Một là, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng và Nhà nước ta xây
dựng chính sách dân tộc. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ: Vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược, tạo lực lượng cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc phụ thuộc và phục vụ cho vấn đề giai cấp của
giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và của dân
tộc, vừa là mục đích trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài; vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân
tộc trong chủ nghĩa xã hộilà: Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết và liên hiệp công nhân các dân
tộc lại; phát huy được khả năng vươn lên của các dân tộc, phù hợp đặc
thù từng dân tộc, từng vùng miền; quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ các tộc người thiểu số…
Hai là, từ đặc điểm cơ bản
của các dân tộc và vị trí chiến lược của địa bàn vùng dân tộc thiểu số
và miền núi nước ta trong giai đoạn hiện nay. Các dân tộc ở nước ta là một cộng
đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú xen kẽ, phân tán, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội không đồng đều. Khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số nước ta có vị
trí chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc
phòng an ninh, đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc điểm này đòi hỏi chính sách dân tộc phải vừa mang tính toàn diện,
vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài…Đây là cơ
sở thực tiễn quan trọng của chính sách nhằm bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả của
hệ thống chính sách dân tộc.
Ba là, từ bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề dân tộc của các quốc gia trên
thế giới và của Việt Nam. Đó là những bài học lớn: Lợi
ích quốc gia, dân tộc là cao nhất;
nhà nước giải quyết tốt, hài hòa lợi ích của các dân tộc thiểu số; cần thể chế hóa và bảo đảm thực thi một cách nghiêm
túc, hiệu quả các vấn đề liên quan đến
dân tộc; vấn đề căn bản nhất trong
xử lý quan hệ giữa
dân tộc đa số với
các dân tộc thiểu số; phải lấy phát triển kinh tế các
dân tộc thiểu số làm khâu đột phá, làm cơ
sở để giải quyết các vấn đề
khác trong phát triển, như:
chính trị, văn hóa trong bối cảnh quốc gia
đa dân tộc cùng sinh sông.
Bốn là, xuất phát từ thực tiễn thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam thời gian qua và yêu cầu phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm tới. Những năm qua, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách dân tộc còn không ít khuyết điểm, hạn chế. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Bởi thế, đây là cơ sở quan trọng để xây dựng, thực hiện hệ thống chính sách dân tộc đồng bộ, hiệu quả nhằm phát triển nhanh và bền vững kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.