Thứ Năm, 13 tháng 10, 2022

TUỔI TRẺ KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ KHÔNG ĐỂ BỊ KẺ XẤU LỢI DỤNG, LÔI KÉO

Trong âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, bất mãn, cơ hội chính trị luôn tập trung vào thế hệ trẻ. Chúng lợi dụng những đặc tính của tuổi trẻ, những hạn chế, khuyết điểm của đất nước, của thanh niên để bôi nhọ, vu cáo, cho rằng Đảng và Nhà nước không quan tâm đến thanh niên, lôi kéo tuổi trẻ vào tình trạng “nhạt Đảng”, “khô Đoàn”, “xa rời chính trị”, thậm chí đi vào con đường hư hỏng, vi phạm pháp luật, đi ngược lại lý tưởng, mục tiêu cách mạng của Đảng và đất nước. Mới đây, trên N10Tv, phản động Việt Tân Trương Quốc Huy đã vu khống, kích động rằng: Ở Việt Nam, người trẻ có tài không bao giờ được Đảng và Nhà nước trọng dụng, vì vậy “Làm công dân tốt để làm gì ?”. Từ đó y kích động, kêu gọi thanh niên Việt Nam chớ có tin theo Đảng, đi theo Đảng mà phải đứng lên chống lại, thay đổi chế độ Đảng trị ở Việt Nam.

Những âm mưu, thủ đoạn thâm độc xấu xa trên thường xuyên được các thế lực chống đối đưa lên mạng xã hội, trong bối cảnh thanh niên ngày càng quan tâm sử dụng mạng xã hội. Khảo sát mới đây cho thấy: trong tổng số gần 70 triệu người Việt Nam đang dùng internet thì có 94% người dùng internet hàng ngày là sinh viên, trí thức trẻ, thanh niên

Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại trên một cách kiên trì, quyết liệt. Cùng với việc quyết liệt trực tiếp đấu tranh phòng, chống, nói không với các hành vi chống phá cụ thể trên mạng xã hội, cần tiến hành đồng thời các giải pháp tổng hợp toàn diện, khả thi, hiệu quả.

Trước hết, cần thấy rõ và khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm chăm lo bồi dưỡng, phát triển thế hệ trẻ. Bác Hồ dạy thanh niên cần phải làm những gì, phải tránh những gì. Theo Người: “Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng. Cần phải trung thành, thật thà, chính trực”. Đồng thời, Người cũng chỉ ra thanh niên cần chống: “… phải chống tâm lý tư lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu thanh niên: “Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc và nhân dân”.

Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lãnh đạo trực tiếp và toàn diện công tác thanh niên. Đảng chủ động đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị quan tâm, chăm sóc, rèn luyện thế hệ trẻ nước nhà. Đồng thời, với tinh thần “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên”, Đảng đã huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân cùng thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Ví dụ như Luật Thanh niên ra đời chính là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề thanh niên và công tác thanh niên ở nước ta. Luật Thanh niên có quy định tháng 3 hằng năm là Tháng Thanh niên, trong đó ghi rõ tại Điều 9: Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện về cơ chế chính sách, nguồn lực để hỗ trợ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp tổ chức hoạt động Tháng Thanh niên. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ cho thanh niên tham gia hoạt động Tháng Thanh niên”. Đảng và cả hệ thống chính trị đã có nhiều cách làm hay, phù hợp để huy động được sự tham gia tích cực của tuổi trẻ cả nước, qua đó rèn luyện phấn đấu trưởng thành, nhiều đoàn viên ưu tú đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ tính kết quả của Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X ( nhiệm kỳ 2012 – 2017) cả nước đã có hơn 5 triệu đoàn viên được kết nạp, có 1.102.789 đoàn viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp, 654.714 đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm trong đoàn viên thanh niên và công tác đoàn, trong đó có nội dung đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thẳng thắn chỉ rõ khi phát biểu tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2017 – 2022): “do chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm sống, thanh niên cũng là đối tượng thường bị các thế lực xấu, thù địch tiếp cận, lôi kéo, kích động, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta”. Từ đó, Tổng Bí thư chỉ đạo: “Đoàn cần định hướng, giáo dục thanh niên giữ vững bản lĩnh cách mạng, có ý thức nhạy bén chính trị, tích cực đấu tranh ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, tăng sức đề kháng cho thanh niên trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là trên mạng xã hội; tránh tình trạng “nhạt Đảng”, “khô Đoàn”, “xa rời chính trị”.

Để thực hiện thắng lợi quyết tâm trên, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của Đảng, hệ thống chính trị và toàn dân. Trong đó, đặc biệt là chính thế hệ trẻ phải tự mình rèn luyện, phấn đấu. Trước hết, tự thân các bạn trẻ phải chủ động xây đắp, rèn luyện đạo đức, lý tưởng, lối sống, trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ… Thanh niên cần thấy rõ vinh dự, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Đảng, đất nước, nhân dân và thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình bằng những việc làm thiết thực. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là thanh niên phải phấn đấu thực hiện tốt Điều 4 trong Luật Thanh niên năm 2020 quy định rõ về Vai trò, quyền và nghĩa vụ của thanh niên, cụ thể như sau: “1. Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Thanh niên có quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Luật Thanh niên cũng quy định: “Quyền, nghĩa vụ của thanh niên được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Về trách nhiệm của thanh niên với Tổ quốc, Luật Thanh niên quy định rõ tại Điều 12: “1. Phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đảm nhận công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc yêu cầu. 3. Đấu tranh với các âm mưu, hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”.

Với sức mạnh của tuổi trẻ dưới sự lãnh đạo của Đảng và đồng hành của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn quân, chúng ta kỳ vọng và tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm với đất nước, với xã hội, xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo điều kiện cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

VIỆT NAM TRÚNG CỬ HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC

Với 145 phiếu ủng hộ, Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc trong phiên bỏ phiếu cuối ngày 11-10 (giờ Việt Nam).

Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (LHQ). Năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014 - 2016.

14 thành viên mới đắc cử của Hội đồng Nhân quyền sẽ đảm nhiệm trọng trách trong nhiệm kỳ ba năm, bắt đầu vào tháng 1-2023.

Tại khóa họp thường kỳ lần thứ 51 của Hội đồng Nhân quyền diễn ra từ ngày 12-9 đến 7-10 vừa qua, Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai - trưởng đoàn đại biểu Việt Nam dự khóa họp, đã nhấn mạnh các ưu tiên và cam kết của Việt Nam khi ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023 - 2025.

Đại sứ tái khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước là lấy con người làm trung tâm của phát triển, bảo đảm người dân được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển.

Đại sứ cũng nêu bật các nỗ lực, cam kết và thành tựu cũng như khả năng đóng góp của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên thế giới.

Việt Nam luôn thúc đẩy đối thoại, hợp tác tại hội đồng trên tinh thần khách quan và xây dựng, gắn liền với các trọng tâm của LHQ và quan tâm chung của cộng đồng quốc tế như phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ và thúc đẩy quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.

Theo Bộ Ngoại giao, trả lời phỏng vấn báo chí ngay sau khi công bố kết quả, Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Hiệu khẳng định kết quả này không chỉ cho thấy sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam mà còn là thành quả từ sự chỉ đạo sát sao và tham gia trực tiếp của lãnh đạo cấp cao, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Chia sẻ ý kiến này, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn Việt Nam tại LHQ, cho biết lần ứng cử này Việt Nam đối mặt với mức độ cạnh tranh cao, nhất là trong nhóm châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, với sự đồng hành của các bộ, ngành, đội ngũ cán bộ ngoại giao cả trong và ngoài nước, với sự vận động bài bản, chủ động, sáng tạo, đồng bộ và hiệu quả thời gian qua, Việt Nam đã trúng cử lần thứ hai Hội đồng Nhân quyền LHQ.

Hội đồng Nhân quyền LHQ trực thuộc Đại hội đồng LHQ, được thành lập năm 2006, là cơ chế quan trọng nhất về quyền con người trong hệ thống LHQ.

Hội đồng có một hệ thống các cơ quan, cơ chế trực thuộc đặc biệt, được quan tâm và tham gia rộng rãi, đầy đủ nhất là Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR).

Hội đồng Nhân quyền LHQ gồm 47 thành viên có nhiệm kỳ ba năm, được xem là diễn đàn đối thoại, hợp tác và thúc đẩy cân bằng tất cả các quyền con người, kể cả quyền phát triển. Hội đồng hoạt động trên cơ sở khách quan, hợp tác và đối thoại, trên tinh thần xây dựng, không thiên vị, chọn lọc, chính trị hóa và tiêu chuẩn kép.

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ DÂN CHỦ CỦA VIỆT NAM

Trong thời gian qua, trước những khó khăn về kinh tế-xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19 chưa được giải quyết và những diễn biến phức tạp trong khu vực… lợi dụng tình hình này, những kẻ cơ hội chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã xuyên tạc tình hình, hòng bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội Việt Nam. Họ viết và tán phát trên mạng rằng: "Đàn áp về nhân quyền ở Việt Nam ngày càng gia tăng"; "các quyền của người dân, trong đó có dân chủ, quyền lập hội, biểu tình… không được thực hiện, trái lại ngày càng bị bóp nghẹt...". Vậy dân chủ đã và đang được bảo đảm ở Việt Nam như thế nào?

Đặc trưng nền dân chủ của Việt Nam là tất cả mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; chế độ dân chủ của Việt Nam dựa trên hệ thống chính trị các cấp-đó là chế độ sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; là tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc và của các đoàn thể xã hội luôn luôn được tôn trọng. Ở đây tiếng nói, nguyện vọng của người dân được bảo đảm thông qua các đại diện của mình.

Một trong những đặc trưng của nền dân chủ ở Việt Nam là chế độ dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". (Điều 4, Hiến pháp 2013).

Ngay từ khi cách mạng thành công (tháng 8-1945) cho đến thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến dân chủ ở cấp cơ sở. Theo đó. Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ đạo ban hành Chỉ thị số 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở gồm: Bảo đảm để mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước…; có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị; có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn; cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp và thông qua, gồm: Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan,…

Sau Chỉ thị 30, Chính phủ đã luật hóa bằng nghị định của Chính phủ. Dựa trên chỉ thị và nghị định về dân chủ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở, bao gồm cả quyền dân chủ của cán bộ, công chức, của cán bộ, nhân viên ở các doanh nghiệp… Cho đến nay, chế độ dân chủ ở Việt Nam đã và đang được thực hiện nghiêm túc ở các cấp, từ cơ sở xã phường, cơ quan, cho đến Quốc hội. Tất cả những vấn đề từ đời sống thường nhật cho đến vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đều được người dân quan tâm và có quyền tham gia.

Những ý kiến xuyên tạc, phủ nhận thành tựu về dân chủ có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nhận thức không đầy đủ về dân chủ. Ở nhiều quốc gia phương Tây, dân chủ thường gắn với các hoạt động chống chính phủ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)… Đó là các cuộc tụ tập đông người, phá hủy các công trình công cộng, xúc phạm cá nhân, quan chức từ cấp thấp cho đến tổng thống. Quyền tự do báo chí cũng có nội dung tương tự… Trách nhiệm của người đưa tin, của cơ quan quản lý báo chí thường rất nhẹ. Vì vậy dùng tiêu chí dân chủ, nhân quyền của phương Tây để xem xét, đánh giá chế độ dân chủ của Việt Nam là một sai lầm về chính trị và thiếu sót về phương pháp luận. Do đó, cần nhận thức đúng, về mặt nguyên tắc, nền dân chủ của Việt Nam là một nền dân chủ có kỷ cương, có tổ chức, có hệ thống.

TÍCH CỰC ĐẤU TRANH CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những di sản Người để lại không chỉ là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta mà còn luôn tiếp tục đồng hành, soi đường cho nhân dân Việt Nam vững bước trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình”, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội đã dùng danh nghĩa "phi chính phủ", “từ thiện” để lập một số quỹ hỗ trợ cho các tổ chức phản động chống phá, xuyên tạc về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên đăng tải các thông tin, bài viết, phỏng vấn để bôi đen sự thật, trắng trợn xuyên tạc, vu cáo tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thông qua các trang mạng xã hội, những kẻ tự xưng là yêu nước, dân chủ và cả những người “có tiếng nói phản biện" ở trong và ngoài nước đã không chỉ bịa đặt, bôi đen một số thông tin về đời tư, về ngày sinh, về những người thân trong gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh, về nguồn gốc của Người nhằm hạ bệ thần tượng mà còn xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh khi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam; Hồ Chí Minh là nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là người cộng sản; Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều, sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, đã bị xóa bỏ nên không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay…

Thâm độc hơn, là họ đã không từ một thủ đoạn nào để bôi xấu và tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, để khi thì đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, khi thì lại cho rằng Hồ Chí Minh không có tư tưởng vì đó là một nhà hoạt động thực tiễn.

Thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả lịch sử và lôgíc từ sự kết hợp tự nhiên truyền thống yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam và cả các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành với những nguyên lý của học thuyết cách mạng, khoa học và hiện đại này; không giáo điều mà chính là nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học, cách mạng của nó để bổ sung, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới bằng thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Hơn thế nữa, không phải tự nhiên Hồ Chí Minh lại nói chủ nghĩa Mác - Lênin không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường cho nhân dân các dân tộc bị áp bức, bóc lột tàn bạo dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; trong đó, có nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Bởi, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đăng trên báo L’Humanité, ngày 16 và 17/7/1920 và Người nhận thấy: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Bởi, chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận chủ yếu, quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong 3 nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh (chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây; chủ nghĩa Mác - Lênin) và là thành tố quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà còn là hòn đá tảng, là cơ sở để Người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng Việt Nam phù hợp với yêu cầu của dân tộc và xu thế của thời đại.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, cho nên, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, cũng không thể đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là càng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại.

Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với tiến trình cách mạng Việt Nam là không thể phủ nhận, bởi đó là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua: "Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính chặt chẽ, liên tục, nhất quán, bao quát và toàn diện đúng như Đại hội IX (4/2001) của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” . Điều này tiếp tục được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định: "Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh"

Trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch ngày càng tăng cường và đẩy mạnh hơn các chiến dịch, các thủ đoạn, các hình thức từ bên ngoài, câu kết và phối hợp với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở trong nước để chuyển tải, truyền bá các thông tin sai lệch, bịa đặt, vu khống, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, công khai tấn công vào những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, việc chủ động phòng và chống sự xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần phải tỉnh táo, cảnh giác cao trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Có thái độ kiên quyết đấu tranh tích cực để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM “ĐẢNG KHÔNG NÊN LÃNH ĐẠO KINH TẾ”

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Vậy mà gần đây lại xuất hiện quan điểm cho rằng “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”.

Từ lúc chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, lợi dụng việc góp ý văn kiện, một số người đã “phản biện” quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nên tập trung lãnh đạo chính trị, không nên lãnh đạo kinh tế”; “Đảng chỉ nên tự khuôn mình trong phạm vi “chính trị”, còn kinh tế là địa hạt của giới kinh doanh”...Hai năm gần đây, do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chững lại, một số người lại đổ lỗi cho “Đảng Cộng sản Việt Nam không biết lãnh đạo kinh tế”, họ lại tiếp tục “phản biện” trên các mạng xã hội, trả lời báo chí nước ngoài rằng: “Đảng không nên “lấn sân” của Quốc hội, Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế” và “khuyến nghị”: “Trong lĩnh vực kinh tế, đã có Quốc hội ban hành pháp luật và giám sát tối cao, đã có Chính phủ quản lý điều hành, không cần Đảng lãnh đạo”... Đó là những quan điểm sai lầm, lợi dụng phản biện để phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.Thực tiễn đã khẳng định kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, quy định và chế ước lẫn nhau. Trên thế giới hiện nay, không có đảng phái chính trị nào không gắn kết với kinh tế. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại.

Kinh tế quyết định chính trị, chính trị phản ánh kinh tế, nhưng chính trị không thụ động trước kinh tế, mà có vai trò tác động trở lại với kinh tế hoặc tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu là chính trị đúng đắn, sáng suốt; hoặc tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội, nếu là chính trị sai lầm.  Các đảng lớn của các nước tư bản phát triển đều đưa ra đường lối chính trị, dẫn dắt sự phát triển xã hội theo lý tưởng, mục tiêu đã lựa chọn. Trong đường lối chính trị đó đều có đường lối phát triển kinh tế. Thực tiễn tại Việt Nam trong thế kỷ qua cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Cũng có lúc Đảng ta có sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo kinh tế, nhưng trong suốt 92 năm qua, chưa bao giờ Đảng ta xem nhẹ, buông lỏng vấn đề lãnh đạo kinh tế.

Nhờ chú trọng lãnh đạo kinh tế, bảo đảm sự đúng đắn và nhất quán về quan điểm chính trị trong lãnh đạo kinh tế mà Đảng ta đã nhanh chóng sửa chữa được khuyết điểm, giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế quan trọng, nhất là hơn 35 năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Để “chứng minh” rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam không nên lãnh đạo kinh tế”, một số người xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, họ cho rằng “không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”; “KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn”... Có lẽ những người nói trên đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu bản chất của cơ chế thị trường và những khuyết tật của KTTT. Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh tranh, quy luật cung-cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù và quy luật của KTTT. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản (CNTB), được CNTB nắm lấy, sử dụng để phát triển thành KTTT tư bản chủ nghĩa. Trải qua thời gian, KTTT tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, KTTT tư bản chủ nghĩa là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, nảy sinh ra nhiều khuyết tật của cơ chế thị trường, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà nước.

Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước; trong đó, điều tiết của thị trường là cơ sở, nền tảng và điều tiết của nhà nước trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (công cụ quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).

Thực tế cho thấy, KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới không phải hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung, định hướng can thiệp của nhà nước.

Có mô hình KTTT tự do ở những nước mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thấp; nhà nước chỉ bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, tự do kinh doanh, bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, còn để phạm vi điều tiết của thị trường lớn, điều tiết mọi hoạt động kinh tế. Có mô hình KTTT xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo cơ hội như nhau cho mọi người tham gia phát triển và hưởng thành quả phát triển, chống lại độc quyền, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội (như ở Đức).

Có mô hình KTTT phúc lợi xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để điều tiết thu nhập, phát triển các dịch vụ xã hội công, bảo đảm phúc lợi cho người dân, đặc biệt là những người cần được trợ giúp là trẻ em, người già, người thất nghiệp... (như ở các nước Bắc Âu). Có mô hình KTTT nhà nước phát triển, nhà nước không chỉ tạo thể chế, môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động, mà còn có chiến lược, chính sách và sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (như ở Nhật Bản, Hàn Quốc)...

Phát triển KTTT định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hạn chế những khuyết tật của KTTT. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển đất nước. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là mô hình KTTT định hướng XHCN. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã được hiến định trong Hiến pháp, văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp cũng hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng không làm thay các cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng cách tạo ra bảo đảm chính trị cho hoạt động kinh tế, xác định phương hướng chính trị cho hoạt động kinh tế đúng đắn và lành mạnh . Chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân là định hướng mục tiêu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng chủ trương “phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm”. Lãnh đạo kinh tế của Đảng đã trở thành mắt xích chủ yếu, quan trọng, thiết thực và quyết định nhất trong toàn bộ đường lối lãnh đạo, trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã vượt qua bao gian nan, thử thách, được cả thế giới ngưỡng mộ, đặc biệt là trong thời kỳ phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Ngân hàng Standard Chartered mới đây đã đưa ra dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022, với tốc độ tăng trưởng 6,7%, tăng trưởng năm 2023 là 7% và Việt Nam tiếp tục có triển vọng tích cực trong trung hạn. Trong bản Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh khởi đầu năm 2022, nền kinh tế Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực. Fitch Ratings là một trong những tổ chức có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam với dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% trong năm nay và 6,5% vào năm 2023.

Báo chí quốc tế trong thời gian gần đây đã có nhiều bài đánh giá tích cực triển vọng kinh tế Việt Nam nhờ chính sách ứng phó linh hoạt với Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh tế đang ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ. Chuyên trang tư vấn đầu tư ở châu Á Vietnam Briefing của công ty Dezan Shira nhận định, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mới mà Việt Nam tham gia sẽ đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khi Việt Nam mở cửa biên giới, tăng tốc phục hồi. Các FTA không chỉ giúp phát triển kinh tế, mạng lưới sản xuất, mà còn góp phần nâng cao các tiêu chuẩn lao động. Tờ Reuters cũng có bài viết khẳng định: Nhờ các chính sách linh hoạt của Chính phủ Việt Nam, các hoạt động kinh doanh đã được khôi phục, đặc biệt là từ quý IV năm trước, nhờ đó, ngành dệt may Việt Nam đã hạn chế đáng kể sự gián đoạn chuỗi cung ứng, kỳ vọng tăng mạnh xuất khẩu trong năm nay.

Thực tiễn đã trả lời rõ ràng cho câu hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam có nên lãnh đạo kinh tế hay không. Thực tiễn cũng đã khẳng định những luận điệu tuyên truyền “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế" là xuyên tạc, kích động. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái này.

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch hiện nay là đa dạng, với tính chất rất nguy hiểm. Chúng đã kết hợp các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng với tổ chức lực lượng và trực diện đấu tranh chống chính quyền, đòi quốc tế hóa vấn đề dân tộc... đi đến mục tiêu cao hơn là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, chia Việt Nam thành nhiều “quốc gia” trong sự khống chế của chúng. Những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm làm cho cuộc sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, các thủ đoạn chống phá điên cuồng của chúng có đạt được hay không phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn sự chủ động tiến công của ta và quan trọng là phụ thuộc vào sự nhận thức đúng đắn các quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

Kế thừa truyền thống đoàn kết cùng nhau dựng nước và giữ nước, trung thành, kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta khẳng định vấn đề dân tộc và đại đoàn kết toàn dân là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn nhất quán thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên, bằng con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam hiện nay, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”

Đại hội lần thứ XIII của Đảng còn chỉ rõ “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung... Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”

Những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc hiện nay có thể khái quát trên những nội dung cơ bản sau đây:

Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh – quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miên núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thông các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.

Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.

Nhận thức đúng những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc ở trên, chính là nhiệm vụ thiết thực, hiệu quả trong tham gia phòng, chống lợi dụng dân tộc, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Chủ nghĩa cá nhân (CNCN) có nguồn gốc từ mỗi con người cụ thể. Với cán bộ, đảng viên cũng vậy. CNCN manh nha, hình thành, trỗi dậy từ chính lòng tham, sự vị kỷ, cùng với lối nghĩ cực đoan mang xu hướng “tự tôn”, tự sùng bái bản thân; thể hiện thông qua tâm trạng, thái độ, hành vi thường nhật, mà dấu hiệu dễ nhận biết là sự ham muốn quyền bính, lợi ích cá nhân (cá thể). Những người rơi vào CNCN thường quan niệm và tuân theo những “triết lý” tự đúc rút; thể hiện sự bảo thủ cao độ, không hạn chế mục đích và ham muốn bản thân. Họ “phản đối” và bất chấp sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn cá nhân, dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một cộng đồng, một tập thể hay một thể chế nào khác. Họ là nhất - hơn tất cả và chỉ lao động hoặc sáng tạo vì lợi ích của riêng họ mà bất chấp bỏ qua những mối liên hệ, mối quan hệ xung quanh trong đời sống xã hội. Những dấu hiệu này đã sớm được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút, chỉ rõ: CNCN là “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”; là việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết; chỉ biết “mọi người vì mình” mà không lo “mình vì mọi người”.

Chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn khác với sự cá tính. Dễ nhận thấy, cá tính là phẩm chất có nhiều mặt tích cực, trong khi CNCN là hoàn toàn tiêu cực. Cá tính là cái cần thiết, có thể gọi là “cái tôi” theo nghĩa nào đó để khẳng định “tôi là tôi”- điều đó tạo ra bản sắc và giá trị riêng của mỗi con người. Điều đó khác hoàn toàn với triết lý “tôi là nhất” của chủ nghĩa cá nhân.

Khác nhau là vậy, nhưng ranh giới giữa cá tính và CNCN rất mong manh. Nếu quá đề cao cá tính một cách thái quá, hoặc đến độ bảo thủ, cực đoan vì lợi ích của bản thân thì bấy giờ cá tính đã trở thành CNCN. Ví như cán bộ có sự quyết đoán là tốt (đó là cá tính đáng quý), nhưng nếu anh quyết đoán thái quá, bất chấp nguyên tắc, vi phạm dân chủ thì vô hình trung đã rơi vào độc đoán-đấy cũng là lúc cán bộ trượt chân ngã vào CNCN. Hay như khi cán bộ nêu cao tinh thần thực hành phê bình là tốt, nhưng nếu lạm dụng việc phê bình để bôi nhọ, hạ bệ đồng đội, anh em để tự suy tôn, ngợi ca mình... thì đó là biểu hiện của CNCN. Hay giản đơn hơn là việc phê bình không đúng nơi, đúng chỗ, biến nội dung phê bình thành “câu chuyện làm quà” thì khi ấy mầm mống ban đầu của CNCN cũng đã trỗi dậy...

Ngược lại, CNCN thường được “ngụy trang” trong dáng dấp của cá tính. Nhiều người vẫn nhầm tưởng, thậm chí là bày tỏ sự tôn trọng bởi một số cán bộ, đảng viên dám sống đúng với cá tính của mình; thế nhưng, nếu không biết phân tường đúng đắn thì phía sau cá tính đáng quý ấy của một ai đó rất có thể là một bức tranh đen đặc CNCN.

Điều đáng lo ngại hiện nay là không ít cán bộ, đảng viên có tâm lý tự ngợi ca mình, hài lòng với chính mình, không tự nhận ra những khuyết thiếu, tồn tại của bản thân để xác định mục tiêu, trách nhiệm, thái độ, động lực, động cơ và phương hướng để không ngừng rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, nhân phẩm làm người và hướng đến các giá trị đạo đức cách mạng của người đảng viên, người chiến sĩ cộng sản trung kiên.

NHỮNG THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA TRÊN INTERNET THỜI GIAN QUA

Mạng internet ra đời là một bước đột phá về công nghệ phục vụ con người. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ, internet trở thành công cụ không thể thiếu cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Việc truyền tải, chia sẻ thông tin trên internet về mặt khách quan nó đã hàm chứa tính tiện ích hơn gấp trăm lần các phương tiện truyền thông trước nó. Nó tác động đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Càng ngày phạm vi bao phủ của mạng internet càng lớn, dung lượng chứa đựng và tốc độ kết nối, lưu chuyển dữ liệu càng cao, và càng có nhiều dịch vụ, kết nối nhiều người trên toàn thế giới, bất kể địa lý, không gian và thời gian.

Vấn đề là ở chỗ, những âm mưu, thủ đoạn xảo trá, những điều vô nghĩa, phi lý được tung lên mạng toàn cầu lại có "khả năng" lung lạc không ít người truy cập. Không phải ai và lúc nào cũng đủ tỉnh táo và có thể phân biệt được thật - giả, đúng - sai, trong khối lượng thông tin khổng lồ và dày đặc được tung lên mạng toàn cầu.

Cho nên, internet trở thành phương tiện mà các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội thoái hóa biến chất, đã sử dụng hàng trăm trang tin điện tử để truyền bá quan điểm sai trái, chống chế độ XHCN, chống chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và thường bằng các cách thức sau:

Cách thức phổ biến nhất là các trang tin này được thiết kế nhiều hình thức "bắt mắt" với nhiều thông tin hấp dẫn, có tác dụng thu hút, lôi kéo người dân trong nước truy nhập vào, để rồi sau đó cài vào đó các thông tin phản động, chống đối. Loại hình nói trên đều có đặc điểm chung là sử dụng nhiều phương thức, hình thức dịch vụ tin tức, trao đổi khác nhau để lôi kéo định hướng người sử dụng Internet đến với các nội dung cần tuyên truyền. Đôi khi các thông tin đánh lạc hướng là những thông tin rất có giá trị để nhằm làm người đọc mất cảnh giác khi đến với các nội dung phản động, họ đã "trộn lẫn thật giả". Các nội dung thường bị bóp méo, xuyên tạc dẫn đến làm sai lệch cách nhìn nhận của cộng đồng mạng về tình hình trong nước.

Cách thức phổ biến thứ hai được sử dụng là tường thuật trực tuyến (livetreams) hoặc thông qua các dịch vụ hội thoại (chat), trao đổi trực tuyến, diễn đàn (forum). Hội thoại trực tuyến bao gồm cả hội thoại dùng chữ (text), dùng lời (voice), dùng hình ảnh (video), ... Hội thoại trực tuyến là dịch vụ cho phép hai hay nhiều người có thể trao đổi trực tuyến với nhau tức thời thông qua Internet. Có thể nói dịch vụ này đã giúp mọi người liên kết được với nhau một cách thuận tiện, vượt qua không gian, thời gian, và quan trọng nhất là rất rẻ tiền, nếu không nói là hoàn toàn miễn phí.

 Cách thức phổ biến thứ ba là sử dụng thư điện tử (email). Hằng ngày có hàng tỷ email được truyền đi qua Internet. Thư điện tử đã trở thành một dạng dịch vụ không thể thiếu đối với người sử dụng Internet. Có rất nhiều giao dịch, kể cả giao dịch thương mại đã sử dụng email như phương pháp truyền thông hiệu quả và tin cậy. Do đó thông qua email để tiếp cận đối tượng tuyên truyền là một hình thức rất hiệu quả trong thời đại Internet. Hiện tại việc lạm dụng email để quảng cáo, tuyên truyền, thậm chí lừa đảo đã trở thành một vấn nạn toàn cầu. Trong trào lưu đó, các phần tử phản động đã nhanh chóng áp dụng các phương pháp tiếp cận bằng email vào hoạt động của mình.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội, những người "đào ngũ tư tưởng" đang tăng cường sử dụng mạng internet với hàng trăm trang mạng xã hội và blog, với nội dung xấu độc, với liều lượng, tần suất ngày càng tăng để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, tập trung vào một số vấn đề chính như:

Thứ nhất, qua các trang mạng xã hội và blog xấu độc, tung ra những thông tin và quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên CNXH của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gây mâu thuẫn nội bộ, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên, đa đảng; kêu gọi biểu tình gây áp lực đối với Đảng, Nhà nước; âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa quân đội…

Thứ hai, họ phát tán trên mạng internet những tin, bài, tài liệu có nội dung sai trái, thù địch và khuyến khích nhiều người lên mạng “trao đổi”, “thu nhận” thông tin; dùng các trang mạng xã hội và blog làm “nóng” các vấn đề trong nước để tuyên truyền chống phá ta, kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xuyên tạc, tung tin thất thiệt gây chia rẽ nội bộ, kêu gọi biểu tình, phản đối...

Thứ ba, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” “đất đai”... để vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép về chính trị và kinh tế, gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với các điều kiện về hợp tác kinh tế; tìm cách tác động, kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế gia tăng sức ép với Việt Nam…nhằm gây chú ý của dư luận, tạo áp lực với Đảng, Nhà nước ta; nhào nặn, lan truyền những thông tin thất thiệt gây tâm lý bi quan, hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từng bước hướng lái Việt Nam theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Thứ tư, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, những vấn đề “nóng”, “bức xúc” trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo, lấy hiện tượng quy thành bản chất nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ năm, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, định hướng thông tin, tác nghiệp ở một số cơ quan báo chí để xảy ra tình trạng một số bài viết phản ánh về các vụ việc phức tạp, nhạy cảm sai sự thật, thiếu khách quan; cá biệt một số tờ báo có những bài viết “giật tít” nhằm câu khách; tần suất, số lượng bài viết về các mặt trái, tiêu cực xã hội quá nhiều, nhất là trên một số báo điện tử, để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta.

Tình hình đó  đặt ra nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết đối với cách mạng nước ta cần phải tỉnh táo nhận diện các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống “DBHB”, trên mạng internet.

LÝ TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN MÃI SOI ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM!

          Gần đây, trên các trang mạng xã hội, một số phần tử chống đối, phản động, đã đưa ra luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xã hội, bới móc lịch sự phủ nhận những hy sinh xương máu của quân và dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chúng cho rằng: Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có chính nghĩa và lý tưởng, chính nghĩa của chúng ta dùng bạo lực cướp chính quyền làm cho nửa miền Bắc lâm vào cảnh khốn cùng chết chóc trong cải cách ruộng đất. Đây là luận điệu xuyên tạc, bóp méo lịch sử một cách trắng trợn, vô căn cứ, thể hiện rõ sự thâm thủ, hằn học với chế độ, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

          Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ, sôi sục nhưng do bế tắc về đường lối nên cuối cùng đều thất bại, nhiều nhà yêu nước muốn tìm đường cứu nước, cứu dân tộc khỏi ách nô lệ, lầm than của thực dân Pháp xâm lược nhưng đều không thành. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã  hội, khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, nhưng cũng không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên, hạn chế, khuyết đã được Đảng ta nhanh chóng phát hiện và kiên quyết khắc phục, từng bước đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, tiếp tục phát triển theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các thế lực thù địch, phản động có tuyên truyền, xuyên tạc thế nào, cố tình gieo rắc hoài nghi về tính đúng đắn và khả năng dẫn tới thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ra sao cũng không thể làm thay đổi mục tiêu, lý tưởng mà Đảng; Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng, không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


QUÂN ĐỘI VỚI NHIỆM VỤ ĐẤU TRANH CHỐNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng là âm mưu cơ bản lâu dài của các thế lực thù địch đối với nước ta. Mục tiêu cơ bản và xuyên suốt của các thế lực thù địch trong lợi dụng tôn giáo là nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vì một nước Việt Nam độc lập và chủ nghĩa xã hội. Chúng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Chúng lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động đồng bào tôn giáo chống lại chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đối lập quần chúng tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, gây rối loạn xã hội, mất ổn định chính trị, làm mất hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với đất nước.

Quân đội là công cụ sắc bén của Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, có trách nhiệm tiến hành công tác vận động quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng nước ta. Vậy theo tôi các giải pháp cơ bản đối với quân đội trong đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch được thể hiện trên những nội dung sau.

          Một là quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về các quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Đây là giải pháp quan trọng nhất, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ, chiến sĩ về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền vận động đồng bào các tôn giáo. Quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, các chỉ thị của quân Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về công tác tôn giáo, từ đó nâng cao nhận thức của mỗi quân nhân về tôn giáo và công tác tôn giáo, xác định rõ trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động đồng bào tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa đồng bào thuộc tôn giáo này với đồng bào thuộc tôn giáo khác, giữa đồng bào có đạo với đồng bào không theo đạo, giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

          Các cơ quan chức năng của Tổng cục Chính trị, cơ quan chính trị các đơn vị chủ động biên soạn đề cương tuyên truyền, tài liệu về tôn giáo làm nội dung học tập, tập huấn cho cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở. Cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp phải thường xuyên quán triệt, tổ chức học tập, tập huấn bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nhận thức, hiểu biết về tôn giáo và kỹ năng tiến hành công tác dân vận ở vùng có đông đồng bào tôn giáo.

          Hai là, phối hợp các ban ngành, đoàn thể, lực lượng trên địa bàn tích cực tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

          Tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở các vùng đồng bào tôn giáo là một bộ phận của công tác dân vận của quân đội. Đây là giải pháp cơ bản, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của quân đội ở vùng đồng bào có đạo.

           Trong đó cần tập trung vào tuyên truyền chính sách đại đoàn kết của Đảng đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; tuyên truyền những thành tựu về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của đồng bào tín đồ tôn giáo nói riêng để mọi người dân Việt Nam dù có đạo hay không có đạo đều tin tưởng vào chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch; tuyên truyền các nội dung về pháp luật để đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo thực hiện tốt các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị về văn hóa đạo đức của tôn giáo; tuyên truyền các nội dung của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật tín ngưỡng, tôn giáo để mọi tín đồ, các vị chức sắc, chức việc trong các tôn giáo cũng như mọi người dân Việt Nam hiểu và thực hiện. Công tác vận động quần chúng của các đơn vị quân đội vùng đồng bào tôn giáo cần tập trung vào giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào tôn giáo có đạo, không làm điều gì xúc phạm tới tín ngưỡng của đồng bào. Vận động đồng bào tôn giáo (các tín đồ, chức việc, nhà tu hành) thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân, chấp hành mọi quy định của Nhà nước trong quá trình thực hiện các hoạt động tôn giáo; không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo vào các hoạt động xâm hại đến lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, dân tộc.

          Ba là, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng đồng bào tôn giáo vững mạnh.

          Tham gia củng cố chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững mạnh; thực hiện tốt chính sách xã hội, nhân đạo ở địa phương, vận động nhân dân giúp nhau xóa đói giảm nghèo, phòng chống bật tật, xóa mù chữ, xóa các tệ nạn xã hội, giúp đồng bào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục hậu quả thiên tai. Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, tham gia thực hiện chương trình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội gắn với an ninh - quốc phòng, thực hiện các dự án xóa đói, giảm nghèo ở vùng đồng bào tôn giáo. Phối hợp với các cấp, các ngành, các địa phương huy động sức dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng: giao thông, thủy lợi, điện, đường, trường học, bệnh xá, nước sạch.

          Bốn là, tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

          Quân đội là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy và tuyệt đối trung thành của Đảng và Nhà nước, quân đội phải chủ động phối hợp với các lực lượng khác, thường xuyên nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo trên địa bàn, tham mưu cho chính quyền chủ động đối phó trong mọi tình huống. Quân đội phải tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội; đồng thời đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn và bản chất phản động của chúng, bảo vệ quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

          Năm là, phát huy vai trò chức sắc, chức việc, già làng, trưởng dòng họ, người có uy tín trong các tôn giáo.

          Phát huy vai trò lực lượng cốt cán (đảng viên, quân nhân có đạo xuất ngũ về địa phương), vai trò chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo là việc làm quan trọng cần thiết khi tiến hành công tác vận động quần chúng và đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào tôn giáo.

          Các đơn vị thực hiện tốt Công văn số 298/CT-DV, ngày 4/3/2014, của Tổng cục Chính trị chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quán triệt, thực hiện một số nội dung cơ bản của Thông báo số 150-TB/W, ngày 25/12/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Xây dựng cốt cán phong trào và chính sách đối với cốt cán phong trào trong tôn giáo. Tăng cường các hình thức gặp gỡ, đối thoại, trao đổi với chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là vấn đề liên quan đến tôn giáo, phòng chống tội phạm. Thường xuyên tổ chức thăm hỏi, tặng quà chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo nhân ngày lễ, tết của các tôn giáo.

          Sáu là, thực hiện tốt chính sách tôn giáo đối với các quân nhân có đạo trong đơn vị.

Đây là giải pháp không thể thiếu khi thực hiện công tác tôn giáo trong quân đội. Khi thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đối với quân nhân là người có đạo trong đơn vị, đòi hỏi lãnh đạo và chỉ huy các cấp cần tập trung thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân nhân có đạo, gốc đạo trong quân đội, trọng tâm làm tốt công tác tuyển quân, tuyển sinh, quản lý, bố trí, sử dụng, giáo dục, bồi dưỡng phát triển đảng viên, đoàn viên, sắp xếp việc làm, xây dựng lực lượng cốt cán cho cơ sở địa phương, vùng có đông đồng bào theo đạo. Làm tốt công tác giáo dục đối với quân nhân có đạo để họ có nhận thức sâu sắc về nghĩa vụ và trách nhiệm trên cả hai phương diện tín ngưỡng, tôn giáo và chính trị - xã hội; giúp họ tự giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, giữa tín đồ và người chiến sĩ, tạo điều kiện để họ phấn đấu rèn luyện phẩm chất của người quân nhân cách mạng. Giáo dục và có biện pháp thích hợp về tổ chức đối với mỗi quân nhân trong đơn vị nhằm xây dựng tinh thần đoàn kết nhất trí cao độ trong nội bộ đơn vị giữa các quân nhân là người không có đạo và các quân nhân là tín đồ tôn giáo.

Lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng là âm mưu cố hữu không bao giờ từ bỏ của các thế lực thù địch đối với nước ta. Mục tiêu cơ bản và xuyên suốt của các thế lực thù địch trong lợi dụng tôn giáo là nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vì một nước Việt Nam độc lập và chủ nghĩa xã hội. Thiết nghĩ để tích cực dấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta, các đơn vị cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, nếu thực hiện tốt sẽ góp phần thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; xây dựng cuộc sống của đồng bào tôn giáo “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào tôn giáo trên địa bàn đóng quân.

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2022

THANH NIÊN VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH, VỮNG VÀNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII

Kế thừa và phát huy những giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Thanh niên Việt Nam nguyện tiếp bước con đường của Đảng, Bác Hồ và thế hệ cha, ông đi trước luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tiếp tục nhận thức rõ về trách nhiệm của thế hệ trẻ. Xung kích, sáng tạo, cống hiến đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, góp phần đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động diễn biến phức tạp khó lường. Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, cùng với đó là xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới, biển đảo, sự can thiệp tầm ảnh hưởng các nước lớn trên thế giới…. cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra rất phức tạp.

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính lẽ đó thế hệ trẻ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhận thức sâu sắc những giá trị về bài học quý báu sau các sự kiện chính trị xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm thập kỷ 90 thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc, có hiệu quả, kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu mốc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Thực hiện nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới được Đảng ta luôn quán triệt: “Đổi mới trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội”. Trong nhận thức và áp dụng về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng tuân thủ theo các quy luật, nguyên tắc. Không được nóng vội dao động, bi quan, đổi hướng, thay đổi mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân đã chọn. Đó vừa là mục tiêu, tư tưởng, vừa là sự lựa chọn cách thức, bước đi phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng để từng bước hiện thực hóa con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn - con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 

Các chủ trương, đường lối, quan điểm của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta của Đảng ta qua các kỳ đại hội thể hiện rõ qua các văn kiện như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục hiến định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Kết quả công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đến Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII cần phải đưa ra các giải pháp nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của các cấp bộ Đoàn trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ”. Qua đó, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, nuôi dưỡng hoãi bão, khát vọng vươn lên trong thanh thiếu niên “Chú trọng hơn giáo dục, đạo đức nhân cách năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ…”. Đồng thời, chăm lo, phát triển thanh thiếu niên và phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII cần phải tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; phát huy vai trò của thanh niên trong tham gia phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ, thúc đẩy học tập và sử dụng ngoại ngữ, công nghệ thông tin, tiên phong trong thực hiện chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số; tham gia phát triển xã hội bền vững, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của thanh thiếu niên về đảm bảo quốc phòng, an ninh, xung kích tham gia bảo vệ Tổ quốc; chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng; nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên; xây dựng tổ chức Đoàn, Hội vững mạnh; nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét, kết nạp; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ; tham gia tích cực vào hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham vấn chính sách.

Để thực tốt các giải pháp hành động này, Các cấp ủy Đảng, thủ trưởng các cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đoàn đưa ra các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện để triển khai một cách có hiệu quả nhất nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đã đề ra. Bên cạnh những giải pháp quan trọng, dài hạn tiếp tục được xác định trong  Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và có bước phát triển, đã có nhiều nội dung mới, quan trọng trong công tác thanh niên được nhấn mạnh. Đó là “nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, với xã hội”; quan điểm phát triển thế hệ trẻ “lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ” và “Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước”.

Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng Việt Nam hơn 92 năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn mang tính bước ngoặt lịch sử. Qua Đại hội XIII của Đảng lại một lần nữa được khẳng định với các quan điểm, đổi mới toàn diện trong nhận thức. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ cả nước bày tỏ ý chí quyết tâm, bằng hành động cụ thể đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vì tương lai tươi sáng của thế hệ trẻ./.