Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

QUÂN ĐỘI THAM GIA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY THÔNG QUA NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN NÀO?

Tổ chức hoạt động dã ngoại làm công tác dân vận tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng dân tộc thiểu số. Hành quân dã ngoại kết hợp thực hiện công tác dân tộc là một trong các hình thức cơ bản hoạt động công tác dân vận của quân đội ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số với số lượng cán bộ, chiến sĩ tham gia đông; có khả năng cơ động xa doanh trại và làm được nhiều công việc đòi hỏi nhân công lớn.Hình thức công tác này nhằm tạo điều kiện cho cán bộ chiến sĩ tiếp xúc với đồng bào các dân tộc, trực tiếp góp phần xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, bộ đội đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa, địa bàn trọng điểm, biên giới nhằm tăng cường quan hệ quân dân, phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”.  

Tổ chức kết nghĩa giữa các đơn vị quân đội với địa phương vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Đây là hình thức thực hiện công tác dân tộc và dân vận phổ biến thường được tiến hành ở địa bàn đơn vị đóng quân, tạo điều kiện giao lưu giúp đỡ lẫn nhau giữa đơn vị và địa phương. Trước hết, các đơn vị cần tiến hành khảo sát tình hình quan hệ dân tộc và mọi mặt của địa phương để xây dựng nội dung, chương trình kết nghĩa . Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức họp bàn với chính quyền địa phương để bàn bạc, thống nhất về kế hoạch và nội dung kết nghĩa. Từ đó, xây dựng nội dung hoạt động, chương trình, kế hoạch kết nghĩa và tổ chức lễ ký kết. Hoạt động công tác này phải có chương trình, kế hoạch, mục tiêu hoạt động cụ thể, rõ ràng được cả hai bên thống nhất, bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả.

Tổ chức các tổ, đội công tác. Đây là một trong các hình thức dân vận cơ bản của quân đội để thực hiện chính sách dân tộc và công tác dân tộc ở những địa bàn chiến lược, trọng điểm, khu vực biên giới, hải đảo, được tổ chức theo hình thức chuyên ngành, liên ngành để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, trong một thời gian nhất định ở trên địa bàn theo yêu cầu nhiệm vụ trên giao. Các tổ đội công tác chuyên ngành được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ nhất định theo kế hoạch của đơn vị, thường hoạt động ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa và được giao một số nhiệm vụ cụ thể nhằm giúp đỡ chính quyền và nhân dân các dân tộc.

Cử sĩ quan đi tăng cường cho cơ sở. Hình thức này, nhằm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc miền núi, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hình thức tiến hành công tác này được làm thí điểm từ năm 1992 ở Quân khu 2 và áp dụng chủ yếu cho các đơn vị Bộ đội Biên phòng để tăng cường sĩ quan cho cơ sở, giúp địa phương vùng trọng điểm xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Nội dung hoạt động của cán bộ tăng cường cơ sở tập trung vào tuyên truyền vận động nhân dân; tham mưu giúp địa phương xây dựng, củng cố và xây dựng hệ thống chính trị (Có thể trực tiếp tham gia cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể địa phương); củng cố công tác quốc phòng, an ninh , xây dựng khu vực phòng thủ, tiến hành công tác quân sự quốc phòng địa phương; giúp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Các đơn vị cần lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kỷ luật tác phong công tác tăng cường cho cơ sở; thường xuyên quản lý chặt chẽ về công tác này. 

NỘI DUNG CHỦ YẾU QUÂN ĐỘI THAM GIA CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY?

Một là, tham mưu cho Đảng, Nhà nước; cấp ủy, chính quyền địa phương và phối hợp với các ban ngành, đoàn thể địa phương tham gia thực hiện chính sách dân tộc khoa học, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm lý, truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Các đơn vị đóng quân trên địa bàn, nhất là cơ quan quân sự địa phương cần tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh.

Hai là, tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nội dung tuyên truyền: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước và địa phương; vận động để đồng bào nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để đồng bào không nghe theo lời kẻ xấu, không mắc mưu địch, không tụ tập tuyên truyền đạo trái pháp luật bằng nhiều hình thức đa dạng.

Ba là, tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở vùng dân tộc thiểu số. Tập trung ở: tham gia xây dựng củng cố hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn vững manh; lao động sản xuất, giúp đỡ đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; giúp địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; góp phần nâng cao đời sống văn hoá - xã hội cho đồng bào các dân tộc, công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cho con em đồng bào; vận động nhân dân từ bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan; giúp địa phương tổ chức, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ; xây dựng “trận địa lòng dân”, thế trận chiến tranh nhân dân đủ sức ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu, hành động chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo.

Bốn là, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc trong Quân đội. Cần phân loại các đối tượng quân nhân thuộc quyền theo nhóm các tộc người để có biện pháp công tác hiệu quả, phù hợp.  

Năm là, tham gia đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá sự nghiệp cách mạng đất nước. Các đơn vị quân đội chủ động phối hợp với các lực lượng điều tra, khảo sát, nắm tình hình các dân tộc trên địa bàn đóng quân cũng như diễn biến hoạt động và những thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc; đề xuất chủ trương, biện pháp và phối hợp với cấp ủy đảng, chính quyền địa phương cùng các lực lượng, các tổ chức, các đoàn thể nhân dân địa phương tham gia đấu tranh phòng, chống có hiệu quả. 

CÁC NGUYÊN TẮC QUÂN ĐỘI THAM GIA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY?

Thứ nhất, quán triệt, thực hiện đúng quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, chính sách dân tộc; đồng thời, chủ động, sáng tạo trong tham gia thực hiện chính sách dân tộc. Quá trình tham gia thực hiện chính sách dân tộc của các đơn vị quân đội mang những nét riêng, yêu cầu riêng, đặc thù của một tổ chức chính trị - xã hội đặc thù, đòi hỏi các đơn vị quân đội phải quán triệt và thực hiện đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc.

Thứ hai, quân đội tham gia thực hiện chính sách dân tộc phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo của cơ quan chính trị, của chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp trong Quân đội. Thực hiện chính sách dân tộc là một nội dung cơ bản trong công tác đảng, công tác chính trị của quân đội, vừa là trách nhiệm chính trị, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Do vậy, quá trình tham gia thực hiện chính sách dân tộc các đơn vị quân đội cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng và Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, bảo đảm cho hoạt động này đúng định hướng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ, sát với đối tượng, địa bàn cụ thể.

Thứ ba, phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị quân đội với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Các đơn vị bộ đội địa phương cần phối, kết hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng khác trên địa bàn để nắm chắc tình hình địa bàn, tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên đồng bào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tham gia vào các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước, địa phương.

Thứ tư, nắm vững tình hình kinh tế, chính trị - xã hội ở địa phương và đặc điểm văn hóa, truyền thống của các dân tộc. Do đó, các đơn vị quân đội phải bám sát tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống văn hoá, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đóng quân cũng như những đặc điểm riêng biệt về văn hóa vùng miền, về phong tục, tập quán, về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào.

Thứ năm, tham gia thực hiện chính sách dân tộc phải đúng với chức năng, nhiệm vụ và phát huy được lợi thế của từng đơn vị. Đây là nguyên tắc đảm bảo khắc phục, phòng ngừa sự chồng lấn cũng như tạo mối liên hệ hiệp đồng, tương trợ lẫn nhau trong quá trình công tác của các đơn vị.   

VÌ SAO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC LÀ MỘT NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ LÂU DÀI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM?

 Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Thực hiện chính sách dân tộc và công tác dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Với chức năng  là một đội quân chiến đấu, đội quân lao động sản xuất và đội quân công tác; từ đặc điểm và tính chất nhiệm vụ địa bàn đứng công tác có nhiều khu vực miền núi biên giới, hải đảo, là nơi mà đồng bào các dântộc thiểu số cư trú; do đó thực hiện chính sách dân tộc là một phần chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới.

Thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ chính trị to lớn thể hiện bản chất, truyền thống của Quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Quân đội là một bộ phận nằm trong hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, có trách nhiệm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng của Đảng, chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cho nên, quân đội có trách nhiệm thực hiện tốt công tác dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.

Quá trình ra đời, chiến đấu và trưỏng thành của quân đội ta luôn có mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân. Cán bộ, chiến sỹ quân đội ta đều là con em đồng bào các dân tộc nên có khả năng, điều kiện để thực hiện tốt chính sách dân tộc trên địa bàn miền núi và dân tộc thiểu số và ngay trong nội bộ quân đội. Bởi vậy, thực hiện chính sách dân tộc là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; củng cố thế trận quốc phòng toàn dân; góp phần xây dựng biên cương vững mạnh về mọi mặt.

Thực tiễn đã chứng minh quân đội ta là lực lượng to lớn, có kinh nghiệm và có khả năng thực hiện tốt chính sách dân tộc cũng như kinh nghiệm giải quyết các vấn dân tộc. Việc tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp và những kinh nghiệm quý báu trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là cơ sở để quân đội ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình.

Hiện nay, trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch đang có nhiều âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc chống phá quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tìm cách chia rẽ, kích động, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, hòng làm suy yếu tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, quân đội thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa chính trị to lớn, trực tiếp góp phần nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh, đồng thời góp phần to lớn vô hiệu hóa chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. 

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM CÓ VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?

Các đơn vị quân đội có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc hiểu rõ và thực hiện tốt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc của quân đội đã góp phần làm cho đồng bào các dân tộc hiểu đúng đưòng lối của Đảng, kiên định với con đường và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội đã tích cực tuyên truyền vận động nhân dân nhận thức rõ được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, đồng thời tham gia giải quyết những phức tạp trong quan hệ dân tộc. Các đơn vị quân đội đóng quân trên các địa bàn phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết những vướng mắc, phức tạp trong quan hệ dân tộc cũng như các mối quan hệ xã hội khác.

Quân đội tham gia tích cực và có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các đơn vị quân đội căn cứ vào điều kiện cụ thể đã xây dựng chương trình kế hoạch công tác tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đóng quân, tham gia tích cực và có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Cùng với nhân dân các dân tộc và chính quyền các cấp địa phương, quân đội tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống văn hóa, giáo dục, y tế của đồng bào các dân tộc, vùng cao, vùng biên giới.  

Quân đội là lực lượng quan trọng tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vùng dân tộc thiểu số. Các đơn vị quân đội có vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng hệ thống chính trị, đào tạo, bồi dưỡng độỉ ngũ cán bộ ở địa phương, cơ sở. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị quân độì thực hiện vai trò tham mưu, tư vấn và tham gia bồi dưõng, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội.  

Quân đội là lực lượng nòng cốt tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của đồng bào dân tộc. Quân đội tham gia xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân trên cơ sở xây dựng tiềm lực quốc phòng ở từng địa bàn, xây dựng lực lượng tại chỗ, đảm bảo kịp thời và đủ sức ứng phó với các tình huống xảy ra. Các đơn vị quân đội, nhất là bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng có vai trò quan trọng, trực tiếp trong công tác xây dựng địa bàn an toàn, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ làng bản;  phát huy vai trò nòng cốt xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân.   

CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐÔNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN 2021 - 2030 GỒM NHỮNG DỰ ÁN, TIỂU DỰ ÁN NÀO?

Chương trình gồm những dự án, tiểu dự án sau:

- Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của hộ dân tộc thiểu số.

- Dự án 2: Sắp xếp, quy hoạch, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.

- Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị. Dự án bao gồm các tiểu dự án cụ thể:

+ Tiểu dự án 1: Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân.

+ Tiểu dự án 2: Đầu tư, phát triển các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị, vùng dược liệu quý, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

+ Tiểu dự án 3: Phát triển kinh tế - xã hội: mô hình bộ đội gắn với dân bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

- Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc.

- Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dự án bao gồm các tiểu dự án cụ thể:

+ Tiểu dự án 1: Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường Phổ thông Dân tộc nội trú, trường Phổ thông dân tộc bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

+ Tiểu dự án 2: Bồi dưỡng kiến thức dân tộc; đào tạo dự bị đại học, đại học và sau đại học đáp ứng nhu cầu nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ triển khai Chương trình ở các cấp.

+ Tiểu dự án 3: Dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

- Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.

- Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

- Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

- Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người, nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.

- Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình. Dự án bao gồm các Tiểu dự án cụ thể:

+ Tiểu dự án 1: Biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến, phát huy vai trò của người có uy tín; phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào; ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

+ Tiểu dự án 2: Kiểm tra, giám sát, đánh giá, việc tổ chức thực hiện chương trình. 

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI, VÙNG CÓ ĐIỀU KIỆN ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN GIAI ĐOẠN 2021 - 2030 LÀ GÌ?

Một là, xây dựng và ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xác định cụ thể địa bàn xã, thôn đặc biệt khó khăn để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm

Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung và tích hợp hệ thống chính sách dân tộc thành “Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”.

Ba là, ban hành cơ chế, chính sách đặc thù trong tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số.

Bốn là, tăng cường nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để phục vụ công tác dự tính, dự báo, hoạch định, quản lý thực hiện chính sách dân tộc

Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc

Sáu là, tăng cường, củng cố và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vững mạnh

Bảy là, huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó nguồn lực Nhà nước giữ vai trò quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác

Tám là, điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc là đầu mối thống nhất theo dõi, tổng hợp các chính sách dân tộc; tham gia thẩm định chính sách, các dự án đầu tư liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Chín là, tiếp tục ban hành chính sách đảm bảo an sinh xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Mười là, đổi mới tổ chức và hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội

Mười một là, tập trung nghiên cứu, giải quyết một số nội dung liên quan đến tâm tư nguyện vọng của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.

Ở VIỆT NAM QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ ĐƯỢC ĐẢM BẢO VÀ THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC

Vừa qua, có những quan điểm cho rằng: Việt Nam không tôn trọng các quyền này và một số luật đặc biệt xâm phạm quyền tự do ngôn luận; quyền tự do ngôn luận của nhân dân bị hạn chế; Đảng, Nhà nước Việt Nam kiểm duyệt hoặc hạn chế nội dung đối với các thành viên của báo chí và các phương tiện truyền thông khác.... Đây là những nhận định sai sự thật, cố tình xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Trên thực tế, tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam và được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật liên quan như: Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí, Luật An ninh mạng và nhiều văn bản pháp luật khác tiếp tục thể chế hóa quyền này. Cụ thể: Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Luật Báo chí năm 2016 quy định tại Điều 10 về Quyền tự do báo chí của công dân: Sáng tạo tác phẩm, cung cấp, phản hồi, tiếp cận thông tin báo chí, liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí, in, phát hành báo in; Điều 11 về Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân quy định công dân có quyền: phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức, cá nhân.

Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tính đến tháng 6-2023, Việt Nam có 127 cơ quan báo, 677 cơ quan tạp chí (trong đó 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 71 cơ sở truyền thanh, truyền hình hoạt động độc lập; 666 cơ sở truyền hình - truyền thanh cấp huyện; 9.959 đài truyền thanh cấp xã (trong đó 1.757 đài truyền thanh ứng dụng công nghệ thông tin - viễn thông, 1.386 đài của xã nông thôn, miền núi); 57 nhà xuất bản. Số lượng lao động trong lĩnh vực báo chí ước khoảng 71.830 người (tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022); Tỷ lệ người dùng internet đạt 78,59% (vượt mục tiêu kế hoạch năm 2023, năm 2023 là 76%); 253 cơ quan báo chí tham gia hoạt động thông tin đối ngoại, 59 văn phòng báo chí Việt Nam thường trú tại nước ngoài, 137 phóng viên Việt Nam thường trú tại nước ngoài trong năm 2022; số người được cấp thẻ nhà báo là 11.958. Bên cạnh các cơ quan báo chí trong nước, tại Việt Nam còn có nhiều hãng truyền thông quốc tế hoạt động như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Asia, Rossiya Segodnya... Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn có tinh thần cầu thị, tích cực học hỏi, tiếp thu, tham khảo những kinh nghiệm tiến bộ của các quốc gia trên thế giới để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.  

Cần hiểu đúng, tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là không có giới hạn nhất định. Trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là quyền tuyệt đối, tự do vô chính phủ. Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người, được pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, quyền tự do nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng đều phải trong khuôn khổ cho phép và không bị nghiêm cấm bởi luật pháp. Pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu khống, bôi nhọ danh dự cá nhân, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thông tin không đúng sự thật, gây hoang mang trong dư luận, xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác... Các hành vi nghiêm cấm này được quy định cụ thể trong các văn bản: Luật báo chí năm 2016 (Điều 9), Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 (Điều 3), Luật An ninh mạng năm 2018 (Khoản 3, Điều 16); Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 331). 

MỘT SỐ VĂN BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNH PHÍ, TIÊU CỰC TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đề ra chủ trương, giải pháp, quy định mới trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng. Trong đó nổi bật là: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VI) một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI; Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...

Chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành các luật, tạo hành lang pháp lý quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Từ năm 2013 đến năm 2022, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết); Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng); các bộ, ngành, địa phương ban hành hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể chế hóa và triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng ở nước ta. 

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TINH, GỌN, MẠNH

Thời gian qua, có một số quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh của Đảng, Nhà nước. Chúng cho rằng: chủ trương này không thực hiện được, đã xây dựng quân đội gọn thì không mạnh; hoặc xây dựng quân đội mạnh thì không phải tinh, gọn; hay bối cảnh hiện nay chưa cần phải đặt vấn đề xây dựng quân đội tinh gọn, manh… Đây là những quan điểm sai trái, không đúng về lý luận và thực tiễn.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã khẳng định bài học kinh nghiệm: “Quân cốt tinh, không cốt đông”,

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn đánh giặc, phải có quân đội”. Nhận thức tính tất yếu đó, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập theo chỉ thị của Người. Ngay từ ngày đầu thành lập và xuyên suốt trong quá trình giáo dục, rèn luyện Quân đội, Người xác định: “xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, làm hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”.

Hoạt động của Quân đội mang tính đặc thù, phải đầu tư chi phí cao, mức độ tiêu hao vật chất lớn, tạo ra áp lực lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Qua gần 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển quan trọng “thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, phải xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh.

xây dựng Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh là xu thế chung trên thế giới. Thế giới đang đứng trước những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược nước lớn gây nhiều biến động đối với môi trường an ninh quốc tế; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Tăng ngân sách quốc phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt và trở thành xu thế phổ biến; một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự với những thế hệ vũ khí mới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh và phương thức tác chiến mới rất hiện đại, công nghệ cao, các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp, khó lường. Do đó, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là tất yếu.

Như vậy, chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là ba nội dung khác nhau, nhưng quan hệ mật thiết với nhau, đảm bảo cho Quân đội có đủ sức mạnh thực hiện chủ trương bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” theo kế sách “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Những quan điểm phủ nhận nội dung này đều sai lầm, phản khoa học, không đúng với thực tiễn. 

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2024

ĐỀ ÁN TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI, VÙNG CÓ ĐIỀU KIỆN ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN GIAI ĐOẠN 2021 – 2030 XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH NHƯ THẾ NÀO?

Tiếp tục triển khai, cụ thể hóa các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc liên quan đến quốc phòng và đảm bảo an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tập trung tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, tuyên truyền vận động nhân dân về đường lối, mục tiêu phát triển đất nước và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng trong tình hình mới; làm cho người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch nhằm kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng ly khai, tự trị dân tộc... Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đồng bào vùng biên giới. Động viên đồng bào các dân tộc tích cực tham gia vào phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Tích cực xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, khu vực biên giới, vùng căn cứ cách mạng; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi về số lượng, chất lượng; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc.

Tổ chức tốt công tác nắm tình hình, kịp thời giải quyết các tình huống phát sinh, không để hình thành các “điểm nóng” về an ninh, trật tự, các vụ biểu tình, bạo loạn ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số và miền núi, khu vực biên giới; giải quyết kịp thời những phức tạp liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động quần chúng. Tăng cường hợp tác quốc tế, đối ngoại quân sự, đối ngoại biên phòng, đối ngoại công an để đấu tranh với các hoạt động ly khai, tự trị dân tộc, vượt biên trái phép; đảm bảo an ninh, trật tự tuyến biên giới; phòng chống tội phạm, khủng bố...

Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh - quốc phòng. Xây dựng các đoàn Kinh tế - quốc phòng, khu Kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm; kết hợp kinh tế quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi. 

NHIỆM VỤ CHỦ YẾU TRONG ĐỀ ÁN TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN 2021-2030 CỦA CHÍNH PHỦ ĐÃ ĐƯỢC QUỐC HỘI PHÊ DUYỆT LÀ GÌ?

Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030. Xây dựng và ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển bảo đảm toàn diện, khách quan, khoa học, chính xác, làm cơ sở xác định đối tượng, địa bàn cần ưu tiên để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.

Tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để phục vụ công tác dự báo, hoạch định, quản lý thực hiện chính sách dân tộc.

Huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó nguồn lực Nhà nước giữ vai trò quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc, về thực hiện chính sách dân tộc, chống mọi biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.  

Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số theo Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới và Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới. Có chính sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số.

Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Tăng cường xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kịp thời biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đổi mới và mở rộng chính sách tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số. 

NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG “ĐỀ ÁN TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI, VÙNG CÓ ĐIỀU KIỆN ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN GIAI ĐOẠN 2021 – 2030” LÀ GÌ?

Về phát triển kinh tế: Khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh, huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển mạnh kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; chú trọng phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế tư nhân, gắn sản xuất với chế biến, kết nối với thị trường, tạo chuỗi sản phẩm, gia tăng giá trị.

Về giáo dục - đào tạo: Quy hoạch phát triển hợp lý mạng lưới, quy mô các trường phổ thông dân tộc bán trú, phổ thông dân tộc nội trú và dự bị đại học dân tộc; Đổi mới phương thức cử tuyển nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đảm bảo đủ giáo viên cho từng cấp học, môn học, đội ngũ phải đáp ứng yêu cầu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Về phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nhân lực và giải quyết việc làm: Tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, đề án, chính sách về phát triển giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm. Dạy nghề theo nhu cầu lao động của xã hội theo hướng hỗ trợ sau đào tạo. Bồi dưỡng kiến thức về kỹ năng (giáo dục định hướng) để thanh niên DTTS tìm kiếm việc làm ở khu công nghiệp.

Về y tế và dân số: Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.

Về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc: Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Về quốc phòng, an ninh: Tiếp tục triển khai, cụ thể hóa các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc liên quan đến quốc phòng và đảm bảo an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. 

MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN 2021-2030 CỦA CHÍNH PHỦ ĐÃ ĐƯỢC QUỐC HỘI PHÊ DUYỆT LÀ GÌ?

Mục tiêu tổng quát của Đề án là khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Phấn đấu mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng trên 2 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số mỗi năm giảm trên 3%; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa. 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 90% đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh; hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí ổn định 90% số hộ di cư không theo quy hoạch. Quy hoạch, sắp xếp, di dời, bố trí 60% số hộ dân tộc thiểu số đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào. Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%, học trung học cơ sở trên 95%, học trung học phổ thông trên 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90%.

Tăng cường công tác y tế để đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; 98% đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%; 50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc thiểu số; Bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; 80% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 50% thôn có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng. Đào tạo, quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số tại chỗ. Bảo đảm tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số phù hợp với tỷ lệ dân số là người dân tộc thiểu số ở từng địa phương.

Định hướng mục tiêu đến năm 2030: Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn; 70% số xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hằng năm thu hút 3% lao động sang làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đến 2030, có 40% lao động người dân tộc thiểu số biết làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa; xóa tình trạng nhà ở tạm, dột nát; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái; duy trì, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng; trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân; giải quyết căn bản tình trạng di cư không theo kế hoạch trong đồng bào dân tộc thiểu số. Quy hoạch sắp xếp, di dời, bố trí 100% hộ dân tộc thiểu số đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở. Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong Mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững đến năm 2030.