Thứ Tư, 22 tháng 2, 2023

CỐ TÌNH XUYÊN TẠC, CHIA RẼ MỐI QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Thời gian gần đây, lợi dụng tình hình xung đột giữa Nga và Ucraine, những nhà “dân chủ giả hiệu” và tổ chức kh.ủng b.ố Việt Tân đã “đục nước béo cò”, “mượn gió bẻ măng” khi khai thác thông tin liên quan để bồi bút xuyên tạc, thêu dệt thành những câu chuyện nhạy cảm, phi lý nhằm chia rẽ mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Nga và Ukraine.

Đáng chú ý, gần đây, trang fanpage của Việt Tân còn đưa ra luận điệu hết sức hoang đường khi cho rằng: “Lãnh đạo ta không ưa lãnh đạo Ukraina là quá đúng rồi! Họ anh dũng đứng lên chiến đấu để dân tộc THOÁT NGA, còn ta hân hoan nhận huân chương để giữ dân tộc không THOÁT TRUNG”. Đây rõ ràng là những luận điệu xuyên tạc, một mũi tên trúng hai đích mà Việt Tân sử dụng nhằm công kích vào mối quan hệ giữa Việt Nam với Nga và Ukraine cũng như với Trung Quốc.

Trong khi đó, thực tế cho thấy, từ trước đến nay, với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là những người bạn truyền thống, nên chắc chắn chúng ta chúng ta luôn giữ mối hòa khí, lấy đoàn kết quốc tế làm trọng và lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết. Những quan điểm này được bàn bè quốc tế tán dương, ủng hộ cao khi chúng ta đã đứng trên lập trường của những quốc gia yêu hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế. Thế nhưng, một thực tế cho thấy, khi Việt Nam chứng tỏ được uy tín và dành được niềm tin từ bạn bè quốc tế, thì những đối tượng thù địch luôn tìm mọi cách phủ nhận, phớt lờ và không quên “bới lông tìm vết” đề châm chọc, bôi nhọ hoặc tìm cách hạ thấp uy tín của Việt Nam.

Và hiện tại Việt Nam đang có quan hệ từ đối tác toàn diện đến chiến lược với cả Nga, Trung và mỗi một quốc gia đều có những chính sách ngoại giao phù hợp với Việt Nam, qua đó giúp nước ta có thể cân bằng ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực của những nước còn lại. Đây là kết quả của một thời gian dài thực hiện chính sách ngoại giao đa dạng hóa, đa phương hóa. Do đó, việc liên hệ vấn đề giữa Nga và Ukraine và sử dụng học thuyết “bắc cầu” kiểu phi lý của Việt Tân để liên hệ mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc là hoàn toàn không có cơ sở. Và đây chẳng qua là mấy trò “chọc gậy bánh xe” cũ rích của Việt Tân nhằm kích động tâm lý tiêu cực dạng “bài Trung, thoát Hoa” mà họ vẫn tuyên truyền bấy lâu nay mà thôi.

 


QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CUỐN SÁCH CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG VÀO THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC

Sáng 20-2, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức Tọa đàm khoa học: Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tọa đàm được tổ chức bằng hình thức trực tiếp tại Hội trường Bộ Quốc phòng và trực tuyến tại 41 điểm cầu trong toàn quân với 1.600 đại biểu.

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo tọa đàm. Dự tọa đàm có Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Đồng chủ trì tọa đàm có các đồng chí: Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Thượng tướng, PGS, TS Nguyễn Văn Thành, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; PGS, TS Phạm Minh Tuấn, Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Cùng dự tọa đàm có Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Trung tướng Lê Quang Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật; các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu; đại diện các cơ quan, đơn vị chức năng.

Cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản và ra mắt đúng vào dịp kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 10 năm thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã tiếp tục khẳng định sự quan tâm sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh hiện nay.

Tọa đàm được tổ chức nhằm quán triệt sâu sắc nội dung cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; thống nhất nhận thức, khẳng định giá trị lý luận, thực tiễn của cuốn sách, giúp cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thực hiện hiệu quả hơn công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới, đóng góp tích cực vào sự nghiệp quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Tin, ảnh: PHẠM KIÊN - VIỆT TRUNG


ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ THAM GIA NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, CÔNG AN

Thời gian gần đây, trên mạng internet, một số tổ chức, cá nhân thù địch móc nối với những phần tử cơ hội chính trị, những đối tượng bất mãn cố tình cắt ghép, ngụy tạo những bức ảnh, video clip xuyên tạc, chế nhạo việc tham gia nghĩa vụ quân sự, Công an.

Có bài viết chỉ trích, hiện nay, trong khi các nước quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì “chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự, Công an”. Một số trang web còn đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi cài lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam”. Nguy hiểm hơn, có những hình ảnh, video được cắt ghép, dàn dựng để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, Công an nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề. Tung tin thất thiệt về cảnh bạo lực hay “cái chết oan ức” rồi đưa ra những câu hỏi khả nghi, cho rằng “có sự lấp liếm, giấu nhẹm”!

Mục đích của họ là nhằm bôi nhọ hình ảnh, bản chất, truyền thống, uy tín của lực lượng Công an, Quân đội, gây ngờ vực trong nhân dân. Từ đó, tạo luồng tư tưởng khiến cho thanh niên nhập ngũ “tự diễn biến”, buông lỏng về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân với Tổ quốc, làm người dân hoang mang, không muốn cho con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an. Đó còn là mưu đồ hòng gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khi các đối tượng phản động kích động người dân biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc…

Thực tiễn lịch sử cho thấy, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc, đó chính là truyền thống quý báu của tổ tiên ta. Ðảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã có chính sách “ngụ binh ư nông”.

Chính sách này ra đời trong bối cảnh một đất nước đất không rộng, người không đông, lại thường bị các thế lực nước ngoài xâm lược. Chính sách “ngụ binh ư nông” là sự kết hợp nhiệm vụ duy trì lực lượng quốc phòng với sản xuất, sẵn sàng chuyển hóa lực lượng quân sự từ sản xuất sang chiến đấu khi cần thiết và ngược lại, chuyển lực lượng chiến đấu về sản xuất trong thời bình.

Bảo vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà cần hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả bên trong. Không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, từ sớm, từ xa; chủ động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... ngay từ thời bình.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” (Điều 45, Chương II) và “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân… Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” (Điều 64, Chương IV). Thể chế hóa Hiến pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật CAND quy định rõ việc công dân tham gia nghĩa vụ quân sự, Công an.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó QĐND và CAND là nòng cốt". Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an không chỉ đơn thuần là chấp hành pháp luật của Nhà nước, đó còn là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc. Lịch sử minh chứng, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật trường tồn của dân tộc ta. Biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong lên đường chiến đấu, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất. Ngày nay, trong thời bình, ổn định và hợp tác quốc tế, hình ảnh chiến sĩ Quân đội, Công an lại càng sống động hơn khi sát cánh cùng nhân dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh để bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân. Các chiến sĩ bộ đội, Công an đồng hành cùng người dân ở những khu vực biên giới, núi cao, vùng sâu vùng xa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói nghèo, lạc hậu, chung tay xây dựng nông thôn mới...

Các nước trên thế giới cũng đều có những quy định về nghĩa vụ quân sự, tuỳ từng điều kiện cụ thể mỗi nước. Tại Thụy Sĩ, luật pháp nước này quy định tất cả đàn ông từ 19 đến 26 tuổi đều phải đăng ký nhập ngũ và phục vụ trong quân đội ít nhất 260 ngày, trong đó có 18 tuần huấn luyện và 7 lần gọi tái nhập ngũ, mỗi lần kéo dài 3 tuần trong suốt 10 năm tiếp theo. Tuy nhiên, họ có thể chọn phục vụ cộng đồng 390 ngày thay vì thi hành nghĩa vụ quân sự.

Đối với Hàn Quốc, là một trong những nước có luật nghĩa vụ quân sự nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Gần như tất cả các nam công dân tuổi từ 18-35 của nước này đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng. Không một ai được miễn trừ dù là người có địa vị cao hay nhân vật của công chúng như diễn viên, ca sĩ nổi tiếng. Hiến pháp Hàn Quốc quy định rõ, việc tôn trọng lệnh nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm và nghĩa vụ bắt buộc đối với toàn bộ các công dân nam có đủ sức khỏe. Những trường hợp được miễn giảm chủ yếu có vấn đề về sức khỏe, tàn tật, tâm thần, mắc bệnh truyền nhiễm và không có khả năng lao động. Những ai đủ tiêu chuẩn mà từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự thì sẽ bị phạt tù.

        Tại quốc gia Đông Nam Á Singapore, nghĩa vụ quân sự được biết đến với tên nghĩa vụ quốc gia, là nghĩa vụ bắt buộc mà mọi công dân nam phải thực hiện khi đủ 18 tuổi. Công dân đi nghĩa vụ quân sự có thể phục vụ trong lực lượng Vũ trang Singapore, lực lượng Phòng vệ dân sự Singapore hoặc lực lượng Cảnh sát Singapore. Theo quy định của đảo quốc, tất cả những người vi phạm nghĩa vụ quốc gia đều phải đối mặt án phạt tiền tới 10.000 đô la Singapore, án tù với thời hạn không quá ba năm hoặc cả hai. Ở Thái Lan, nghĩa vụ quân sự bắt đầu được thực hiện vào năm 1905. Theo Hiến pháp Thái Lan, việc phục vụ trong lực lượng vũ trang được coi là nghĩa vụ quốc gia của công dân Thái Lan. Trên thực tế, chỉ những nam giới trên 21 tuổi chưa trải qua khóa huấn luyện dự bị mới phải nhập ngũ.

Như vậy, tùy theo tình hình chính trị, quân sự của mỗi nước, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện một cách phù hợp chứ không phải như luận điệu của các thế lực xấu cho rằng, chỉ Việt Nam đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự, Công an nhằm “o ép người dân”. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý nhất của mỗi công dân. Lên đường làm nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm, mà trên hết đó còn là niềm tự hào của tuổi trẻ và trách nhiệm của thanh niên Việt Nam để góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Được sống trong hòa bình, độc lập, tự do mà ai đó nếu chỉ biết đến vun vén, hưởng thụ cho bản thân, nghe theo luận điệu xấu rồi thoái thác, trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm công dân tham gia bảo vệ Tổ quốc thì không những vi phạm pháp luật mà còn có tội với các thế hệ ông cha, với truyền thống lịch sử dân tộc./.


Thứ Ba, 21 tháng 2, 2023

NGƯỜI THẦY MẦM NON GỬI CON Ở NHÀ, CẮM BẢN NUÔI TRÒ NGHÈO

Ngày thầy Đao Văn Nguyên về cắm bản ở Xà Phìn, Pa Vệ Sủ cũng là ngày vợ thầy, một giáo viên cắm bản ở Thò San mất khi sinh con. 5 năm rồi, mọi thứ dường như vẫn ám ảnh thầy Nguyên đến mức, tôi vừa hỏi “vợ thầy có làm giáo viên không?” thầy đã lặng người, rơi nước mắt: “Vợ tôi lần đầu sinh đôi được 2 cháu gái, lần hai là cháu trai nhưng phải sinh mổ. Do sơ suất của các bác sĩ, vợ tôi bị mất máu nhiều, đưa xuống viện tỉnh cấp cứu mà không kịp. Đường từ Mường Tè xuống tỉnh xa quá. Giá mà ở gần hơn thì...!” – thầy Nguyên kể mà tôi cũng không cầm được nước mắt.

5 năm qua, thầy Nguyên gửi 3 đứa con nhỏ ở nhà cho ông bà nội chăm sóc, hàng tuần vượt cả trăm cây số, trèo đèo, lội suối, băng rừng lên Xà Phìn cắm bản, chăm bẵm những đứa trẻ người La Hủ như chăm chính những đứa con của mình. Vâng, thầy Đao Văn Nguyên, người dân tộc Thái, là một trong 30 giáo viên nam dạy mầm non của huyện Mường Tè thay cho các cô giáo vì các cô không đủ sức, để thường xuyên tới các điểm trường và ở lại cắm bản.

Nguồn: Hà Thanh


BỘ TRƯỞNG PHAN VĂN GIANG GỬI THƯ BIỂU DƯƠNG LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI THAM GIA CỨU HỘ NHÂN ĐẠO Ở THỔ NHĨ KỲ

Sáng 18/2, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư biểu dương lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hỗ trợ cứu nạn, cứu hộ nhân đạo khẩn cấp tại Thổ Nhĩ Kỳ do động đất gây ra. Trong thư, Đại tướng Phan Văn Giang viết: "Sáng ngày 6/2/2023, tại Thổ Nhĩ Kỳ đã xảy ra trận động đất với cường độ mạnh, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về người và tài sản. Theo thống kê đến nay, đã có hàng chục nghìn người Thổ Nhĩ Kỳ bị thiệt mạng, hàng chục triệu người bị ảnh hưởng. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã ban bố tình trạng khẩn cấp; Liên Hợp Quốc đã kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ, ứng cứu, khắc phục hậu quả.

Phát huy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc, trên tinh thần: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; hưởng ứng lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quyết định cử 76 đồng chí sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp cùng trang thiết bị sang hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ khắc phục hậu quả động đất.

Mặc dù triển khai nhiệm vụ trong thời gian rất ngắn, phải đối mặt với điều kiện vô cùng khắc nghiệt về thời tiết, những hiểm nguy từ các rung chấn còn tiếp diễn, những khó khăn về ngôn ngữ, ăn ở, sinh hoạt và làm việc. Nhưng với bản lĩnh, trình độ và ý chí quyết tâm cao, các đồng chí đã phát huy tốt tinh thẫn quốc tế cao cả, truyền thống của dân tộc và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, bình tĩnh, tự tin, không quản khó khăn, gian khổ và hy sinh, chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giờ, từng phút để phối hợp tìm kiếm cứu nạn; kịp thời xác định nhiều điểm có người mắc nạn bàn giao cho chính quyền và lực lượng chức năng nước sở tại tìm kiếm giải cứu, xử lý. Việc làm của các đồng chí, thể hiện trách nhiệm, năng lực, uy tín của Quân đội ta trước các vấn đề an ninh phi truyền thống, được cộng đồng quốc tế, Chính phủ, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận, đánh giá cao. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng biểu dương, ghi nhận và đánh giá cao những kết quả, tinh thần, trách nhiệm và sự nỗ lực của các đồng chí.

Nhiệm vụ trong những ngày tới còn rất nặng nề, khó khăn và nguy hiểm; mỗi giây phút đi qua thì sự sống của người bị nạn càng ngắn lại. Tôi mong rằng, các đồng chí đã cố gắng, quyết tâm rồi thì càng cố gắng, quyết tâm nhiều hơn nữa, sự sống và hạnh phúc của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tổ quốc và Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tự hào, đồng hành cùng các đồng chí. Chúc các đồng chí luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, thành công.

Chào thân ái và quyết thắng!".

Theo TTXVN

ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG HỘI ĐÀM VỚI BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG CAMPUCHIA

Sáng 19-2, tại trụ sở Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chủ trì lễ đón Đại tướng Tea Banh, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia sang thăm chính thức Việt Nam.

Tham dự lễ đón có Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Đại tướng Tea Banh nhằm duy trì tiếp xúc cấp cao, góp phần tăng cường xây dựng lòng tin chiến lược giữa hai nước. Đây cũng là cơ hội để hai bên đánh giá kết quả hợp tác quốc phòng song phương thời gian qua và trao đổi, thống nhất định hướng hợp tác quốc phòng song phương thời gian tới.

Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh bất chấp tác động của dịch Covid-19, hợp tác quốc phòng Việt Nam-Campuchia thời gian qua vẫn đạt được những kết quả tích cực, tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng của mối quan hệ song phương.

Theo đó, hai bên tiếp tục duy trì gặp gỡ, tiếp xúc cấp cao với các hình thức linh hoạt; triển khai hiệu quả những nội dung hợp tác về công tác tuyên truyền, giáo dục về quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai quân đội; tìm kiếm, quy tập và hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Campuchia trong các thời kỳ chiến tranh; phối hợp hiệu quả, duy trì an ninh, trật tự khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội vùng biên, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; duy trì tốt hợp tác giữa các quân, binh chủng, hợp tác về quân y, đào tạo, tập huấn....

Riêng trong “Năm hữu nghị Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam 2022” nhằm kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Campuchia (24-6-1967 / 24-6-2022) vừa qua, hai Bộ Quốc phòng đã phối hợp tổ chức thành công nhiều sự kiện lớn, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân hai nước. Trong đó nổi bật là Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất (tháng 5-2022); Lễ kỷ niệm 45 năm “Hành trình tiến tới lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot” của Thủ tướng Campuchia Hun Sen (tháng 6-2022); cuộc gặp thường niên giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia cùng hoạt động diễn tập cứu hộ-cứu nạn chung lần đầu tiên giữa quân đội 3 nước tại Lào (tháng 9-2022). Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng tích cực ủng hộ, hỗ trợ Bộ Quốc phòng Campuchia trong việc tổ chức các hội nghị quân sự, quốc phòng trong Năm Chủ tịch ASEAN 2022 của Campuchia.


Thứ Hai, 20 tháng 2, 2023

MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM

Hơn ai hết, quân nhân mang bộ quân phục màu xanh, đội mũ đeo sao vàng, trên vai, trên ngực áo mang quân hàm tươi màu cờ đỏ và trong trái tim là tình yêu Tổ quốc, hình bóng người thân, gia đình, đơn vị. Họ là Bộ đội Cụ Hồ đi làm nhiệm vụ quốc tế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ủy thác. Gánh trên vai trách nhiệm thiêng liêng đối với Tổ quốc, niềm vinh dự, tự hào là Bộ đội Cụ Hồ, tấm lòng tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân, Đoàn cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Quân đội ta tham gia cứu hộ, cứu nạn ở Thổ Nhì Kỳ đại diện cho dân tộc Việt Nam, góp sức mình để lan tỏa tinh thần nhân ái, “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam để tương trợ, giúp bạn trong lúc khó khăn, hoạn nạn, hiểm nghèo.

Đây là việc làm đầy tính nhân văn, nhân đạo, tất cả vì con người, vì sự tiến bộ xã hội. Chính điều đó góp phần lan tỏa mạnh mẽ chính sách nhân đạo, đoàn kết, vì hòa bình của Đảng, Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Hàng triệu triệu con mắt trên hành tinh đang dõi theo việc làm, trách nhiệm của của họ đối với thể diện quốc gia, hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với vai trò đại diện cho đất nước và cho Quân đội nhân dân Việt Nam, cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Quân đội ta đang gắng sức khắc phục khó khăn, nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội tin tưởng giao phó. Hơn thế, họ còn có nhiệm vụ tạo ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế và chính quyền, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần giữ vững và phát huy phẩm chất, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong mắt bạn bè quốc tế. Quân đội ta là Quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, Quân đội ta không có mục đích nào khác. Nếu không phải vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp ấy thì cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đâu dám xả thân hy sinh vì cách mạng; cùng nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, Quân đội ta đã làm nòng cốt và cùng toàn dân đánh thắng hai thế lực xâm lược cường bạo nhất nhì thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời tình nguyện giúp đỡ nhân dân Lào, đặc biệt là giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, hồi sinh và phát triển đất nước. Phát huy tinh thần quốc tế cao cả đó, việc tham gia cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ vượt qua hoạn nạn, thảm họa động đất là một hoạt động nhân văn trong các hoạt động “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” của Quân đội ta trong thời bình. Sự thật ấy là minh chứng đầy thuyết phục để bác bỏ mọi sự xuyên tạc, ác ý của những kẻ xấu.

 


QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN THỂ HIỆN TINH THẦN QUỐC TẾ CAO CẢ

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã gửi lời chia buồn sâu sắc đến Chính phủ và người dân của hai quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ và Syria về những thiệt hại vô cùng to lớn do thảm họa động đất gây ra, làm hàng chục nghìn người thiệt mạng.

Thấu hiểu, sẻ chia về những tổn thất, đau thương, mất mát to lớn ấy, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định cử đoàn công tác của Quân đội nhân dân Việt Nam sang tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ, giúp bạn tìm kiếm các nạn nhân xấu số và cứu chữa những nạn nhân còn sống, đưa họ về trạng thái an toàn; tiếp tục giúp giải quyết, khắc phục hậu quả thảm họa, sớm đem lại cuộc sống bình thường mới cho người dân nơi xảy ra động đất ở đất nước này.

Thiên tai, thảm họa là điều không ai muốn và bất khả kháng. Mất mát về tiền của có thể bù đắp, có thể tạo ra bằng sự quyên góp của cộng đồng nhưng thương vong về con người là vô cùng to lớn, không thể bù đắp được. Việc Quân đội ta tham gia giúp bạn khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa là góp phần làm vơi đi nỗi đau thương, mất mát của một dân tộc, là nghĩa tình bạn bè trong lúc hoạn nạn có nhau, chia bùi sẻ ngọt cùng nhau. Ngay sau khi đến Thổ Nhĩ Kỳ, cán bộ, chiến sĩ trong đoàn cứu hộ đã khẩn trương cùng với đơn vị bạn tích cực tiềm kiếm, phát hiện các vị trí có người còn mắc kẹn. Kết quả đoàn cứu hộ phát hiện có 14 vị trí có người mắc kẹt và 2 vị trí có dấu hiệu có người còn sống. Hành động kịp thời và trách nhiệm của đoàn cứu hộ, cứu hộ Việt Nam sẽ góp phần khắc phục bớt những khó khăn, mất mát mà nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đang phải trãi qua, thể hiện tinh thần quôc tế cao cả.


CÀNG XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ CÀNG BỘC LỘ BẢN CHẤT ĐEN TỐI, ĐÊ HÈN

Ngày 6 tháng 02 năm 2023, Thổ Nhĩ Kỳ trãi qua trãi qua thảm họa động đất, làm 44000 người người thiệt mạng, hàng nghìn người bị thương và mất nhà cửa. Với tinh thần quốc tế cao cả. Đêm 12-2-2023, Đoàn cứu hộ, cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 76 cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã lên đường đến Thổ Nhĩ Kỳ làm nhiệm vụ hỗ trợ nước bạn khắc phục hậu quả thảm họa động đất. Việc Quân đội nhân dân Việt Nam  tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục thảm họa động đất thể hiện chính sách đối ngoại ưu việt, trách nhiệm cao cả của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; khẳng định uy tín, vị thế, tinh thần trách nhiệm của Quân đội ta trước các vấn đề an ninh phi truyền thống và góp phần thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng vì hòa bình của Việt Nam. Tuy nhiên, một số phần tử chống đối có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và Quân đội ta lợi dụng việc Quân đội nhân dân Việt Nam  tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu hộ, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ để chống phá, xuyên tạc. Chúng cho rằng, “tham gia cứu hộ, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ là việc làm không cần thiết”, “là ôm rơm nặng bụng”,…Ác ý hơn có người còn cho rằng, “đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói khổ, tại sao quân đội lại đem tiền của ra nước ngoài mà không dùng nó để cứu giúp đồng bào ta”, lại “lăng xăng đi cứu người” ...Những luận điệu nêu trên thể hiện sự vô cảm, thờ ơ trước khó khăn của người khác, hoàn toàn trái ngược với bản chất, truyền thống nhân văn, nhân đạo sâu sắc của nhân dân ta cần phải lên án, bác bỏ. Nó không những tạo ra tâm lý nghi ngờ, bất an, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với một bộ phận người dân, nhất là một số thân nhân, gia đình có quân nhân nhận nhiệm vụ đến Thổ Nhĩ Kỳ tham gia cứu hộ, cứu nạn, mà còn bôi đen hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ; xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta; làm phai mờ hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.  


ĐẬP TAN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” ĐỂ XUYÊN TẠC CHỐNG PHÁ ĐẢNG

Để thực hiện những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị đã không từ bất kỳ một thủ đoạn nào, chúng thường lợi dụng những vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong nội bộ tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên để khoét sâu, gây mâu thuẫn nội bộ, tạo tâm lý hoang mang dư luận. Hiện nay, chúng triệt để lợi dụng những biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, xuyên tạc, chống Đảng, Nhà nước. Những vấn đề chúng tập trung tuyên truyền, xuyên tạc là sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên hay tệ tham ô, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan công quyền. Từ đó, khoét sâu, thổi phồng, đổi trắng thay đen nhằm phủ nhận bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Đảng và sự hy sinh, cống hiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, đấu tranh đập tan âm mưu, thủ đoạn của chúng; đồng thời, tuyên truyền, vận động nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của công cuộc đổi mới./.


PHÒNG CHỐNG, CHỐNG THAM NHŨNG, QUYẾT TÂM CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch xuyên tạc công cuộc chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu của Đảng và Nhà nước ta, theo chúng cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay chẳng qua chỉ là cuộc đấu đá nội bộ giữa phe này và phe khác. Rằng Đảng cộng sản Việt Nam không thể chống tham nhũng vì. Việt Nam chỉ do một đảng duy nhất lãnh đạo, rằng chỉ có một đảng thì không thể có dân chủ và vì vậy không thể chống được tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực chất đây là luận điệu xuyên tạc, phản động nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng, gây mâu thuẫn trong nhân dân, dẫn đến bất ổn xã hội, chiều lái xã hội đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng sẽ không bao giờ thực hiện được ý đồ đó; bởi vì, Đảng thể hiện rõ quyết tâm trong phòng chống tham nhũng là.

Thứ nhất, chống tham nhũng là để bảo vệ tài sản của Nhà nước, của Nhân dân và uy tín của Đảng trước Nhân dân

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc chống tham nhũng không chỉ để bảo vệ tài sản của Nhà nước, của Nhân dân mà còn để bảo vệ uy tín của Đảng trước Nhân dân. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đã chỉ rõ: "Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc. Đảng thừa nhận và coi tham nhũng là nguyên nhân gây mất lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), 5 bài học kinh nghiệm rút ra về cơ bản vẫn giữ nguyên như Cương lĩnh 1991. Tuy nhiên, Cương lĩnh đã bổ sung vào bài học kinh nghiệm thứ 2 nội dung rất quan trọng: Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Đây có thể xem là một cam kết chính trị trước Nhân dân về công cuộc phòng, chống tham nhũng.

Việc đưa ra cảnh báo nghiêm khắc về nguy cơ mà tệ tham nhũng gây ra thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng đã thẳng thắn thừa nhận, nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật để có các biện pháp hữu hiệu phòng chống hiệu quả.

Thứ hai, không bao giờ bao che, dung túng cho tham nhũng, lãng phí; không có “vùng cấm”, “không có ngoại lê” trong chống tham nhũng ở Việt Nam

Trong các Văn kiện Đại hội của Đảng đều chỉ rõ sự nguy hại của tham nhũng đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Đại hội XII Đảng tiếp tục khẳng định: Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.....đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định lại quan điểm nhất quán này đó là: kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí, lối sống cơ hội thực dụng, bè phái, nói không đi đôi với làm trong cán bộ đảng viên.. Như vậy, có thể nhận thấy công tác phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng xác định là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, khó khăn, phức tạp; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, không nóng vội, không chủ quan, với những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm; phòng chống tham nhũng cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp; phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, các hành vi bao che, dung túng tiếp tay cho tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam…

Với sự quyết tâm và nghiêm khắc của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều vụ tham nhũng được xét xử, nhiều cán bộ tha hóa, biến chất ở mọi cấp, mọi ngành, “không có vùng cấm” đã chịu sự trừng phạt của pháp luật; đã thu hồi, đề nghị thu hồi tại sản trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho Nhà nước. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được điều tra, khởi tố, truy tố và xử lý công khai, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Mới đây, hàng loạt cán bộ cao cấp ở tỉnh Bình Dương, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh và một số UVTW cả đương chức và đã nghỉ hưu bị xử lý kỷ luật và bị truy tố vì các vi phạm của Đảng và pháp luật Nhà nước.

Từ những dẫn chứng nêu trên cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam không bao giờ bao che, dung túng cho quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chống tham nhũng không có “vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Tất cả những ai có hành vi phạm tội, tùy theo mức độ vi phạm đều bị xem xét xử lý nghiêm khắc theo pháp luật, thấu tình đạt lý. Đảng luôn coi tham nhũng là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ, đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển đất nước, làm mất uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì thế, Đảng không thể không quyết liệt trong đấu phòng, chống tham nhũng. Phòng, chống tham nhũng là mệnh lệnh sống còn của Đảng. Do đó, luận điệu cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không thực tâm chống tham nhũng là luận điệu xuyên tạc , chống phá nhằm đánh lạc hướng dư luận, gây xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng hiện nay.

 


VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Trong cương lĩnh và văn kiện của Đảng ta, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất rõ. Một trong các bài học được rút ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mối quan hệ này, cụ thể là: "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực"(1). Văn kiện đại hội Đại hội XI của Đảng cũng nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nội dung cần thực hiện: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… Đặc biệt, chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển… giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Các văn kiện Đại hội XII, XIII đều tiếp tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hoá mối quan hệ độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đồng thời, văn kiện cũng nhấn mạnh bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của nhà nước với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đối ngoại song phương với nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và gia tăng độ tin cậy. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.

Đường lối, chính sách đối ngoại xuyên suốt của Đảng ta đều được khẳng định trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, là mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ này được cụ thể hoá qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, phù hợp điều kiện, bối cảnh phát triển cụ thể trên cơ sở của nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, bảo đảm hội nhập quốc tế luôn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Quá trình này cũng thể hiện sự phát triển của cả nhận thực và thực tiễn từ chú trọng hội nhập kinh tế đến hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác là điều kiện và hỗ trợ cho hội nhập kinh tế. Từ hội nhập đơn tuyến sang đa tuyến trên tất cả các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.


DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NHẤT ĐỊNH SẼ THÀNH CÔNG

         Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, cả dân tộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện khó khăn thiếu thốn về mọi mặt. Khắc phục những khó khăn, Đảng đã tìm tòi khảo nghiệm thực tiễn để đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Trong giai đoạn 10 năm, từ 1975 – 1986, Đảng vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, vừa phải lãnh đạo công cuộc bảo vệ chủ quyền của đất nước, đánh thắng chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm thất bại hoàn toàn mưu toan của các thế lực thù địch nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Bước vào thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, đất nước ta lại một lần nữa đứng trước những khó khăn, thử thách: kinh tế – xã hội lâm vào khủng hoảng, bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào. Trong bối cảnh ấy, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới lãnh đạo nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu mới to lớn. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trên các lĩnh vực: thế và lực của đất nước được củng cố và tăng cường; độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; uy tín và vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng cao, đúng như văn kiện Đại hội Đảng đã khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, truyền thống tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đề ra đường lối đổi mới đúng đắn sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân và xu thế thời đại; thực sự xứng đáng là đạo đức, là văn minh

 

 

 

 


 

 

VIỆT NAM QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN

Thời gian vừa qua trên một số trang mạng xã hội xuất hiện bài viết: “Quá độ – nói phét vượt thời gian”, của bọn cơ hội chính trị, chống đối Đảng nhằm xuyên tạc và phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhưng sự thật chúng đã nhầm bởi lẽ: Con đường phát triển của mỗi chế độ xã hội nói chung, của chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới và ở Việt Nam nói riêng là quá trình quanh co phức tạp. Sau sự khủng hoảng, sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên xô, một số nước Đông Âu, Đảng ta khẳng định: Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Mặc dù Chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi để thích ghi với thực tiễn, song bản chất không bao giờ thay đổi vẫn là chế độ người bóc lột người. Ngày nay chủ nghĩa tư bản hiện đại bước sang giai đoạn cao là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, tuy đạt được nhiều thành tựu giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ nên đã đạt được năng suất lao động cao. Song chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, khi dịch Covid – 19 bùng phát lại càng bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị – xã hội là không phải vì nhân dân lao động. Mặt khác, Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề về mọi mặt. Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Với đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế, trong 35 năm qua chúng ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn trên tất cả các lĩnh vực, đúng như Đại hội XIII đã đánh giá: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu to lớn ấy khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, không thể thay đổi. Do đó, các phần tử cơ hội chính trị có nói gì đi chăng nữa, cũng chỉ là tìm cách xuyên tạc, bôi nhọ con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lực chọn. Mục đích cuối cùng của chúng là muốn chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân nhằm làm suy yếu nội bộ, tạo thời cớ can thiệp để làm đổi màu chế độ chính trị của nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam hãy cảnh giác, không bị mắc mưu của những luận điểm xuyên tạc và phản động đó.

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2023

LẬT TẨY NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ

Trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác cán bộ của ta luôn phải đối mặt với rất nhiều luận điệu chống phá từ nhiều phía.

Thời gian gần đây, khi một loạt lãnh đạo cấp cao bị kỷ luật, cảnh cáo hoặc cho miễn nhiệm chức vụ, thì các tổ chức phản động lại được dịp tung ra những luận điệu mỉa mai, bôi đen, chống phá, dù cũ mèm nhưng vẫn nguy hiểm, thâm độc.

Những luận điệu cũ kỹ như vậy tràn ngập trang Facebook của tổ chức phản động Việt Tân. Trong một dòng trạng thái đăng ngày 5/2, tổ chức này buông lời bình luận xuyên tạc, đại ý rằng Đảng ta dùng “mưu” và “kế” nhằm loại bỏ nhau để giành quyền lực.

Khi Quốc hội thông qua Nghị quyết miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước và sau khi diễn ra lễ bàn giao công tác của nguyên Chủ tịch nước cho quyền Chủ tịch nước vào ngày 4/2, trang thoibao.de đặt câu hỏi rằng sắp tới đây Đảng có dám thực hiện đổi mới thực sự, căn bản và triệt để về công tác cán bộ hay không.

Khi Quốc hội cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khoá XV đối với ông Phạm Bình Minh; phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Thường trực đối với ông Phạm Bình Minh và Phó Thủ tướng với ông Vũ Đức Đam, các bài viết mang tính công kích, xuyên tạc, quy chụp xuất hiện ồ ạt trên các trang báo, trang mạng xã hội thù địch. Đài VOA giật ngay dòng tít quy chụp “Bộ chính trị thanh trừng hai phó thủ tướng”, rồi bàn đến chuyện “khuất tất đằng sau”.

Ngày 1/1, Đài Á Châu Tự Do (RFA) thì bình luận rằng đây là “cuộc xâu xé quyền lực mạnh được yếu thua” và lý giải nguyên nhân là “không có phe cánh, không có hậu thuẫn”. Trong một bài khác, RFA còn “khuyên” rằng Đảng cần làm công tác cán bộ triệt để hơn và đó phải là “việc của toàn dân”.

Và còn rất nhiều những ví dụ tương tự nữa. Có thể thấy, những người đứng đằng sau những tổ chức, tờ báo nói trên luôn tìm mọi cách, tận dụng mọi thời cơ, mọi sự kiện trong công tác cán bộ của ta để lồng vào đó thông điệp bôi bẩn, suy diễn, sặc mùi chống phá.

Không phải vô cớ mà chúng đặc biệt chĩa mũi dùi vào Đảng ta trong công tác nhân sự, công tác cán bộ. Khi công tác này được chú trọng trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các thế lực xấu cũng tăng cường “kỳ đà cản mũi”. Như Đảng ta luôn khẳng định, công tác cán bộ là “then chốt của then chốt” và việc cán bộ có sai phạm, không làm tròn trách nhiệm, không đủ khả năng đảm đương công việc thì phải “ra”, phải “xuống”, phải “lùi” là điều đương nhiên. Nhưng các phần tử thù địch với Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy vấn đề đương nhiên đó để quy chụp, thổi phồng, suy diễn vô căn cứ.

Một suy diễn điển hình là coi công tác cán bộ là vỏ bọc của “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ”. Tuy nhiên, cái gọi là tranh giành quyền lực theo giọng điệu thế lực thù địch chính là tranh giành giữa các đảng phái, chủ thể chính trị khác nhau vì lợi ích cá nhân. Do đó, khi Đảng ta thực hiện công tác cán bộ, khi bổ nhiệm người này, bãi nhiệm người kia, không thể gọi là tranh giành quyền lực vì đây là thay đổi nhân sự/cán bộ, là điều hết sức bình thường trong mọi tổ chức, mọi bộ máy không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Chỉ có thể gọi công tác cán bộ là nhằm loại bỏ người thiếu đức, thiếu tài, chọn người có tâm, có tầm vào đúng vị trí để làm Đảng vững mạnh, tiếp tục phát triển như một cái cây tươi tốt, không còn cành sâu mục.

Lập luận phản bác này không chỉ là do Đảng ta, báo chí cách mạng của ta đưa ra một chiều, mà chính những chuyên gia nghiên cứu về tình hình Việt Nam cũng nhấn mạnh những điều tương tự. Giáo sư Carl Thayer tại Học viện Quốc phòng Australia, nói trong một bài viết ngày 1/1 rằng việc miễn nhiệm hai phó thủ tướng không liên quan đến suy đoán vô căn cứ rằng “đây là kết quả của một cuộc đấu tranh quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam để lựa chọn lãnh đạo cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 14 sẽ được tổ chức vào năm 2026”.

Nhìn rộng ra thế giới, có thể thấy việc lãnh đạo cấp cao từ chức, rời ghế là điều bình thường. Ví dụ như nước Anh, trong chưa đầy 2 tháng, đã có tới ba vị thủ tướng. Hai người là bà Theresa May và ông Boris Johnson vì không đáp ứng được kỳ vọng của đảng cầm quyền, của cử tri, phải từ chức trước sức ép dư luận. Điều lạ là với các quốc gia như vậy, không thế lực nào, không tờ báo nào rêu rao rằng họ “thanh trừng” lẫn nhau hay đấu đá quyền lực, mà chỉ tập trung vào nguyên nhân cốt lõi khiến họ phải “xuống”, phải “ra” để nhường chỗ cho người có năng lực hơn. Vậy mà ở Việt Nam, các sự kiện tương tự lại bị lái sang hướng khác để bôi nhọ, hạ thấp. Lý do vì sao lại có “tiêu chuẩn kép” như vậy chắc ai cũng có thể đoán ra.

Sau khi tung những luận điệu suy diễn về việc một số lãnh đạo rời ghế, các thế lực phản động lại tiếp tục đoán già đoán non về ai sẽ “lên”, ai sẽ “vào”, ai sẽ “tiến” dựa trên những lý do không hề liên quan tới năng lực, tư cách. Ví dụ như, người này sẽ “lên” vì có “vây cánh”, người kia sẽ không thể “vào” vì không có hậu thuẫn.

Cần nói rõ rằng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải cân nhắc kỹ mọi bước đi trong công tác cán bộ. Bãi nhiệm ai, đề cử ai không phải là việc làm cảm tính, xuôi theo chiều dư luận. Tất cả đều phải đúng quy trình, quy định công khai, minh bạch. Nhưng những thế lực phản động lại không nghĩ thế.

Năm 2022, khi Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã ký ban hành Quy định số 80-QĐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, một bài bình luận trên đài RFA lại tiếp tục soi mói, suy diễn một số điều trong quy định này. Ví dụ như nói quy định này gây ấn tượng là “nó nhằm hướng dẫn người ta chạy quyền, chạy chức cho đúng chỗ”. Đỉnh điểm suy diễn của bài viết là kết luận rằng quy định 80 “chỉ khuyến khích các ‘nhân sự’ chạy dẻo cả chân lẫn tay”, chứ đời kiếp nào giúp công khai, minh bạch và hiệu quả được cơ chế tuyển dụng người cho bộ máy nhà nước?”

Có thể thấy ngay rằng luận điệu suy diễn này hết sức phiến diện và mang tính “vơ đũa cả nắm”. Không phủ nhận vẫn còn tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, nhưng không thể vì những vụ việc mang tính thiểu số đó mà đánh đồng với toàn bộ hệ thống cán bộ, phủ nhận hoàn toàn thành quả công tác cán bộ của ta.

Trái với những suy diễn vô căn cứ, mục đích của công tác cán bộ không phải là xây dựng “vây cánh” hay bè phái, mà là để tạo ra một tập thể lãnh đạo có trách nhiệm, mang lại “lãi” cho nhân dân, đất nước, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi”.

Theo: Thùy Dương

CHI TIẾT ĐIỀU CHỈNH ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH 10 TỈNH, THÀNH PHỐ

Chiều 13/2, tại phiên họp 20 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có tờ trình về việc thành lập, nhập các đơn vị hành chính đô thị của 9 tỉnh là Bình Dương, Bắc Ninh, An Giang, Quảng Nam, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bến Tre, Bắc Kạn, Đắk Lắk (thành lập 1 thành phố và 3 thị xã thuộc tỉnh, 34 phường và 12 thị trấn, trong đó có 5 thị trấn là huyện lỵ) và điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính của 2 xã thuộc tỉnh Trà Vinh.

Thừa uỷ quyền của Thủ tướng trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, việc thành lập, nhập đơn vị hành chính đô thị và điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính nêu trên bảo đảm đủ 5 điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 128 Luật Tổ chức chính quyền địa phương và đạt đủ các tiêu chuẩn quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13.

Tán thành với tờ trình, song Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ chỉ đạo chú trọng các nội dung về việc bố trí, sắp xếp và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đáp ứng các yêu cầu quản lý của chính quyền đô thị; có phương án bố trí, sắp xếp trụ sở làm việc, tài sản của các cơ quan, tổ chức và việc chuyển đổi các loại giấy tờ hành chính cho người dân khi có nhu cầu.

Đối với tỉnh Bình Dương, phương án là thành lập thành phố Tân Uyên trên cơ sở nguyên trạng diện tích tự nhiên, quy mô dân số, 10 phường và 2 xã của thị xã Tân Uyên.

Tại tỉnh Bắc Ninh, thành lập thị xã Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở nguyên trạng huyện Thuận Thành. Trong đó thành lập 10 phường (Hồ, An Bình, Song Hồ, Gia Đông, Thanh Khương, Hà Mãn, Trạm Lộ, Trí Quả, Xuân Lâm, Ninh Xá) từ thị trấn Hồ và 9 xã của huyện Thuận Thành hiện nay.

Thị xã Quế Võ cũng được thành lập trên cơ sở nguyên trạng của huyện Quế Võ. Trong đó thành lập 11 phường (Phố Mới, Bằng An, Cách Bi, Phượng Mao, Phương Liễu, Đại Xuân, Việt Hùng, Bồng Lai, Phù Lương, Quế Tân, Nhân Hòa) từ thị trấn Phố Mới và 10 xã của huyện Quế Võ hiện nay.

Với tỉnh An Giang, thành lập thị xã Tịnh Biên trên cơ sở nguyên trạng huyện Tịnh Biên. Trong đó thành lập 7 phường (Tịnh Biên, Nhà Bàng, Chi Lăng, An Phú, Nhơn Hưng, Núi Voi, Thới Sơn) trên cơ sở 3 thị trấn (Tịnh Biên, Nhà Bàng, Chi Lăng) và 4 xã.

Ngoài ra, thị trấn Đa Phước được thành lập trên cơ sở nguyên trạng xã Đa Phước thuộc huyện An Phú; thị trấn Hội An được thành lập trên cơ sở nguyên trạng xã Hội An thuộc huyện Chợ Mới.

Đối với tỉnh Quảng Nam, thành lập 5 phường (Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Trung, Điện Thắng Nam, Điện Minh, Điện Phương) trên cơ sở nguyên trạng diện tích tự nhiên và quy mô dân số của 5 xã thuộc thị xã Điện Bàn.

Thành lập thị trấn Trung Phước trên cơ sở nguyên trạng xã Quế Trung thuộc huyện Nông Sơn.

Còn tại tỉnh Vĩnh Phúc, thành lập thị trấn Kim Long trên cơ sở nguyên trạng xã Kim Long thuộc huyện Tam Dương; thành lập thị trấn Tam Hồng trên cơ sở nguyên trạng xã Tam Hồng thuộc huyện Yên Lạc; thành lập phường Định Trung trên cơ sở nguyên trạng xã Định Trung thuộc thành phố Vĩnh Yên.

Với tỉnh Thái Nguyên, thành lập thị trấn Hóa Thượng trên cơ sở nguyên trạng xã Hóa Thượng thuộc huyện Đồng Hỷ. Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Quân Chu vào thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ.

Đối với tỉnh Bến Tre, thành lập thị trấn Tiên Thủy trên cơ sở nguyên trạng xã Tiên Thủy thuộc huyện Châu Thành; thành lập thị trấn Tiệm Tôm trên cơ sở nguyên trạng xã An Thủy thuộc huyện Ba Tri; thành lập thị trấn Phước Mỹ Trung trên cơ sở nguyên trạng xã Phước Mỹ Trung thuộc huyện Mỏ Cày Bắc.

Tại tỉnh Bắc Kạn, thành lập thị trấn Vân Tùng trên cơ sở nguyên trạng xã Vân Tùng thuộc huyện Ngân Sơn.

Đối với tỉnh Đắk Lắk, thành lập thị trấn Pơng Drang trên cơ sở nguyên trạng xã Pơng Drang thuộc huyện Krông Búk.

Còn với tỉnh Trà Vinh, điều chỉnh 3,13 km2 diện tích tự nhiên và 490 người của xã Long Khánh (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của ấp Phước Hội) về ấp Mé Láng thuộc xã Ngũ Lạc quản lý.

Tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, nước ta đã thực hiện rất tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm rất xuất sắc các chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới. Thế giới đánh giá cao Việt Nam trong lĩnh vực này và là một trong những điểm sáng trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, là cơ sở để chuyển sang phát triển bền vững.

Lưu ý phần lớn động lực tăng trưởng trên thế giới đến từ phát triển đô thị và kinh tế đô thị, Chủ tịch Quốc hội cho biết, bên cạnh xây dựng nông thôn mới thì chưa bao giờ chủ trương phát triển đô thị ở nước ta đặt ra mạnh mẽ như hiện nay.

Tuy vậy, ông Vương Đình Huệ cũng lưu ý vấn đề quy hoạch phát triển đô thị và bố trí nguồn lực thích đáng – điều trước đây thực hiện chưa tốt nên chất lượng đô thị đạt mức thấp. Do đó, cần có kế hoạch phấn đấu sớm đạt tiêu chí mà nghị quyết đặt ra, nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý đô thị.

Sau khi thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết, đồng ý thông qua 10 dự thảo nghị quyết về việc thành lập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của các tỉnh nêu trên./.

NGHĨ VỀ MÙA XUÂN VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Lịch sử ghi nhận, trước khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta bị áp bức dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy dấy lên mạnh mẽ và theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, con đường khác nhau nhưng đều không thành công, do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một học thuyết khoa học tiên tiến soi đường.

Mùa xuân, chúng ta cùng ôn lại sự kiện lịch sử: Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hội nghị hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là kết quả phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ đó, Đảng lãnh đạo đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, gian nan, thử thách để ghi dấu những mốc son chói lọi của đất nước, dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công cùng sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở ra kỷ nguyên mới – độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Mang sứ mệnh cao cả, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, thu non sông về một mối và tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Những luận điệu chống phá “cũ mèm”

Tuy vậy, trên một số diễn đàn, mạng xã hội, trên trang điện tử tiếng Việt của một số cơ quan báo chí, truyền thông thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam tiếp tục tung ra các bài viết, luận điệu sai trái, xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Họ cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm thiểu số tinh hoa, chứ không đại diện cho lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc”; “việc Đảng thừa nhận sự tha hóa, biến chất, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chứng tỏ Đảng không đủ tư cách để đại diện cho toàn dân để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”…

Có ý kiến còn bình luận “việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là siêu hình, trái quy luật và xu thế phát triển của thế giới”. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ rằng, nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi, vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào. Có ý kiến quy kết “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu”!

Thủ đoạn mà các thế lực này thường sử dụng là xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra sức tuyên truyền cho luận điệu “chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời”; “chủ nghĩa Mác – Lênin là lý thuyết suông về CNXH không tưởng, không có thực”…

Họ đồng nhất sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu, Liên Xô với bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin không còn phù hợp với thế kỷ XXI, không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay và cần loại bỏ khỏi đời sống tư tưởng chính trị xã hội. Họ cũng tầm thường hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, mục đích sâu xa là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vai trò là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Không dừng lại ở việc xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng, các thế lực thù địch, phản động còn ra sức lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội, nhất là tình trạng tham nhũng để gây nhiễu dư luận, xuyên tạc bản chất của chế độ; coi những tiêu cực đó có nguyên nhân là do sự lãnh đạo của Đảng. Nguy hiểm hơn, các đối tượng đưa ra luận điệu “tham nhũng là hệ quả tất yếu của chế độ độc đảng”; “việc phòng chống tham nhũng thực chất là đấu đá trong nội bộ Đảng”. Từ đó, các thế lực này lớn tiếng hô hào đòi thay đổi chế độ, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”!

Những ý kiến nêu trên, nếu không cố tình ngụy tạo thông tin, đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất thì cũng là cái nhìn phiến diện theo kiểu “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn cây mà không thấy rừng, lồng ghép những lời đơm đặt, xuyên tạc nhằm chống phá, hạ bệ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước.

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, với tư cách là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”, trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Lịch sử 93 năm qua đã chứng minh, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam. Khái niệm đảng cầm quyền với đảng lãnh đạo chính quyền của Ðảng Cộng sản Việt Nam là sự thống nhất biện chứng.

Bởi lẽ, sự tồn tại và phát triển của Ðảng là tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại, hoạt động của Nhà nước và Nhà nước là một phương thức hoạt động của Ðảng, là đối tượng lãnh đạo của Ðảng. Khi Ðảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng duy nhất cầm quyền thì “mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được sau 37 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng được thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội (KT-XH) lạc hậu, trình độ thấp, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh và độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Tính đến năm 2022, quy mô nền kinh tế ước đạt gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 4.000USD; quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Việt Nam là nơi hội tụ của hàng vạn nhà đầu tư đến từ 140 quốc gia, vùng lãnh thổ, với gần 35.000 dự án FDI đang hoạt động có tổng vốn đầu tư gần 430 tỷ USD. Không chỉ vậy, Việt Nam thuộc nhóm nước đạt mức cao chỉ số phát triển con người (HDI).

Năm 2020, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn quốc tế giảm còn 4,8% (so với 9,9% năm 2016). Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG-2015 và đang nỗ lực thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG-2030 của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới coi Việt Nam là một hình mẫu đáng tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội. Với những nỗ lực không mệt mỏi năm 2022, chúng ta đạt và vượt 13 chỉ tiêu, 1 chỉ tiêu xấp xỉ đạt trong 15 chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc và xã hội được xây dựng trên nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Điều lệ Đảng “cố tình” quy định hay xếp đặt. Đây là một yếu tố quan trọng, bảo đảm tính chính danh đầy đủ được quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Với những thành quả nêu trên, đầy đủ cơ sở khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và tiếp tục là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

Theo: Bình Nguyên – Bảo Ninh