, không thể nóng vội. Sự khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trên cơ sở phân tích, lập luận, đưa ra những dẫn chứng đầy thuyết phục từ thực tiễn nước ta đã góp phần củng cố vững chắc niềm tin cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng CNXH.

Đây cũng là bài học sâu sắc, khích lệ, khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên và mọi cá nhân trong công tác, thực hiện nhiệm vụ phải luôn tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phù hợp với thực tiễn; biết “gạn đục khơi trong”, học tập, tiếp thu những ưu điểm từ đồng chí, đồng nghiệp; kế thừa có chọn lọc và phát huy những giá trị tốt đẹp trong tập thể để không ngừng tiến bộ, xây dựng cơ quan, đơn vị ngày càng phát triển vững mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.


TRÁCH NHIỆM NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA MỖI CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN

Qua nội dung các bài viết của Tổng Bí thư trong cuốn sách, chúng ta thêm hiểu, thêm vững tin rằng chế độ CNXH với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà nhân loại hướng tới là một xã hội "thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân". 

Những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua là minh chứng cho giá trị hiện thực đạt được của CNXH ở nước ta. Đó là sự phát triển vì con người, phát triển để nâng tầm lương tri, phẩm giá con người Việt Nam. Chỉ trên con đường đi lên CNXH mới có thể đem lại cho chúng ta những thành tựu to lớn như vậy. Và chính những thành tựu này đang là tiền đề, tạo nên sức mạnh tiến tới tương lai tươi sáng của đất nước ta.

Các bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư trong cuốn sách đều là nội dung chỉ đạo, hướng đến đối tượng tiếp nhận là cán bộ, đảng viên, nhằm làm rõ những cơ sở khoa học, thực tiễn, định hướng nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Đây là tài liệu quý, một công trình có tầm khái quát lý luận cao, tổng kết thực tiễn sâu sắc về những phát triển sáng tạo riêng có của Đảng ta về mô hình CNXH ở Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cuốn sách của Tổng Bí thư là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục tổng kết lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta, là tài liệu quý để giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về CNXH và con đường đi lên CNXH; tạo sự đồng thuận xã hội để khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng, để đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

SÁNG RÕ TÍNH ƯU VIỆT CỦA CHẾ ĐỘ TA

Nghiên cứu cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi rất tâm đắc về tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định và sự phát triển sáng tạo, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tổng Bí thư đã có cái nhìn thấu đáo về bản chất của chủ nghĩa tư bản qua “các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ”; những giá trị lợi ích cá nhân, kinh tế luôn được đặt lên hàng đầu và “thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ”. Đồng thời, khẳng định những giá trị đích thực của CNXH là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn: “Lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.

Những bài viết trong cuốn sách là sự đúc rút, khẳng định tính đúng đắn, hiện thực hóa hệ thống lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Theo đó, trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội, nội bộ tổ chức đảng đến xây dựng giai cấp, xây dựng sức mạnh đoàn kết... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều đưa ra cách nhìn khách quan trên mọi phương diện cả thành công và tồn tại, hạn chế, cũng như những nguy cơ tiềm ẩn; tìm ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan và đề ra được những biện pháp để phát triển đất nước về mọi mặt: Kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với tình hình mới, giai đoạn cách mạng mới, theo con đường CNXH mang đậm nét truyền thống văn hóa, đậm đà tính cách và đạo đức của dân tộc Việt Nam-một dân tộc kiên cường, yêu chuộng hòa bình và tràn đầy tình hữu nghị, bác ái.

NGUỒN NĂNG LƯỢNG TƯ DUY MỚI

Cuốn sách vừa được xuất bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thực sự là nguồn năng lượng mới, ánh sáng mới tiếp tục soi sáng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Qua các bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trả lời thấu đáo những vấn đề lớn đang đặt ra hiện nay đối với cách mạng Việt Nam bằng lập luận sắc sảo và đầy chất thép.

Ngay từ Đại hội lần thứ VI, sau này là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội XIII, Đảng luôn khẳng định: "Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử". Đổi mới là để nhận thức rõ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH, đổi mới để có nhiều CNXH hơn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, dẫu có lúc vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, thì chính bản lĩnh và sức sáng tạo của Đảng đã quyết định thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu đến thắng lợi của cách mạng, bài học này đã được chứng minh trong thực tiễn lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH hiện nay.

Những giải pháp, biện pháp được Tổng Bí thư đưa ra trong các bài viết thực sự là tiếng nói của Đảng về sự cấp bách phải xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị-những nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định. Thông điệp của Tổng Bí thư trong các bài viết còn thể hiện rõ quan điểm về tầm quan trọng của việc hoạch định đường lối lãnh đạo phải luôn sáng tạo và gắn sát thực tiễn; tuyệt đối không được giáo điều, máy móc dẫn đến tình trạng xơ cứng trí tuệ và lạc hậu. Chỉ có như vậy chúng ta mới được “truyền thêm sinh lực mới”, giúp khắc phục được những khó khăn và đạt được mục tiêu xây dựng CNXH, mà trước mắt là đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có thu nhập cao.

“THANH BẢO KIẾM” ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN

Tôi đã đọc các bài viết trong cuốn sách sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và ý thức được rằng, đây là một tài liệu nghiên cứu, học tập cực kỳ quý giá cho cán bộ, đảng viên. Với tư duy lý luận sắc sảo, hoạt động thực tiễn phong phú và tình cảm cách mạng trong sáng, Tổng Bí thư đã lý giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình CNXH và nội dung, giải pháp để xây dựng CNXH ở Việt Nam một cách khúc chiết, rõ ràng, dễ hiểu; qua đó giúp cán bộ, đảng viên, quần chúng hiểu và tin tưởng vững chắc vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn, phấn đấu thực hiện, thấy được những giá trị cốt lõi, bền vững, tốt đẹp của CNXH. Đó là "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người"; "sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội"; "một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn"; "sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai"; "một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân".

Cuốn sách có giá trị cả về tư tưởng, lý luận và thực tiễn, là một “thanh bảo kiếm” cho cán bộ, đảng viên đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; xóa tan mọi hoài nghi, lo lắng về mô hình và con đường đi lên CNXH ở nước ta; là cơ sở để phản bác các luận điệu xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thiết nghĩ, các cấp ủy, tổ chức đảng phải đề cao trách nhiệm, sớm tổ chức việc học tập và khuyến khích cán bộ, đảng viên, quần chúng tích cực nghiên cứu, học tập các bài viết trong cuốn sách này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

SỰ CẦN KÍP TRONG HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN

Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay nước ta có hơn 1,6 triệu sinh viên. Họ là những trí thức tương lai của đất nước, là tầng lớp kế cận đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội lần XIII của Đảng đề ra đó là đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Mặt khác, một bộ phận sinh viên trong tương lai sẽ trưởng thành, rồi trở thành cán bộ, đảng viên nắm giữ các vị trí quan trọng, chủ chốt trong hệ thống chính trị và bộ máy Nhà nước.

Quan điểm nhất quán trong sự nghiệp giáo dục của Đảng ta là đào tạo thế hệ trí thức mới không chỉ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, mà trước hết phải có đạo đức, có lòng yêu nước thiết tha, gắn bó với nhân dân, với chế độ, sẵn sàng góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Như vậy, bên cạnh đào tạo chuyên môn, học tập các môn LLCT (Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam) có vai trò quan trọng trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, củng cố niềm tin của sinh viên vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới đất nước. Từ đó, góp phần đào tạo sinh viên phát triển một cách toàn diện. Theo PGS, TS Phạm Văn Linh, Phó chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương: “Việc nắm vững nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước là điều hệ trọng với công dân Việt Nam nói chung, đặc biệt là sinh viên, những người mai sau sẽ trở thành đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Lịch sử đã chứng minh, đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” luôn là một nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau”.

Thời gian ngồi trên giảng đường đại học cực kỳ quan trọng đối với sinh viên trong việc tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư duy và bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này, sinh viên sẽ trưởng thành và bước sang chương mới cuộc đời với khát vọng lập thân, lập nghiệp. Nếu điểm xuất phát tốt, họ sẽ đạt được những bước đi vững chắc, có khả năng phát triển năng lực, sở trường trong tương lai.

Không ít sinh viên vẫn có suy nghĩ chỉ những ai muốn phấn đấu trở thành cán bộ, đảng viên trong tương lai thì mới cần học tốt các môn LLCT; nếu không thì xác định học “cho xong”. Đây là nhận thức sai lầm! Bởi lẽ, dù làm công việc gì đi nữa, cũng cần có kiến thức về chính trị, xã hội, nắm vững được chính sách, pháp luật, vận dụng trong công việc và đời sống. Chẳng hạn, một nghệ sĩ nếu nắm vững quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về văn hóa văn nghệ sẽ có bản lĩnh chính trị, chắc chắn không sáng tác, phổ biến những tác phẩm nhạy cảm chính trị, vi phạm thuần phong mỹ tục; ứng xử văn hóa, có đạo đức nghề nghiệp, không làm ảnh hưởng tiêu cực đến danh tiếng của bản thân. Hay như một doanh nhân sẽ tìm thấy những yếu tố tích cực từ tư tưởng Hồ Chí Minh về thu hút, trọng dụng nhân tài để vận dụng vào thực tiễn tuyển trạch và quản trị nhân sự doanh nghiệp.

Không chỉ mang lại lợi ích để lập nghiệp mai sau, học tập LLCT còn giúp sinh viên lập thân, trở thành công dân gương mẫu, có trách nhiệm với cộng đồng, luôn tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Từ đó, trong suy nghĩ và hành động đều hướng đến các giá trị nhân văn cao đẹp; có lòng yêu nước nồng nàn; có tinh thần kiên định, vững vàng trước những biến động phức tạp của cuộc sống.

Đặc trưng của sinh viên là tuổi đời còn trẻ, khoảng từ 18 đến 25 tuổi. Bên cạnh ưu điểm có tri thức, năng động, dễ tiếp thu cái mới song tâm lý chưa ổn định, thiếu kinh nghiệm, chưa nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội, dễ sa vào tệ nạn xã hội, bắt chước văn hóa lai căng nước ngoài. Nắm bắt điều này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên kích động, lôi kéo, dụ dỗ sinh viên tiếp xúc các thông tin xấu độc, nhất là trên môi trường internet, nhằm làm giảm niềm tin của sinh viên đối với Đảng, Nhà nước; thậm chí một số sinh viên đã bị lợi dụng, tích cực hoạt động chống phá chế độ, gây bất ổn chính trị, an ninh trật tự. Cho nên, việc học tập các môn LLCT sẽ giúp sinh viên có lập trường tư tưởng kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, nhiều tư tưởng, học thuyết, hệ giá trị, quan điểm cũng sẽ theo các cánh cửa giao thương, không gian mạng... mà ùa vào, tác động đến tâm tư, tình cảm và hành động của sinh viên. Do vậy, việc giáo dục LLCT cho sinh viên đại học nhằm tạo ra nền tảng kiến thức chính trị-xã hội vững vàng ngay từ giảng đường đại học là vô cùng quan trọng. Thông qua học tập các môn LLCT, sinh viên có nhận thức đúng đắn; có niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Từ đó, sẽ quyết định khuynh hướng, mục đích và hiệu quả hoạt động của sinh viên trong học tập, lao động; xây dựng lý tưởng cách mạng trong sáng, làm chủ bản thân, giàu lòng yêu quê hương, đất nước, xây dựng và củng cố vững chắc mục tiêu lý tưởng.

“KHÔNG CÓ LÝ LUẬN THÌ LÚNG TÚNG NHƯ NHẮM MẮT MÀ ĐI”

Đây là nhận định minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của lý luận được Người viết trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947). Lý luận nói chung và LLCT nói riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận; rồi lại đem nó chứng minh với thực tế mới thực sự chắc chắn, chân chính.

Nhiều lần Bác căn dặn mọi người, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên khắc phục tình trạng kém lý luận, khinh lý luận và cũng đừng rơi vào lý luận suông. Những lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến LLCT thật gần gũi, dễ đi vào lòng người bởi chính Bác là tấm gương sáng về học tập, nghiên cứu và vận dụng LLCT để hậu thế noi theo. Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm hiểu thực tế, tiếp xúc với bao học thuyết chính trị mới tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn.

Trở lại thời điểm đầu thế kỷ XX, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước, từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Chỉ đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp xúc với lý luận cách mạng của thời đại là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người mới nhận ra con đường cách mạng Việt Nam phải đi, đó là tiến hành cách mạng vô sản giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với tư duy độc lập, sáng tạo không rơi vào lý luận suông, không áp dụng lý luận cứng nhắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhiều lần vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đặc thù Việt Nam; đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, thống nhất đất nước, mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

 Ngày nay, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cho nên việc học tập, nghiên cứu LLCT là để hiểu sâu sắc, đầy đủ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, người lao động có tư tưởng tiến bộ. Chỉ có trang bị đầy đủ về LLCT mới có thể tạo ra hành động cách mạng tích cực, hiệu quả như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Lý luận sở dĩ quan trọng là vì nó dạy ta hành động”.

Như vậy, việc học tập LLCT trước tiên là để cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Chỉ có nghiên cứu, học tập LLCT thực chất, với động cơ tích cực, trong sáng mới giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy khoa học, có phương pháp làm việc biện chứng; từ đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, hoàn thành công việc được giao phó.

Với tầm quan trọng của LLCT giải thích vì sao trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị nhiều năm qua luôn nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Đồng thời, nhận định biểu hiện nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT, lười học tập LLCT là một trong những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị.

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2022

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC, BÔI ĐEN LỊCH SỬ DÂN TỘC

Xuyên tạc, bôi đen lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc là một thủ đoạn quen thuộc của các phần tử cơ hội, chống phá cách mạng, trong đó có Lê Dủ Chân. Sau bài viết “Xin đừng quên Tổ quốc”, Lê Dủ Chân viết thêm bài “Đảng Cộng sản đã làm được gì cho Tổ quốc và nhân dân Việt Nam” nhằm tìm cách thuyết phục, kêu gọi các lực lượng thù địch chống phá Đảng và Nhà nước ta. Nhưng xuất phát điểm vốn đã sai lầm, nên càng cố giải thích, phân tích bao nhiêu, Lê Dủ Chân càng lún sâu vào sự vô lý, sai lầm bấy nhiêu. Bài viết của ông ta, từ đầu đến cuối, hoặc là những dẫn chứng mang tính vu khống, xuyên tạc, bóp méo sự thật, hoặc là những suy diễn chủ quan, nặng nề định kiến sai lầm.  Vi vậy, mọi công dân cần cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của chúng, để không bị chúng dụ dỗ, lôi kéo và mắc lừa.

ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Như chúng ta đã biết, năm 1858, thực dân pháp nổ sung tấn công đà nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã anh dung liên tiếp đúng lên đấu tranh đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Lớp lớp các anh hùng, sĩ phu, hào kiệt như: Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái... không cam chịu mất nước, không cam chịu làm nô lệ, không sợ hy sinh máu xương đã anh dũng đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp. Song, tất cả các phong trào cứu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, hào kiệt theo các trào lưu tư tưởng khác nhau lần lượt thất bại. Cách mạng nước ta bị dìm trong biển máu, công cuộc cứu nước lâm vào khủng hoảng, bế tắc...Sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước và tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Sau 15 năm ra đời, nắm vững thời cơ cách mạng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta trường kỳ kháng chiến gian khổ suốt 9 năm để làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; góp phần làm tan dã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hôi trên thế giới. Quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất đất nước, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên đã bị thực dân, đế quốc xâm lược và bọn tay sai cầm tù, sát hại, hàng vạn đảng viên đã anh dũng hy sinh và đi vào sử sách của dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.  Đây là một sự thật lịch sử đã  được nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới và nhân dân ta thừa nhận, tôn vinh.

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 90, qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới đã chứng minh chân lý khách quan: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

LẠI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỐNG PHÁ ĐẢNG

Vừa qua, trên các trang mạng xã hội xuất hiện một số bài viết của bọn cơ hội, phản động với nội dung: không ai muốn sống ở Việt Nam và những kẻ lắm tiền nhiều của là thành phần cán bộ có chức, có quyền đã tìm mọi cách đem gia đình chạy khỏi Việt Nam sau khi đã vơ vét đầy túi,…thực chất đây là nội dung tuyên truyền, phản động, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ và phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để thực hiện âm mưu diễn biến từ bên trong, làm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó dẫn tới tự sụp đỗ. Vì thế, cần phải tỉnh táo, cảnh giác, không để bị chúng lừa bịp, lôi kéo.

KHÔNG THỂ COI SỰ SỤP ĐỖ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU LÀ SAI LẦM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Như chúng ta đã biết, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX là bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân sâu xa từ nhận thức không đúng, vận dụng máy móc, giáo điều những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng điều tệ hại nhất và là nguyên chủ yếu, trực tiếp dẫn đến sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều sai lầm chủ quan, kéo dài, ngày càng trầm trọng của các đảng cộng sản và những người lãnh đạo của các đảng và nhà nước ở đó. Họ đã xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ Mác - Lênin, để cho chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn chính trị, mất cảnh giác, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, mất phương hướng chính trị, thiếu sắc sảo, nhạy bén trong lãnh đạo, quan liêu, bảo thủ, trì trệ... không theo kịp sự phát triển của thực tiễn.

Ở vào thời điểm có tính chất bước ngoặt liên quan đến vận mệnh của chủ nghĩa xã hội thì họ không đủ bản lĩnh và trí tuệ chèo lái con| thuyền cách mạng vượt qua sóng to, gió lớn mà lại tự “dâng hiến” mọi thành quả đã đạt được trong gần một thế kỷ đấu tranh cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản không một chút do dự.

Tất cả điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phá sản, những nguyên lý cơ bản của nó là sai lầm. Trái lại, chính vì không nắm vững bản chất cách mạng và khoa học; xơ cứng, giáo điều trong vật dụng, phát triển; buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, lùi bước trong cuộc đấu tranh tư tưởng, mất cảnh giác với kẻ thù ở bên ngoài, không tỉnh táo đề phòng sự phá hoại từ bên trong đã làm cho chủ nghĩa xã hiện thực sụp đỗ. Bài học xương máu” ấy đang nhắc nhở chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải luôn luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối không lặp lại sai lầm “theo vết xe đổ”, để mất vai tròlãnh đạo của Đảng Cộng sản, mất chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã phải để biết bao xương máu mới có được.

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN LUÔN LÀ MỤC TIÊU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Kể từ khi ra đời và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn phải đấu tranh quyết liệt với hệ tư tưởng tự sản, với chủ nghĩa chống cộng và các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lôgíc của cuộc đấu tranh sinh tử ấy đã chỉ ra rằng: khi cách mạng đang ở cao trào, đang thắng lợi thì các thế lực thù địch tìm mọi cách để chống đỡ, phòng ngự, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, tạm thoái trào thì chúng chuyển mạnh sang phản công và tấn công, tập trung công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của chúng ta. Chúng đã và đang triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm của đảng cộng sản và phong trào xã hội chủ nghĩa để chống phá, thậm chí chúng còn bịa đặt một cách thô thiển để thoá mạ, cố tình chứng minh cho điều mà chúng muốn là “chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời”, không thể giữ vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản.

Chúng còn lợi dụng sự kiện sự sụp đỗ chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết ở Liên Xô và các nước Đông Âu để chống phá. Chúng rằng chủ nghĩa xã hội là bước đi sai lầm của lịch, là một “ảo tưởng bốc đồng” của một bộ phận nhân loại,….

Một số khác cho rằng chỉ nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một phần của nhận thức, không thể coi là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động được. Nếu như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các thế lực chống cộng phải giả danh chủ nghĩa Mác để xét lại điểm này, điểm khác, thì hiện nay, chúng công khai tuyên bố bác bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin; coi đó là lý luận “lỗi thời”, “quái gở”, là “không thích hợp với phương Đông, mà cũng chẳng thích hợp với phương Tây”; rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin không còn chỗ đứng nữa”, bây giờ chỉ còn phải lựa chọn giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa không tự do trong kinh tế, giữa bảo thủ và xã hội dân chủ hay là con đường thứ ba giữa hai cánh của con đường chính trị tư sản mà thôi...

Các thế lực thù địch, chống cộng, những kẻ cơ hội, xét lại rất táo bạo, trắng trợn, thô bỉ trong việc nói và làm, bất chấp thực tế lịch sử và hiện thực khách quan. Chúng cố tình quên rằng, chính từ quá trình nghiên cứu một cách khoa học sự hình thành, vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra quy luật phát triển tất yếu của lịch sử: chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị diệt vong và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu; đã chỉ ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động mục tiêu cần phải đến và con đường dẫn tới mục tiêu đó.

BẢO VỆ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG THỨC “KẾT HỢP ĐỐI NGOẠI VỚI BẢO VỆ TỔ QUỐC”

Kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh phi vũ trang với đấu tranh vũ trang khi cần thiết để “không bị động bất ngờ”; kết hợp xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ; nhấn mạnh phương thức “phi vũ trang”, bảo vệ Tổ quốc từ xa, đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; cụ thể hóa quan điểm chủ động bảo vệ Tổ quốc từ thời bình, giữ nước từ lúc nước chưa nguy; phát triển, hoàn thiện quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới. Vì vậy, cần phải nhận thức rõ và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu sai trái, bảo vệ vững chắc quan điểm của đảng. Để thực hiện điều nêu trên, cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, quốc phòng, an ninh và đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định các chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hai là, kết hợp chặt chẽ trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ. Trong tình hình phức tạp hiện nay, công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại cần phải phối hợp chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ.

Ba là, kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quan điểm của Đảng là kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước.

Bốn là, kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng thế trận tổng hợp, liên hoàn, vững chắc để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Đó là lực lượng và thế trận tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.

CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta, là hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước ta hiện nay. Vì vậy phải nhận thức và thực hiện phương thức kết hợp xây dựng và bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ, đấu tranh không khoan nhượng với quan điểm sai trái bảo vệ vững chắc quan điểm của Đảng.

 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc, một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Quan hệ giữa xây dựng chủ quyền xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là khách quan, tất yếu, thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, cùng hướng tới một mục tiêu chung là độc lập, chủ quyền của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Có bảo vệ được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ mới có đất nước để xây dựng; có giữ vững môi trường hòa bình, ổn định mới có thể xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước;

Có bảo vệ được Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa mới có tiền đề, điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ nền văn hóa dân tộc là nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, những người lãnh đạo, quản lý đất nước.

Đồng thời, ngược lại, có xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mới có nguồn lực để đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; mới củng cố, tăng cường được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; tạo được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Đây là những yếu tố có vai trò và ý nghĩa quyết định đối với phương thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

NHẬN DIỆN TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG VỚI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Trong tình hình mới, nhận diện về đặc điểm về đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch hết sức quan trọng, góp phần nâng cao nâng cao về nội dung, giải pháp, phòng chống các quan điểm của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay. Những vấn đề như động cơ, mục địch, nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành, đối tượng chống phá được chỉ ra rõ ràng là cơ sở bảo đảm trong quá trình đấu tranh hiệu quả trong tình hình mới.

Về động cơ, mục đích, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị công khai tung ra những quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đả kích chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhằm hướng lái đất nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Về nội dung, các quan điểm sai trái, thù địch thường tập trung vào một số nội dung như: Bác bỏ những nguyên lý cơ bản hoặc toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bôi đen nền tảng tư tưởng của Đảng; bác bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ca ngợi, cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quy mọi sai lầm, khuyết điểm về cho Đảng hòng kích động, nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta...

Về phương pháp, cách thức tiến hành, chúng sẵn sàng bịa đặt, nói xấu một cách trắng trợn, đổi trắng thay đen, suy diễn vô căn cứ, đồng nhất Đảng với một số cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất, phủ nhận công lao của Đảng, quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm về cho Đảng, phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam...

Về hình thức diễn đạt, chúng sử dụng ngôn từ thiếu văn hóa tuyên truyền trên mạng xã hội; xuất bản sách, báo ở nước ngoài, sản xuất băng đĩa hình, in truyền đơn rồi tìm cách chuyển về trong nước, sử dụng các đài truyền hình, phát thanh của nước ngoài để tuyên truyền...

Về đối tượng đấu tranh, chủ yếu là các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, chính trị trong và ngoài nước mang lòng hận thù chế độ, có trường hợp đã từng vi phạm pháp luật Việt Nam; thậm chí có cả một số người trước đây là cán bộ, đảng viên nay trở cờ, trở thành thế lực thù địch.

Thực chất cuộc đấu tranh giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và ý thức hệ tư bản chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và ngày càng diễn ra quyết liệt. Trên mặt trận này, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết nêu rõ quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các văn bản của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ này thể hiện nhất quán 3 quan điểm cơ bản sau:

  - Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng hiện nay.

 - Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng.

  - Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp.

Như vậy, vấn đề rút ra đó là, thứ nhất, cần nhận thức sâu sắc tính chất rất nguy hại của những quan điểm sai trái, thù địch, trên cơ sở đó tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với cuộc đấu tranh này; thứ hai, phải huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ các nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ tâm huyết tham gia cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch; thứ ba, kết hợp hài hòa các hình thức đấu tranh trên báo chí công khai, trên mạng internet, các blog...; triệt để sử dụng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền miệng; thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả các bài viết phản bác, hết sức chú ý tính chiến đấu, tính thuyết phục nâng cao chất  lượng đấu tranh trong tình hình mới.

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN KHÔNG BAO GIỜ LỖI THỜI

Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa Mác là sự kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó có các nhà tư tưởng về kinh tế, chính trị, triết học trước đó – đây là một cơ sở hiện thực có căn cứ để cho ra đời một học thuyết mới được nảy sinh từ cái cũ.

Chủ nghĩa Mác lần đầu tiên phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo tất yếu loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản qua một giai đoạn quá độ là chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin là nước tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp về triết học, kinh tế - chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen tư tưởng về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở nước tư bản riêng biệt, xây dựng học thuyết về chính đảng mácxít kiểu mới, tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi và vận dụng học thuyết của C.Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dụng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và Liên bang Xôviết.

Đến giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam, đánh đổ những đế quốc to lớn, những kẻ thù hung bạo để giành độc lập, tự do cho dân tộc, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Điều hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào thì chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Namn, phát triển đi tới chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác – Lênin đã phê phán chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời, sự phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và cả từ thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.

Trên thực tế chủ nghĩa tư bản hiện tại vẫn chưa vượt qua ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra, càng chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện nay được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khổ bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những luật lệ văn minh, sạch sẽ hơn.

Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, hoặc là họ cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền  lợi của một nhóm người tư bản, hoặc được hưởng nguồn lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Nếu có lỗi thời, chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội./.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO

Trong tình hình quốc tế hiện nay, việc mở rộng và tăng cường quan hệ đối ngoại là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch lợi dụng triệt để việc quan hệ đối ngoại của chúng ta để thực hiện mưu đồ “diễn biến hoà bình”, nhất là trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Biểu hiện trên một số nội dung chủ yếu như:

Thông qua con đường ngoại giao tác động nhằm làm thay đổi đường lối chiến lược cả về chính trị, kinh tế, quân sự của Đảng ta với phương châm: cấp nào tác động ở cấp đó, ngành nào tác động ở ngành đó.

Thông qua con đường ngoại giao phê phán Đảng ta vi phạm nhân quyền, dân chủ gây sức ép hòng buộc chúng ta thực hiện quan điểm tự do, dân chủ, nhân quyền tư sản; hỗ trợ cho các thế lực chống Đảng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa như đòi thả hết tù chính trị, đòi Việt Nam tự do ngôn luận, tự do báo chí, tách hoạt động văn học nghệ thuật khỏi sự lãnh đạo của Đảng.

Một số sứ quán nước ngoài đã can thiệp tới các cơ quan chức năng của Việt Nam để gây sức ép đề nghị cho văn nghệ sĩ cực đoan ra nước ngoài

Trong chiến lược “ngoại giao thân thiện”, các thế lực thù địch chủ trương mời các nhà ngoại giao Việt Nam hoạt động từ thiện tăng cường các hoạt động giúp đỡ cơ quan tương ứng của Việt Nam. Tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học giữa các nhà khoa học giữa các nhà khoa học và sự tài trợ của nước ngoài; đồng thời thông qua các hoạt động đó sẽ trao tặng các danh hiệu khoa học và các danh hiệu khác cho các nhà lãnh đạo Việt Nam nhằm đánh những đòn tâm lý lung lay đến tư tưởng, tính cảm các các nhà lãnh đạo, xóa nhòa danh giới thù hận, quên đi quá khứ và bản chất xấu xa của chủ nghĩa đế quốc, làm lu mờ đi đấu tranh cách mạng, chỉ biết hưởng thụ, đòi hỏi là mục đích và động cơ thấp hèn của chúng.

Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục đích xoá đi một nguyên lý vô cùng quan trọng của lịch sử xã hội loài người là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa lợi ích của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, xóa nhòa đi mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội cần phải hướng tới. Vì vậy, cần phải cảnh giác đối với các thế lực thù địch hiện nay, đặc biệt là thông qua ngoại giao, cùng với sự thâm hiểm của chúng./.


NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời chống lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá quan điểm của Đảng hiện nay.

Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không có gì khác là:

Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp, phấn đấu đến năm 2030

Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.

Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.

XÂY DỰNG, CỦNG CỐ, HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐÂY LÀ CHỖ DỰA VỮNG CHẮC CHO CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN

Trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường, đẩy mạnh hơn bao giờ hết các chiến dịch, thủ đoạn chống phá  Đảng, Nhà nước ta cả bên ngoài và bên trong, thông qua các kênh truyền dẫn của hơn 40 đài phát thanh, truyền hình tiếng Việt, gần 500 báo, tạp chí, bản tin, nhà xuất bản tiếng Việt ở nước ngoài. Chúng đã lập ra hàng trăm trang website, blog, fanpage, mạng xã hội có máy chủ đặt ở nước ngoài để truyền bá, chuyển tải thông tin xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo, đả phá, công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, công khai tấn công vào những vấn đề cơ bản của nền tảng tư tưởng của Đảng. Để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chúng, chúng ta cầm phải xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý đây sẽ là chỗ dựa vững chắc co cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận.

Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, thành lập các ban chỉ đạo có chức năng, nhiệm vụ là đầu mối cung cấp thông tin, phối hợp chỉ đạo công tác đấu tranh của nhiều lực lượng, như: các cơ quan nghiên cứu, giáo dục lý luận, tuyên giáo, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, truyền thông, báo chí, xuất bản...Điều quan trọng là phải đề ra nội dung phù hợp, kế hoạch, chương trình hành động mang tính toàn diện, có tầm chiến lược trong từng thời kỳ, trên từng mặt, lĩnh vực hoạt động, trên từng địa bàn, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và ở khu dân cư....Đây là những căn cứ, cơ sở lý luận quan trọng để đẩy mạnh cuộc đấu tranh một cách thường xuyên, liên tục, không làm theo lối phong trào.

Thực tiễn, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng diễn ra rất quyết liệt, khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do, tôn giáo, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Việc nhanh chóng cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng để tăng cường, hoàn thiện cơ sở pháp lý thông qua hệ thống luật pháp, các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, của Chính phủ và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là yêu cầu tất yếu, phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay. Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu cụ thể hóa, pháp luật hóa đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ thể chế xã hội chủ nghĩa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước một cách phù hợp, nhất là các bộ luật quan trọng liên quan đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT TỬ TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Những năm gần đây, với “hàng núi” sách báo, hàng trăm giọng điệu công kích, bôi nhọ, phủ nhận trên mọi phương diện, đang tràn ngập mạng xã hội chống phá về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự cầm quyền của Đảng, về thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên, về công cuộc đổi mới đất nước với nhiều thủ đoạn, ở nhiều mức độ và tính chất cả bên trong lẫn bên ngoài, rất phức tạp. Theo đó, xuất hiện đủ loại thái độ và phương cách hành xử gây nên tình trạng trắng đen lẫn lộn, thật giả hỗn mang, rất khó nhận diện và rất nguy hiểm. Nhìn toàn cục, hiện tại ta thấy có 8 loại vấn đề cốt tử và chủ yếu mệnh hệ chung quanh vấn đề này.

Thứ nhất, công phá nền tảng tư tưởng chính trị và thủ tiêu ý thức hệ. Họ phê phán, công kích trực diện vào chủ nghĩa Mác - Lênin... hòng làm phân tâm, gây hoài nghi trong cán bộ, nhân dân, bôi nhọ và cuối cùng đánh sập nền tảng chính trị của Đảng. Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc và có sức công phá lớn, nhằm thẳng vào nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng gây tác hại khôn lường, nhằm lật đổ Đảng từ những vấn đề căn bản, có ý nghĩa cốt tử. 

Thứ hai, bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chính trị và công phá thể chế chính trị. Đây là “tử huyệt” mà các luận điệu thù địch tập trung sức công phá, ở nhiều mức độ: nhẹ thì tung hỏa mù, đánh lạc hướng, gây nên tình trạng nghi ngờ, mất phương hướng hành động; nặng thì không từ mọi chiêu bài, thủ đoạn nhằm phủ nhận tính cách mạng, cơ sở khoa học và bôi nhọ thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm xuyên tạc và phủ nhận đường lối chính trị của Đảng. 

Thứ ba, tung hỏa mù về “đảng trị” và vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Họ bài xích Đảng, với các mánh lới, giọng điệu vừa tinh vi, vừa trắng trợn: 1- Đảng tự cho mình đứng trên tất cả, nghị quyết của Đảng cao hơn Hiến pháp; 2- Độc đảng tất yếu sẽ là chế độ toàn trị, cần phải đa đảng mới hy vọng có dân chủ, mới có chế độ dân chủ; 3- Cần lập các trường phái trong Đảng mới thực sự dân chủ; 4- Đảng tự cho mình quyền lãnh đạo đất nước; 5- Đa thành phần kinh tế nhất định sẽ dẫn tới đa đảng chính trị; 6- Cần “phi chính trị hóa” và tôn trọng tính độc lập của các lực lượng vũ trang; 7- Giai cấp công nhân đã hết vai trò, chỉ có trí thức mới là lực lượng dẫn dắt xã hội trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 7- Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phi chính đáng, phi chính danh... Vô vàn các giọng điệu hằn học, bôi nhọ, phủ nhận, xuyên tạc bất chấp mọi lý lẽ thông thường.

Thứ tư, chia rẽ phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Sức mạnh của Đảng sẽ mất, nếu tách khỏi nhân dân. Đó chính là pháp lý được ghi trong Hiến pháp, đạo lý này được thừa nhận trong xã hội. Chúng âm mưu đánh sập đạo lý của Đảng với nhân dân, phủ nhận sự chính danh, chính pháp giữa Đảng với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thứ năm, khoét sâu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền với thể chế xã hội chủ nghĩa nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại nhân dân. Đây là các duyên cớ để các luận điệu thổi phồng sự thật, khoét sâu sự ngăn cách thù oán do chúng tưởng tượng và dựng lên, để mưu đồ đối lập Đảng với tôn giáo, kích động sự kỳ thị giữa các dân tộc. Chúng thường gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo, kích động vấn đề nhân quyền, phá rối từ cơ sở, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng bằng các hình thức “cách mạng màu”.

Thứ sáu, thông qua vấn đề chính trị gia và quan hệ giữa các nhà lãnh đạo chính trị, giữa các lực lượng nhằm xâm hại thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là vấn đề xung yếu nhất. Ngụy tạo mâu thuẫn trong Bộ Chính trị, tưởng tượng sự chia rẽ Ban Chấp hành Trung ương Đảng với Quốc hội và Chính phủ; thổi phồng sự khác biệt, cao hơn là mâu thuẫn giữa các thế hệ lãnh đạo, các cá nhân lãnh đạo các cấp, nhất là cấp chiến lược... với âm mưu thúc đẩy tan rã nội bộ và tự tan rã thế chế.

Thứ bảy, chung quanh vấn đề quan hệ quốc tế, võ đoán các nguy cơ cái gọi là “đu dây bên miệng hố”, kích động cái gọi là “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước khác, cốt phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta, cổ xúy cho chủ nghĩa ly khai, xâm hại nhân dân, phá vỡ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Đây là một đích ngắm của đủ loại mưu đồ, đủ giọng điệu, với các phương tiện hiện đại, có sức công phá lớn và hết sức nguy hiểm.

Thứ tám, các trào lưu tư tưởng, lý luận du nhập, thẩm thấu bằng mọi con đường, âm mưu gặm nhấm, công phá làm băng hoại dưới mọi hình thức, quy mô và mức độ tư tưởng, lý luận của chúng ta từ nền tảng. Đó là chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bá quyền với vô vàn hình thức... đang thâm nhập từ bên ngoài cấu kết với chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc, dưới nhiều biến thể, tồn tích rất lâu từ bên trong với âm mưu làm băng hoại nền tảng tư tưởng của chúng ta bằng đủ quy mô, tính chất và mức độ; làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa; làm rã rời sự cố kết đồng thuận toàn dân tộc ta; đánh sập vị thế, năng lực và uy tín cầm quyền của Đảng ta và cô lập nước ta trên trường quốc tế. 

Tất cả nhằm thủ tiêu Đảng, cô lập đất nước ta và chuyển hóa thể chế chính trị một cách nhanh nhất, ngắn nhất và nguy hiểm nhất. 

NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG CỦA ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN HIỆN NAY LÀ PHẢI TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

Đấu tranh tư tưởng, lý luận là một nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc; là đấu tranh giữa tư tưởng, lý luận vô sản và tư tưởng, lý luận phi vô sản. Cuộc đấu tranh này luôn diễn ra quyết liệt, phức tạp và liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 

Trong chiến lược chống phá Việt Nam, âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là xoá bỏ chủ nghĩa xã hội (CNXH), xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, đưa cánh mạng Việt Nam theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện âm mưu đó, chúng coi tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận là “mũi đột phá” hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, lý luận, tạo ra những “khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm chuyển hóa, xóa bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chúng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng hiện nay là phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh toàn diện.

Về bản chất, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Vì thế, “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Tuy nhiên, đối với bất cứ một đảng cầm quyền nào, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nguy cơ tham nhũng, quan liêu, thoái hóa... luôn hiện hữu. Do vậy, để giữ vững bản chất, uy tín và năng lực lãnh đạo, Đảng “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”. Cán bộ, đảng viên cần phát huy tinh thần nêu gương, nâng cao trách nhiệm, kiên quyết chống mọi biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa... Đây chính là “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hại, nếu không chống sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với việc chống giặc “nội xâm”, để bảo đảm “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, thù địch đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, tập trung xây dựng “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. Đây chính là cơ sở để giữ vững niềm tin và tạo sự ủng hộ của nhân dân, góp phần củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một đảng duy nhất cầm quyền. Bởi vậy, từ thực tế “tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được coi là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”./.

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Lịch sử dân tộc ta nửa cuối thế kỷ 19 và ngót nửa đầu thế kỷ 20, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”…đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc. Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự Nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dân tộc, Nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của Nhân dân.

Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục lựa chọn con đường Bác Hồ, Nhân dân đã lựa chọn, kiên định CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng đất nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong bài viết của mình: “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.

Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Chủ nghĩa xã hội hiện thực sau cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước XHCN trở thành hệ thống các nước XHCN trên thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ, song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH. Điều đó cho thấy, những bước thăng trầm, quanh co, khúc khuỷu nhưng tất thắng của CNXH với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, một hình thái kinh tế - xã hội và với tư cách một chế độ xã hội mới đầy ưu việt mà nó vốn có, là sự kết tinh tất cả những thành tựu tinh hoa mà các hình thái kinh tế - xã hội trước đã tạo ra, trên con đường đấu tranh khẳng định sự tồn tại phù hợp quy luật của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người./.

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ KIẾN TẠO MỘT KIỂU XÃ HỘI MỚI VỀ CHẤT, HOÀN TOÀN KHÔNG HỀ ĐƠN GIẢN, DỄ DÀNG

Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. 

Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố XHCN được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi XHCN, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng XHCN là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố XHCN để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Với cách nhìn khoa học, biện chứng như vậy, không thể lấy hiện tượng, vấn đề cụ thể là những hạn chế tồn tại, thiếu sót, sơ hở trong đời sống xã hội để đánh đồng hiện tượng thành bản chất của CNXH, quy kết đó là kết quả đi theo con đường CNXH mang lại.

 Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được trong hơn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng là kết quả của công cuộc đổi mới, của quá trình CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. Để cuối cùng “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”./.

Thứ Năm, 17 tháng 2, 2022

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Một là, tập trung đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào theo đúng chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo của Đảng để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có đạo.

Hai là, thường xuyên xây dựng và tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là một chiến lược lớn và lâu dài của Đảng cộng sản Việt Nam. Lịch sử phát triển của đất nước đã chứng minh tính đúng đắn và sự cần thiết phải thực hiện tốt chiến lược này trong mọi thời kỳ cách mạng. Coi trọng xây dựng và củng cố tình đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa đồng bào có đạo và không có đạo để giúp đỡ nhau trong phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc đấu tranh chống mọi sự kích động, chia rẽ tình đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch. Tranh thủ người có uy tín trong làng, bản để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh, vận động quần chúng thực hiện tốt phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng nông thôn mới.

Ba là, củng cố an ninh quốc phòng, chủ động và kiên quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo nhằm kích động quần chúng, chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Như trên đã phân tích, vấn đề dân tộc và vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo luôn là vấn đề nhạy cảm và thường xuyên bị các thế lực thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và chống phá cách mạng nước ta. Do vậy, tăng cường củng cố an ninh quốc phòng là nhiệm vụ thường trực hết sức quan trọng không được phép lơ là. Để thực hiện tốt vấn đề này, cần chú ý một số giải pháp cụ thể sau: Chủ động ngăn ngừa bạo loạn chính trị do các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và nhân quyền. Muốn vậy, phải làm tốt công tác quản lý địa bàn, xây dựng các phương án để chủ động phòng ngừa các hoạt động tôn giáo trái phép. Chủ động vạch trần những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, hoặc kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo nhằm “tôn giáo hóa dân tộc” của chúng. Kiên quyết đấu tranh, xử lý các tổ chức, các đối tượng có các hoạt động truyền đạo trái phép, hoặc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền để kích động quần chúng, chia rẽ tình đoàn kết dân tộc. Kiện toàn bộ máy, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo. Bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo và chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho tất cả cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện, xã. Tranh thủ giáo sĩ, vận động giáo dân thực hiện xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”; đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ cố tình lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, nhân quyền để gây rối, kích động quần chúng chống phá chính quyền, hoặc cố tình vi phạm pháp luật, truyền đạo trái phép./.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO NHẰM PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo thường bị các phần tử xấu, các lực lượng thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam dưới nhiều hình thức và thủ đoạn, tiêu biểu là:

Lợi dụng mê tín để mê hoặc quần chúng, lừa đảo, trục lợi. Một số đối tượng lợi dụng niềm tin tôn giáo đến mức mù quáng của một bộ phận quần chúng nhân dân, nhất là ở vùng miền núi dân tộc thiểu số để hành nghề mê tín dị đoan. Một số khác dưới danh nghĩa truyền đạo đã lợi dụng sự mê tín của một bộ phận quần chúng để tung tin, mê hoặc quần chúng nhằm mục đích trục lợi, gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân; thậm chí làm mất ổn định về đời sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của đồng bào. Sự kiện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên diễn ra vào tháng 5/2011 là một ví dụ điển hình. Một số phần tử xấu trong người Mông với chiêu bài lừa bịp mang tính dị đoan đã kích động người Mông nổi dậy đòi đất để thành lập “vương quốc Mông”. Những hành động này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của đồng bào, khiến cho đời sống của họ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Các thế lực bên ngoài nhân sự kiện này xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, vi phạm nhân quyền, đồng thời kích động đồng bào người Mông nổi dậy, gây mất trật tự an ninh ở khu vực này, đồng thời làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc.

Sử dụng các phương tiện truyền thông để truyền đạo trái phép. Trong những năm gần đây các thế lực phản động tăng cường đổi mới thiết bị, cải tiến kỹ thuật, gia tăng thời lượng phát sóng bằng tiếng dân tộc, thông qua mạng internet, thông qua các cuộc hội thảo, các diễn đàn... để đẩy mạnh việc truyền đạo trái phép, như đạo Tin Lành, một số đạo lạ ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Qua đó, chúng đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và tôn giáo; kích động quần chúng đòi tự do tôn giáo. Điển hình là vụ kích động quần chúng nổi dậy đòi thành lập “nhà nước Đề ga độc lập” ở khu vực Tây Nguyên năm 2004.

Lợi dụng những sơ hở, sai sót của ta để can thiệp chính trị. Những năm qua, nhiều địa phương thực hiện chủ trương thu hồi, đền bù đất, giải phóng mặt bằng để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là quá trình tất yếu phải thực hiện. Tuy nhiên, những sai sót trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở không ít nơi làm cho nhu cầu dân sinh ở nhiều địa phương chưa được đáp ứng đầy đủ, đời sống vật chất của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có đạo. Những sai phạm này đã dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, một mặt làm suy giảm niềm tin của dân đối với Đảng, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mặt khác, các thế lực xấu và thù địch đã lợi dụng triệt để vấn đề này để kích động quần chúng nổi dậy chống phá chính quyền. Vụ hàng trăm giáo dân thuộc giáo xứ Mỹ Yên, xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nổi dậy gây rối trong các ngày 30/8 và mùng 3, mùng 4/9/2013 là một ví dụ điển hình.

Mặt khác, các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc đã thông qua con đường du lịch, thăm thân, qua các hoạt động từ thiện... để thăm dò khảo sát tình hình và phát tán các tài liệu, ấn phẩm có nội dung truyền đạo phản động vào các vùng dân tộc, nhất là dân tộc Mông và vùng người Thượng ở khu vực Tây Nguyên. Thậm chí, chúng thông qua các cơ quan đại diện hợp pháp ở Việt Nam và qua các tổ chức tôn giáo để theo dõi tình hình tôn giáo ở nước ta, tìm ra những sai sót sơ hở của ta để can thiệp về chính trị, vu cáo ta “đàn áp tôn giáo”, “vi phạm nhân quyền”, từ đó chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, kích động quần chúng nổi dậy chống phá chính quyền, gây sức ép với cán bộ và gây áp lực buộc ta phải thừa nhận tư cách pháp nhân của một số tôn giáo mới.

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo trong nước để phát triển đạo trong vùng dân tộc ít người, bao gồm cả các đạo mới và cả số lượng người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam.