Thứ Tư, 25 tháng 5, 2022

“TAM QUYỀN PHÂN LẬP” KHÔNG PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Lịch sử lập hiến Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013) nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên có những ý kiến đề nghị: “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước”. Trên thực tế, ở Việt Nam không theo mô hình nhà nước tư sản, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn luôn kiên định quan điểm về việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, tư duy cơ giới- nền tảng của thuyết tam quyền phân lập không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam.

Suốt chiều dài dựng nước và giữ nước, lịch sử đã chứng minh: Việt nam là dân tộc luôn đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Cách đây 726 năm (năm 1288) dân tộc ta dã đoàn kết một lòng “sát thát”, đánh tan quân Nguyên-Mông, chấm dứt thời kỳ đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Sau này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các lực lượng cách mạng, cả dân tộc đã dồn sức cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, một lần nữa chứng minh cho tinh thần đoàn kết một lòng làm nên sức mạnh của dân tộc ta. Khi đất nước tiến hành đổi mới, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại khối đại đoàn kết, kích động, chống đối, nhằm gây mất ổn định chính trị- xã hội, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta, nhưng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia.

Có thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở thành giá trị văn hóa, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, phương pháp tư duy cơ giới- nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt, không có mối liên hệ với nhau, “kiềm chế- đối trọng tuyệt đối” của thuyết tam quyền phân lập đã không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý của dân tộc ta, không được dân tộc ta chấp nhận.

Thứ hai, khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.

Kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp. Theo điều 84 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và điều 69 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, nhân dân chỉ giao cho Quốc hội 3 nhóm quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nghĩa vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Thực tiễn ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhât trước tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng ta đã chỉ ra. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dự dẫm, ỷ lai trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Do đó, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đôi, bổ sung năm 2011) và điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ hơn sự “phân công” và xác định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta.

Như vậy, mặc dù nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước nhưng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập”, bằng việc quy định rõ các cơ quan nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Thực tiễn đã cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mối có hiệu quả.  Ngoài ra, nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Và theo đó, đã quy định một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba cơ quan: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận các thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát nhà nước hiện nay.

Có thể nói, mục tiêu cuối cùng của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân. Đây là tính ưu việt tuyệt đối của Hiến pháp Việt Nam do thiết chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan quyền lực đem lại. Cả hệ thống chính trị Việt Nam: từ Đảng, Nhà nước cho đến Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội… với chức năng, quyền hạn, mối quan hệ chính trị, xã hội, pháp lý của minh đều nằm trong nội hàm của nhân dân, hướng tâm phục vụ nhân dân; thực hiện “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để phân tách, phân giã quyền lực của nhân dân như các thiết chế tam quyền phân lập. Trong bối cảnh một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, dựa trên nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, mục đích của việc giành chính quyền không phải là giành quyền thống trị riêng cho minh, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa người lao động, nhân dân lên địa vị làm chủ “xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”… thì quan điểm về “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập, hành pháp và tư pháp” càng được thực tiễn chức minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với nhân thức chủ đạo trong tổ chức quyền lực là phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nên chính phủ là cơ quan hành pháp vẫn thực hiện cả chức năng lập pháp và tư pháp như soạn thảo luật, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, xử lý vi phạm hành chính… Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (xét xử) vẫn được giao thực hiện quyền lập pháp (như trình các dự án luật, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật) và có cả quyền hành pháp (như việc bổ nhiệm thẩm phán…). Quốc hội- cơ quan lập pháp vẫn thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng hành pháp và tư pháp (thể hiện trong việc thực hiện một số quyết định thuộc thẩm quyền của hành pháp và tư pháp)… Sự phân công không rõ ràng, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ như trên đã dẫn đến việc phối hợp khó khăn, kém hiệu quả và khó kiểm soát lẫn nhau trong nội bộ các cơ quan, khó cho giám sát của nhân dân. Do vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã có những quy định cụ thể nhằm khắc phục tình trạng nêu trên.

Tóm lại, xuất phát từ nguồn gốc tư tưởng, những ưu điểm, hạn chế của học thuyết tam quyền phân lập, xu hướng thống nhất quyền lực ở các nước tư bản, từ thực tiễn thể chế chính trị Việt Nam và truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không lựa chọn thể chế “Tam quyền phân lập” trong tổ chức quyền lực nhà nước của mình là phù hợp. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được khẳng định, thể hiện nhất quán trong đường lối, quan điểm và thực tiễn xây dựng mô hình thể chế chính trị Việt Nam. Đây là một trong những quan điểm, đường lối thể hiện sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những hạt nhân hợp lý của thuyết Tam quyền phân lập. Trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng này đã và đang phát huy được vai trò của minh trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN LẬP”

Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung trong tay một cá nhân. Để chấm dứt chế độ này và đặt nền móng cho sự hình thành các thể chế tự do, dân chủ, một học thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết “Tam quyền phân lập”. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước không phải là một thể thống nhất, mà phân chia thành 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không chỉ để chuyên môn hoá các quyền mà quan trọng hơn là để giữa các quyền có sự giám sát, chế ước lẫn nhau, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan công quyền. Mỗi cơ quan được quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình, không có quyền trong lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác. Quyền lực ngăn chặn quyền lực chính là điểm cốt yếu trong chủ trương phân chia quyền lực. Cơ quan hành pháp không có quyền thông qua luật. Nhưng có quyền ngăn chặn lập pháp biểu quyết những đạo luật có hại cho quốc gia... Ngược lại cơ quan lập pháp có quyền kiểm soát cơ quan hành pháp và khi luật lệ ban hành không được áp dụng thì cơ quan lập pháp truy tố các cộng sự của nhà vua. Cơ chế kiềm chế và đối trọng mà học thuyết “Tam quyền phân lập” đưa ra nhằm mục đích giám sát và ngăn chặn lạm dụng quyền lực. Trong đó mỗi tổ chức sử dụng quyền lực nhà nước đều có sự độc lập cần thiết, đồng thời có quyền và phương tiện tương xứng để giám sát hoạt động của các cơ quan khác, tạo thế cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan. Đây chính là cơ sở lý luận để hình thành nguyên tắc kiềm chế đối trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước được xác định trong hiến pháp tư sản.

Có thể nói, ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết “Tam quyền phân lập” là tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước. Loại bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài. Với cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó- nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hoá trong quá trình thực thi quyền lực.

 Tuy nhiên thuyết “Tam quyền phận lập” còn tồn tại nhiều hạn chế. Với nguyên tắc “kiềm chế - đối trọng tuyệt đối”, thuyết tam quyền phân lập đã có phương pháp tư duy cơ giới - nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt, không có mối liên hệ với nhau. Mặt khác, bản thân học thuyết phân quyền chứa nhiều yếu tố bất hợp lý, do việc đề cao sự phân quyền một cách tuyệt đối nên chưa thấy rõ được những phương thức kiểm soát quyền lực ngoài nhà nước, mất đi vai trò giám sát thường xuyên của nhân dân. Nếu thiếu sự giám sát này, việc phân lập các quyền cũng không giải quyết được vấn đề khi mà trên thực tế, ba quyền đều thuộc về liên minh của các nhóm chính trị. Việc phân quyền tuyệt đối ở các nước tư bản dẫn đến nạn tranh giành quyền lực thường xuyên giữa các đảng chính trị, các nhóm xã hội khác nhau để nắm một quyền hay toàn bộ quyền lực nhà nước. Trong điều kiện thiếu đạo đức chính trị và hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện thì sự tranh giành quyền lực này sẽ gây ra mất ổn định chính trị - xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống nhân dân. Hiện nay, trên thế giới không có một khuôn mẫu cố định của học thuyết nhà nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước. Việc thiết kế cấu trúc của quyền lực nhà nước phải xem xét đến những yếu tố tác động như truyền thống chính trị, môi trường lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển… Chính vì vậy, không thể khẳng định được rằng: mô hình phân quyền tuyệt đối là ưu việt.

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2022

NHẬN DIỆN SỰ CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

Để tuyên truyền những quan điểm sai trái, thù địch, các thể lực phản động, thù địch đã sử dụng rất nhiều thủ đoạn, phương thức, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc và nguy hiểm hơn, có tác động đến mọi tầng lớp xã hội. Nội dung, bản chất của các quan điểm sai trái, thù địch là tấn công, đả kích trực diện nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về hình thức tuyên truyền chống phá, các thế lực thù địch, phản động sử dụng các phương tiện truyền thông, Internet, blog, mạng xã hội, sự dụng hàng chục đài phát thanh chương trình Việt ngữ, hàng trăm báo, tạp chí, nhà xuất bản tiếng Việt, hàng ngàn Website, blog,… để phát tán những thông tin xấu độc, xuyên tạc, chống phá gây tác động xấu đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chúng lập ra nhiều trang web mạo danh các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, một số nhân vật được xã hội chú ý hoặc nhân danh “đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”, “bảo vệ môi trường”, “bảo vệ chủ quyền biển, đảo”, “phản biện xã hội”, “hiến kế cho Đảng”,… để bình luận, xuyên tạc, hạ thấp uy tín, làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước. Các thế lực thù địch, phản động đưa lên mạng xã hội và Internet những mặt trái của xã hội, khai thác những thông tin tiêu cực, không chính thống, sai trái để hướng lái, dẫn dắt dư luận theo chiều hướng tiêu cực, làm cho người đọc mơ hồ, mất cảnh giác nhằm mục đích tạo nên sự hoài nghi, phản kháng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó, chuyển dần sang tư tưởng sai trái, thù địch, phản động. Chúng xuất bản các ấn phẩm có nội dụng xấu độc; biên soạn nhiều tài liệu, video lồng ghép nội dung xuyên tạc, bóp méo sự thật. Các thế lực thù địch tổ chức viết nhiều tài liệu, “tác phẩm” dưới dạng văn học nhằm vu cáo, bôi nhọ, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, từ đó nhằm xóa bỏ học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nội dụng thông tin tuyên truyền xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng,… trong đó tập trung tấn công vào một số nội dung cốt lõi thuộc hệ tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam: Các thế lực thù địch đòi hỏi Đảng ta từ bỏ chú nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Chúng bài xích, bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tấn công vào những vấn đề nguyên tắc, then chốt, những luận điểm cơ bản nhất, như phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta. Chúng xuyên tạc nhằm “hạ bệ” tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận nội dung, giá trị tư tưởng của Người; đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để gián tiếp phủ nhận tư tưởng của Người, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuyên tạc, phủ nhận quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Các thế lực thù địch đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị... Do vậy, các chủ thể phải tăng cường cảnh giác, truyên truyền cho nhân dân nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực, thù địch hiện nay.

NỘI DUNG CHÍNH CỦA HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 5, KHÓA XIII

Từ ngày 04/5/2022 đến ngày 10/5/2022, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp Hội nghị lần thứ 5 để thảo luận, cho ý kiến và quyết định về các nội dung: (1) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. (2) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. (3) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. (4) Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. (5) Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (6) Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 và một số vấn đề quan trọng khác. Sau 6 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 5 (khoá XIII) hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tập trung vào hai vấn đề lớn là: Phát triển kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng là then chốt.

Sau khi xem xét, thảo luận các tờ trình, đề án và báo cáo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết nghị thông qua nội dung các văn kiện: Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất; tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao"; Nghị quyết về "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"; Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới".  Nghị quyết về "Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới".

QUYẾT LIỆT HƠN NỮA TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG SUY THOÁI CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4, KHÓA XIII

Sau Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Với 17 lần sử dụng từ khóa “tăng cường”, Kết luận số 21-KL/TW đã nhấn mạnh, làm rõ hơn các vấn đề, nhận định, đánh giá, giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, đồng thời, cụ thể hóa một số yêu cầu mới đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Kiên quyết đấu tranh, kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên, là tinh thần chủ đạo.

Từ 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được nêu trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Kết luận số 21-KL/TW, tiếp tục xác định 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã đề ra cần phải thực hiện; đồng thời, bổ sung 02 nhóm giải pháp liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trịCụ thể:

Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tínngang tầm nhiệm vụ

Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; quán triệt sâu sắc vai trò của công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta. Kết luận số 21-KL/TW đã khẳng định: “Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn ý thức đầy đủ về trách nhiệm, “đúng vai, thuộc bài”, thật sự chuyên nghiệp, làm tốt nhiệm vụ được giao, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm”. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục rèn luyện, tu dưỡng và đấu tranh phòng, chống suy thoái trong nội bộ. 

Hai là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm

Điểm mới của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII là cùng với việc tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Đảng còn nhấn mạnh đến việc “xử lý nghiêm những cán bộ sai phạm”. Việc chuyển trạng thái từ “phòng ngự” sang “tấn công” với quyết tâm rất cao theo đúng phương châm “không có vùng cấm”, “không có ưu tiên” trong xử lý sai phạm đã phản ánh bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, Trung ương Đảng đã nhất trí ban hành Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; coi đây là căn cứ, cơ sở quan trọng để xem xét, xử lý các vi phạm của cán bộ, đảng viên và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, sai phạm mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, hết tuổi công tác. Đối với công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ, phải phù hợp với chức danh quy hoạch; bảo đảm cân đối, hài hòa giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ, khắc phục tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Những yêu cầu này khẳng định Đảng đã mạnh tay hơn trong xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Trong công tác phòng, chống tham nhũng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu chủ động phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh và kiên quyết thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng kinh tế. Tăng cường phối hợp đồng bộ, tạo sự chuyển biến rõ nét trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trước hết là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Chú trọng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực và tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan phòng, chống, tham nhũng, tiêu cực.

XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hơn 92 năm qua, Đảng đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệlý luận tiên phong, đưa đất nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khácTổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, với nhiều khó khăn, thách thức mới, phải phát huy hơn nữa truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng, chăm lo xây dựng Đảng thật sự vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động; trong sạch về đạo đức, lối sống; chặt chẽ về tổ chức; gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, “tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện” để lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu phát triển “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Sinh thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rất chú ý đến công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. V.I.Lênin cho rằng, “giai cấp vô sản không rèn luyện cho mình một tinh thần giác ngộ cao, một tính kỷ luật cao, một lòng trung thành cao độ, tức là tất cả những đức tính cần thiết để đảm bảo cho giai cấp vô sản chiến thắng hoàn toàn kẻ thù truyền kiếp của mình, thì không thể nói đến chuyên chính vô sản được”. Công tác cán bộ của Đảng không thể tách rời 02 nhiệm vụ quan trọng - “xây và chống”. Xây dựng Đảng phải luôn đi đôi với chấn chỉnh, củng cố Đảng. Cần “đấu tranh bằng mọi cách, chống chủ nghĩa quan liêu, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi đảng những kẻ lén lút chui vào đảng”.

Kế thừa tinh thần mác-xít, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất chú trọng đến công tác xây dựng cán bộ của Đảng có đủ phẩm chất, trí tuệ, bản lĩnh; đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện “óc hẹp hòi”, bệnh tham lam, bệnh háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, bệnh kiêu ngạo… đặc biệt là chủ nghĩa cá nhânHồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”(. Bởi vì, Đảng có mạnh thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong quá trình lãnh đạo và phát triển, Đảng coi công tác cán bộ “là khâu then chốt của then chốt” trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống sư suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nội dung quan trọng, cơ bản và không thể thiếu của công tác xây dựng Đảng về cán bộ. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhận định: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc”. Do đó, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nghị quyết đã chỉ rõ 27 biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, xác định nhiệm vụ trọng tâmxuyên suốt và cấp bách của Đảng là kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phíCông tác cán bộ phải thực sự  “then chốt của then chốt...”. Đó là những cơ sở lý luận, quan điểm chỉ đạo trong công tác đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên hiện nay.

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 3 thập niên qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng ta trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế cầm quyền và năng lực lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.

Phương hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.

TUYỆT ĐỐI TRUNG THÀNH VỚI LỢI ÍCH DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP

Tuyệt đối trung thành với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của Internet, các mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường; các thế lực thù địch, phản động có những chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

DỰA VÀO DÂN ĐỂ PHÒNG CHỐNG, NGĂN CHẶN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG ĐẢNG

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân, thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phòng, chống, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống trong Đảng là vấn đề có tính nguyên lý cần được quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc trong toàn Đảng và hệ thống chính trị.

Chú trọng việc thể chế hoá và thực hiện nghiêm trách nhiệm của Đảng, tổ chức đảng, đảng viên được quy định trong Hiến pháp 2013 và được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Sớm thể chế hoá nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”

Xây dựng cơ chế dựa vào dân để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh: Cơ chế để nhân dân tiến cử những người có đủ đức, tài vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Có hình thức thích hợp, lấy ý kiến góp ý của nhân dân trước khi bổ nhệm cán bộ.Phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các cấp. Tiếp tục thực hiện tốt hơn công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý thông tin và các khiếu nại, tố cáo của cán bộ đảng viên và nhân dân liên quan đến công tác cán bộ; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chống cửa quyền, hách dịch, thiếu trách nhiệm với nhân dân.

Thực hiện có hiệu quả hơn Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng chế độ công tác, quy trình ban hành quyết định của Đảng, Nhà nước, trong đó quy định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Mặt trận Tổ quốc các cấp có nhiệm vụ chủ trì phản biện công khai đối với các quyết sách liên quan đến lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân. Phải có cơ chế tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia ngay từ đầu quá trình xây dựng chính sách, giám sát quá trình thực hiện chính sách, xây dựng và giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ được giao trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách cho nhân dân. Tăng cường giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong công tác và cuộc sống.

Tiếp tục đổi mới và thực hiện nghiêm quy định người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp tiếp dân, đối thoại, tự phê bình và phê bình, kiểm điểm thực hiện chức trách trước nhân dân. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ, tôn vinh người phát hiện, tố giác và tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

TẬP TRUNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁC CẤP ĐỦ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC, UY TÍN NGANG TẦM VỚI NHIỆM VỤ

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới trong công tác nhận xét, đánh giá cán bộ bằng “sản phẩm”, coi kết quả đánh giá cán bộ là tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện quy hoạch, điều động, bổ nhiệm cán bộ. Đề bạt, sử dụng người có đức, có tài, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm; kiên quyết không bổ nhiệm và kịp thời điều chuyển, thay thế những cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là người đứng đầu.

Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi cán bộ phù hợp thực tiễn phát triển của đất nước. Thực hiện hiệu quả chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, sử dụng chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, chú ý quan tâm bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện mô hình một số chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã không phải là người địa phương.

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu sửa đổi quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng chính phủ, chính quyền điện tử gắn với hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công của các bộ ngành, địa phương một cách có hệ thống và đồng bộ, kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia. Giảm tối đa thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính. Tăng cường phân cấp, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị để phục vụ nhân dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT CHI BỘ VÀ NHẬN DIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt tư tưởng, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong công tác, nhiệm vụ được giao. Trong công tác kiểm điểm, thực hiện theo trình tự cấp trên kiểm điểm trước để làm gương cho cấp dưới; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau. Sau kiểm điểm, kết quả kiểm điểm phải được thông báo đến những tập thể đã góp ý kiến trước khi kiểm điểm. Cấp dưới báo cáo kết quả kiểm điểm với cấp trên. Những nơi kiểm điểm không đạt yêu cầu, cấp uỷ cấp trên chỉ đạo kiểm điểm lại.

Thực hiện tự phê bình và phê bình cần khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, dị hoà vi quý; “nói không đi đôi với làm”, “nói nhiều, làm ít”, làm hình thức, đối phó; một số cán bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận cán bộ đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp còn thiếu gương mẫu, chưa tự giác nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình được giao phụ trách.

Tăng cường công tác xây dựng, củng cố, đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm phải được tiến hành thường xuyên, liên tục đảm bảo theo tiêu chí và quy định của Điều lệ Đảng. Phải gắn trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu với kết quả triển khai thực hiện xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

VỀ NHIỆM VỤ ĐẤU TRANH SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Tếp tục quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên vềtính tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn chặt với việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp; cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Nâng cao tính thuyết phục trong giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân, luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi tiền tài, danh vọng để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, tiết kiệm, đặt lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết.

Khơi dậy ý thức tự giác trong nêu gương; tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực sự cầu thị trong tự phê bình, “tự soi, tự sửa”; thắng thắn, chân thành trong phê bình đồng chí, đồng nghiệp, cấp trên với tinh thần xây dựng, trên tinh thần đồng chí; tự giác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mỗi ngày; tự giám sát, kiểm tra, tự nhận trách nhiệm, khuyết điểm và hình thức kỷ luật để tích cực khắc phục, sửa chữa.

Chú trọng nghiên cứu hệ quan điểm lý luận sắc bén để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị.

Đổi mới phương pháp, quy định rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến pháp luật cho cán bộ, đảng viên; thông tin kịp thời, làm tốt công tác định hướng dư luận. Tập trung đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐẤU TRANH SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Một là, kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề cơ bản, cốt lõi trong xây dựng và phát triển đất nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện một cách quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và hệ thống chính trị.

Ba là, phải kết hợp tốt giữa “xây” và “chống”, trong đó "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và có ý nghĩa quyết định; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Chủ động, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, vai trò nêu gương của cán bộ, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính tri, Ban Bí thư, cấp uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ các cấp. Thực hành dân chủ và phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; kỷ cương, kỷ luật của Đảng; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Năm là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cần phải được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các công cụ và biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kiểm tra, giám sát, pháp luật và công nghệ.

NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN CỦA SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp, trước hết là do bản thân cán bộ, đảng viên đó không tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, giao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, có lối sống buông thả, thoái hoá, coi thường kỷ luật, kỷ cương. Chưa thật sự đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi hình thức, đơn điệu, thiếu tính chiến đấu. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao, chưa kiên trì, kiên quyết trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cao cấp thiếu tiên phong, gương mẫu, nêu gương trước cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng không theo kịp tình hình thực tế, nhiều vấn đề mới, khó chưa được nghiên cứu làm sáng tỏ. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người dám đấu tranh phê bình; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chưa xây dựng được cơ chế “dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.

NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN CỦA SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Từ mặt trái của kinh tế thị trường, trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn chưa được lý giải một cách có cơ sở khoa học, khách quan và chưa được xử lý kịp thời, hiệu quả. Hơn nữa các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đẩy mạnh thực hiện chiến lược công kích trên mặt trận tư tưởng, lợi dụng triệt để vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo” và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, tạo nên“ điểm nóng”, phức tạp; đồng thời, chúng còn ra sức cấu kết với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống của nhân dân ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt với nhiều thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa nhân dân với Đảng.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC TIỄN ĐẤU TRANH SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, NHỮNG BIỂU HIỆN “TỤ DIẾN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

Thứ nhất, việc nhận thức, nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, nhất là 9 biểu hiện sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cá nhân đảng viên vẫn còn lúng túng, chưa thật rõ, chưa sát thực tiễn, còn rập khuôn, thiếu tính khả thi, nhất là trong việc xác định, lựa chọn các vấn đề trọng tâm, nổi cộm để giải quyết trong từng trường hợp, đối tượng cụ thể. Công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức công vụ chưa được chú trọng trong các cơ sở, đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết, quyết liệt; việc giám sát, kiểm tra, nhận diện, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ còn hạn chế, nhất là việc đánh giá kết quả, xác định trách nhiệm cá nhân thực hiện cam kết, kế hoạch hành động của từng cá nhân đảng viên trong khắc phục khuyết điểm của hậu kiểm điểm còn thiếu cụ thể, kéo dài, chung chung, thiếu tính thuyết phục; vẫn còn tình trạng coi vấn đề diễn biến tư tưởng xẩy ra ở đâu đó, chứ không phải trong cơ quan, đơn vị mình, địa phương mình, đồng chí mình vẫn còn nhiều chưa có biện pháp khắc phục.

Thứ ba, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn rất hạn chế, nội dung sinh hoạt đảng nhiều nơi còn hình thức, chất lượng thấp; việc đưa nội dung học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị 05, Quy định nêu gương, Quy định về tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống vào sinh hoạt chi bộ hàng tháng có nhiều nơi vẫn còn hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; việc đấu tranh, phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn hạn chế.

          Thứ tư, một số cán bộ, đảng viên nhận thức và thực hành công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình với bản thân mình, đồng chí mình, đồng nghiệp thiếu sâu sắc, còn biểu hiện né tránh, nể nang, dĩ hoà vi quý, ngại va chạm, nhất là việc nêu gương của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị chưa nghiêm, thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm trong công việc của mình được giao, còn hiện tượng vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống phải kỷ luật; hiện tượng đảng viên bỏ sinh hoạt, xin ra khỏi đảng có dấu hiệu gia tăng(như đảng viên sau khi xuất ngũ về địa phương, đảng viên về hưu, đảng viên đi làm ăn xa gia đình, xa nơi cư trú…)

Thứ năm, vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị ở một số bộ, ngành, địa phương thiếu đồng bộ, bất cập, hiện tượng nhập vào rồi lại tách ra đang diễn ra, gây tâm lý xấu, bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc bố trí một số cán bộ chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành, địa phương còn lúng túng, khó khăn; vẫn còn tình trạng bổ nhiệm sai, có trường hợp vừa mới được bầu vào cấp uỷ các cấp, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp của nhiệm kỳ mới…, đã bị xử lý kỷ luật đều liên quan đến những biểu hiện của sự suy thoái, tham nhũng, tiêu cực.

NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ ĐẨY LÙI SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIẾN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

Thứ nhất, việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thời gian tới có phạm vi rộng hơn, toàn diện hơn, không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn mở rộng ra cả hệ thống chính trị. Phạm vi, đối tượng thực hiện không chỉ đối với cán bộ, đảng viên trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc mà cả những đoàn viên, hội viên trong các tổ chức chính trị - xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước trong tình hình mới

Thứ hai, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà còn cả lĩnh vực tổ chức và cán bộ. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ; coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc; vừa đào tạo, bồi dưỡng trong trường lớp vừa rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực khó khăn, gian khổ; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu, giữa tính phổ biến và tính đặc thù phù hợp với từng chức danh, nhiệm vụ của cán bộ được giao. Chú trọng việc tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong cuộc sống và công tác.

Thứ ba, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng. Coi trọng việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, chức vụ càng cao, càng phải nêu gương. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên cộng sản.

Thứ tư, mỗi cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên cần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức đầy đủ, sâu sắc bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - dân chủ thực chất, dân chủ được thể hiện trong thực tế để xây dựng môi trường dân chủ trong Đảng và trong xã hội, thực hành và phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương xã hội.

Thứ năm, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động phòng, chống "diễn biến hòa bình", những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, những thông tin xấu, độc, xuyên tạc trên Internet, mạng xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo nên hiệu quả thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG THỎA THUẬN KHÍ HẬU GLASGOW

Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP26) khai mạc tại thành phố Glasgow (Scotland, Vương quốc Anh) ngày 1-11-2021. Giữa lúc đại dịch covid - 19 đang diễn biến nghiêm trọng, nhưng 130 nhà lãnh đạo thế giới và hàng nghìn học giả, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội từ nhiều quốc gia đã đến dự Hội nghị. Trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Anh Boris Johnson, đại diện cho nước chủ nhà nhấn mạnh: “Nếu COP26 thất bại, nền văn minh nhân loại sẽ sụp đổ như đế chế La Mã”. Sau hai tuần diễn ra đàm phán căng thẳng tại Hội nghị, 197 nước đã thông qua Hiệp ước khí hậu Glasgow, với nội dung cơ bản:

- Để hạn chế tăng nhiệt độ trái đất thêm 1,5 độ C và tránh tác động xấu nhất của quá trình đó, thế giới cần cắt giảm mạnh khí thải, gồm mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2050.

- Năng lượng từ than mà khi đốt không có công nghệ giữ lại CO2, gọi là “unabated coal power” cần được giảm dần (phase down).

- Thừa nhận nhu cầu chuyển đổi có hỗ trợ - theo yêu cầu của các nước đang phát triển, vì họ cần năng lượng để phát triển kinh tế.

- Sang năm 2022, các nước phải “xem lại, làm mạnh hơn” mục tiêu cắt CO2 vào năm 2030.

- Các quốc gia phát triển phải tăng ít nhất là gấp đôi quỹ trợ giúp các nước đang phát triển để họ ứng phó với biến đổi khí hậu, từ mức độ cam kết của năm 2019, tới năm 2025

SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÁC ĐỊNH CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Việc đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam vào phạm trù cách mạng vô sản là sáng tạo lớn đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng ta. Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích đúng tính chất xã hội Việt Nam, đề ra đường lối chính trị đúng đắn: trước hết làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản. Điều đó toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu phải đi tới cách mạng XHCN, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với CNXH đã quyết định lực lượng lãnh đạo, lực lượng tham gia và phương pháp của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam.

Thứ hai, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ là sáng tạo thứ hai của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc; nhờ đó, đoàn kết tất cả mọi lực lượng toàn dân tộc chống đế quốc và giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thứ ba, chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải rải từng bước để phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, khi chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức, Đảng ta đã tập hợp lực lượng đông đảo của cả dân tộc: công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị, tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ vừa, nhỏ và cả tầng lớp trên trong bộ máy chính quyền phong kiến, tạo nên sức mạnh vĩ đại.

Thứ năm, sáng tạo vĩ đại trong nhận thức về con đường phát triển của cách mạng trong xu thế mới của thời đại, sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra cho mỗi thời kỳ. Nhờ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám, lật nhào ách đô hộ gần 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật nhào chế độ phong kiến thống trị hàng nghìn năm, lập nên chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam châu Á, mở đường cho dân tộc Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đại hội VI (năm 1986) nêu tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực cản đối với công cuộc xây dựng CNXH. Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta xác định phương hướng cơ bản là xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân; thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh; thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.

Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định phương hướng cơ bản là: Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đại hội VI của Đảng năm 1986 xác định nội dung với nhiệm vụ của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta xác định nội dung cơ bản là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Đến Đại hội XI của Đảng năm 2011, Đảng ta nêu nội dung xây dựng CNXH gọn và rõ hơn: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ MỤC TIÊU XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Về mục tiêu, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dù cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung Đảng ta đều xác định rõ được mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Cụ thể là: Đại hội VI xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định: Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Đại hội XI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

TÍNH HỢP HIẾN, HỢP PHÁP, HỢP LÒNG DÂN CỦA ĐẢNG TA

Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là sự kế thừa các bản Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1980, năm 1992 đồng thời thể hiện ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp. Hơn nữa, chính nhân dân Việt Nam đã tin tưởng lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất sự nghiệp cách mạng trong suốt thời gian qua. 

Hơn nữa, mối quan hệ của Đảng với Nhân dân là mối quan hệ máu thịt bởi Đảng vì Nhân dân là phấn đấu, tôi luyện, trưởng thành, lấy hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu phấn đấu; ngược lại, Nhân dân cũng luôn vững tin theo Đảng, cùng chung tay giúp sức xây dựng và chỉnh đốn Đảng, sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân chính là nguồn gốc sức mạnh và nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, “luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội của các thế lực thù địch là hoàn toàn trái với nguyện vọng, sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân Việt Nam. Mọi công dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ địch phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội của chúng ta”.

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Từ khi thành lập đến nay, suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thủ thách để đạt được những thành quả cách mạng to lớn. Đó là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược và đặc biệt nhất là những thành công to lớn của 35 đổi mới đất nước. Thực tế phát triển đất nước qua hơn 35 năm đổi mới đã cho thấy, Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; mọi mặt đời sống của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đây là một sự thật lịch sử đã được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam tôn vinh chứ không phải giống như những luận điệu vu cáo của các thế lực thù địch: “Đảng tự vinh danh, tự đeo vòng nguyệt quế vào cổ cho mình quyền cầm đầu nhân dân”. Những thành tựu rất quan trọng của đất nước trong thời gian qua là cơ sở khách quan để khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó cũng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã khẳng định trong Diễn văn Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2022): Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

THÀNH PHẦN XUẤT THÂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM NGÀY CÀNG ĐA DẠNG

Thành phần xuất thân của giai cấp công nhân nước ta ngày càng đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn là từ nông dân. So với thời kỳ trước đổi mới, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân ngày càng đa dạng hơn, không thuần nhất như trước đây. Tuy nhiên, với đặc điểm của một nước nông nghiệp, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân phần lớn vẫn từ nông dân, trình độ và chuyên môn nghề nghiệp còn hạn chế và còn chịu sự chi phối bởi tác phong, lề lối làm việc của người nông dân tiểu nông, chưa thích nghi với tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp hiện đại. Đa phần chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống nên trình độ và chuyên môn, nghề nghiệp hạn chế, năng suất lao động và thu nhập thấp, khoảng cách giàu nghèo và sự phân tầng xã hội trong giai cấp công nhân gia tăng. Một bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế trong giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị và hiểu biết về chính sách, pháp luật, gây khó khăn nhất định cho việc phát triển đảng viên là công nhân.

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG

Giai cấp công nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp từng bước được nâng lên. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế không thể không tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động của ngành công nghiệp. Điều này, đòi hỏi phải khắc phục triệt để những hạn chế về tác phong và kỷ luật lao động của thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính, tập trung bao cấp và phải nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của công nhân. Nếu không, doanh nghiệp và công nhân không thể tồn tại và phát triển. Đây là đòi hỏi rất cao, yêu cầu rất lớn và nghiêm ngặt đối với doanh nghiệp và công nhân, cũng là động lực thúc đẩy trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của công nhân từng bước được nâng lên. Cùng với đó là việc rèn luyện, nâng cao tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại và hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức.

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TĂNG NHANH VỀ SỐ LƯỢNG

Giai cấp công nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và ngành nghề. Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta có số lượng không lớn và khá thuần nhất về cơ cấu thành phần và ngành nghề, công nhân làm việc chủ yếu trong thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát triển nhanh. Điều đó đã tạo sự chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội, làm cho lực lượng công nhân - lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu. Trong đó, số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, hiện nay, tổng số công nhân nước ta chiếm khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước, đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số lao động giản đơn trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Số lượng công nhân tăng nhanh chủ yếu ở các loại hình doanh nghiệp tại những khu công nghiệp trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai...