Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI GỒM NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN NÀO?

- Định hướng chung: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng vùng, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Định hướng cụ thể:

+ Xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, khắc phục về cơ bản tình trạng tranh chấp đất đại và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay.

+ Tiến hành định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc phải gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, các dự án giao đất, giao rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc.  

+ Đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung sức phát triển những cây, con có ưu thế thành hàng hóa với bước đi, quy mô phù hợp, gắn với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ là một trong những hướng cơ bản thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất không những ở vùng đồng bào dân tộc mà cả trong phạm vi toàn quốc.

+ Đổi mới cơ chế quản lý thích hợp với vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, làm chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội các vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cư trú.

+ Có chính sách đầu tư đồng b và có trọng điểm theo các chương trình, dự án vào các lĩnh vực, vùng quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân tộc và miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công trình thủy lợi phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với quá trình phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống, giữ vững quốc phòng, an ninh.  

Phát huy ý thức tự lực, tự cường, năng lực sáng tạo của đồng bào các dân tộc, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM GỒM NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN NÀO?

Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, coi đây là mặt nhiệm vụ trọng tâm tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi chọ sự phát triển kinh tế - xã, hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểụ số. Đầu tư phát triển mạng lưới (đường giao thông, hệ thống truyền tải điện, trường học, trạm xá, xây dựng các trung tâm, thị trấn, chợ đầu mối, xây dựng và nâng cấp hệ: thống thủy lợi, cầu cống, các công trình phục vụ sản xuất và đời sống...

Chăm lo phát triển sản xuất hàng hoá; trên cơ sở thế mạnh về đất đai; thổ nhưỡng, tập quán sản xuất của từng vùng, đẩy mạnh nhịp độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy các tiềm năng, hình thành các vùng kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng chuyên canh, thâm canh, các vùng nguyên liệu, nông sản có năng suất và chất lượng cao; tích cực đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao thay thế cho các giống cũ sản lượng và chất lượng kém và xoá bỏ cây thuốc phiện. Quan tâm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thông qua các mạng lưới thương nghiệp trong và ngoài nước.

Tập trung xoá đói giảm nghèo, chăm lo cải thiện và từng bước nâng cao đòi sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Thực hiện tốt các chương trình dự án kinh tế - xã hội, có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vay vốn, cung ứng vật tư cho sản xuất, giao đất, giao rừng, tạo vỉệc làm ổn định, phát triển kỉnh tế rừng, đồi; thực hiện định canh, đinh cư, khắc phục tình trạng du danh, di cư, đốt phá rừng bừa bãi; kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường, sinh thái; thực hỉện chương trình trồng năm triệu héc-ta rừng.

Ra sức phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mỏ rộng các hình thức kinh tế trang trại ở miền núi, củng cố các nông, lâm trường quốc doanh, xây dựng các hợp tác xã theo hướng chuyển đổi, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng xuất, hình thức, bước đi vững chắc, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.

Từng bước đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp, các khu kinh tế quan trọng trên địa bàn miền núi chú trọng thù hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào các vùng nhằm khai thác tốt tiềm năng kinh tế và tạo nên những biến đổi kinh tế to lớn ở miền núi vùng dân tộc thiểu số. Vận động đồng bào dân tộc đầu tư sản xuất, không để tư thương lợi dụng làm lực lượng vận chuyển hàng lậu, gian lận thương mại qua biên giới. 

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM BAO GỒM NHỮNG NỘI DUNG NÀO?

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở Việt Nam bao gồm các nội dung sau:  

1) Ban hành và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về lĩnh vực công tác dân tộc.

2) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân tộc; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc, chính sách đặc thù, các chương trình, dự án, đề án phát triển vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; tiêu chí phân định vùng dân tộc theo trình độ phát triển, tiêu chí xác định thành phần dân tộc, tiêu chí về chuẩn đói nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số; xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.

3) Kiện toàn bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc từ Trung ương đến cơ sở; thực hiện phân công, phân cấp có hiệu quả trong lĩnh vực công tác dân tộc.

4) Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư.

5) Kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số; việc chấp hành pháp luật về công tác dân tộc, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác dân tộc theo quy định của pháp luật.

6) Tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước bằng nhiều biện pháp, hình thức để đồng bào các dân tộc hiểu rõ và chủ động tham gia vào quá trình thực hiện.

7) Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị và trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc.

8) Xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc.

9) Thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.

10) Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn công tác dân tộc, chiến lược công tác dân tộc, chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc.

11) Hợp tác quốc tế về công tác dân tộc. 

HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013 QUY ĐỊNH CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ NHƯ THẾ NÀO?

Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc;3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

Điều 42 quy định: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.

Điều 58 quy định: 1. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình, và trách nhiệm của Nhà nước trong việc phát triển vùng đồng bào dân tộc. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Điều 61 quy định: Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ TÔN TRỌNG, GIÚP NHAU CÙNG PHÁT TRIỂN GIỮA CÁC DÂN TỘC ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO?

Tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển giữa các dân tộc vừa là một yêu cầu khách quan trong quan hệ dân tộc vừa là nguyên tắc chỉ đạo và mục tiêu của sự phát triển mối quan hệ dân tộc ở nước ta. Các dân tộc có dân số, trình độ phát triển không đều nhưng tất cả các dân tộc đều bình đẳng, đều được tôn trọng, không bị phân biệt, đối xử, kỳ thị dân tộc. Chính sự tôn trọng, thương yêu và tin cậy lẫn nhau giữa các dân tộc là cơ sở để đoàn kết, hợp tác một cách bình đẳng, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

Sự tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc mang tính đa chiều. Các dân tộc có dân số nhiều hơn, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn, có trách nhiệm quan tâm, giúp các dân tộc thiểu số sống ở vùng cao, vùng sâu, những nơi điều kiện khó khăn chậm phát triển. Mặt khác, dân tộc đa số cũng được hưởng lợi từ sự ổn định và phát triển của cộng đồng các dân tộc thiểu số, tạo thành sự phát triển chung của quốc gia dân tộc.

Sự phát triển của các dân tộc được hiểu là phát triển toàn diện, bền vững trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và an ninh, quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Trong đó, coi phát triển kinh tế là nền tảng, phát triển văn hóa, xã hội là khâu đột phá. các dân ngày càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính sách phát triển toàn diện các dân tộc, đặc biệt ở miền núi là bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Đây không chỉ là nhiệm vụ của mỗi dân tộc mà còn là sự nghiệp chung của cả nước, trong đó sự giúp đỡ của Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng để các dân tộc thiểu số tự vươn lên, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, tiến kịp trình độ chung của cả nước.

 Để thực hiện tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc phải chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc. 

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DÂN TỘC ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO?

Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc trong giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Theo đó, các dân tộc nước ta dù đa số hay thiểu số, không phân biệt trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực. Bình đẳng dân tộc phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và trong các bộ luật ở nước ta qua các thời kỳ.

Bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, quyền tham gia vào đời sống chính trị của quốc gia, có quyền lợi và nghĩa vụ xây dựng hệ thống chính trị, chống phân biệt đối xử vì lý do dân tộc.

Bình đẳng về quyền và cơ hội phát triển kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và các vùng. Đảng và Nhà nước nhất quán chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc.

Bình đẳng về quyền và cơ hội phát triển văn hóa các dân tộc hài hòa trong một nền văn hóa quốc gia đa dân tộc; các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của mình, hưởng thụ văn hóa và dân trí ngày càng được nâng cao; đấu tranh chống phân biệt, kỳ thị văn hóa các dân tộc thiểu số, chống các tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình” trên nhiều lĩnh vực văn hóa xã hội.

Trong thời kỳ đổi mới, bình đẳng dân tộc thể hiện trong phát triển, “cùng phát triển” giữa các dân tộc. Mỗi dân tộc được bảo đảm và tạo điều kiện để có cơ hội phát triển, cùng làm chủ đất nước. Thực hiện bình đẳng gắn liền với bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn nhằm giảm bớt khoảng cách phát triển giữa nông thôn và đô thị, miền núi và đồng bằng.   

Bình đẳng dân tộc là cơ sở để thực hiện đoàn kết dân tộc, có đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc và tôn trọng giúp nhau cùng phát triển là điều kiện để thực hiện bình đẳng và đoàn kết. 

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2024

“THÍCH ĐỦ THỨ” NGUYỄN MINH PHÚC ĐÃ BỊ BẮT

Ngày 06/12/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, TP.Hồ Chí Minh đã khởi tố bị can và bắt tạm giam Nguyễn Minh Phúc (tự xưng Thích Tâm Phúc, 40 tuổi, ngụ huyện Củ Chi) về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Trước đó như một số bài viết đã đăng tải, Nguyễn Minh Phúc (sinh năm 1983, ngụ tại nhà số 174/13A ấp Láng Cát, xã Tân Phú Trung (tự xưng là “chùa Hoằng Pháp Trung ương”) giả dạng tu sĩ Phật giáo đã được cộng đồng mạng chia sẻ sau khi nhiều hình ảnh đăng tải khi y bị lực lượng chức năng triệu tập về trụ sở công an khi có khả năng đang “bay lắc” tại một quán bar.

Những năm gần đây, cộng đồng mạng cũng từng đăng tải xôn xao về việc Nguyễn Minh Phúc làm giả các giấy tờ, làm giả huân chương, bằng khen của lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ… và tự xưng là “Đại đức Thích Tâm Phúc”, "trụ trì chùa Hoằng Pháp Trung ương"... Vậy nhưng trên thực tế, các giấy tờ như chứng điệp thọ giới, giấy chứng nhận Tăng Ni, quyết định bổ nhiệm trụ trì “chùa Hoằng Pháp Trung ương”… mang tên “Đại đức Thích Tâm Phúc” (Nguyễn Minh Phúc) được ghép, sao chụp ảnh chữ ký của lãnh đạo và khuôn dấu của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN...

Các loại giấy tờ chứng minh là tu sĩ, các quyết định bổ nhiệm đối với ông Nguyễn Minh Phúc (sinh năm 1983) với chữ ký của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Hòa thượng Trưởng ban Tăng sự Trung ương, khuôn dấu của Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN cấp cho ông Nguyễn Minh Phúc đều do ông Phúc tự làm, giả mạo. Không nhưng thế, các huân chương, huy chương, bằng khen của lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ cũng được cơ quan chức năng khẳng định là do ông Phúc tự làm giả...

Sau bao lần bị xử phạt vi phạm hành chính và gây xôn xao cộng đồng mạng xã hội với những phát ngôn sai sự thật, chia sẻ những thông tin trái với quy định của pháp luật, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc thì giờ đây Nguyễn Minh Phúc đang chuẩn bị phải trả giá đắt cho những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến “lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”./. 

TẠI SAO SỐ CHỐNG ĐỐI, THIẾU THIỆN CHÍ LẠI “CUỒNG” VỚI MỘT SỐ PHÁT NGÔN CỦA ÔNG LƯU BÌNH NHƯỠNG

Kể từ khi ông Lưu Bình Nhưỡng, Phó Trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị Công an tỉnh Thái Bình khởi tố, bắt tạm giam với cáo buộc cưỡng đoạt tài sản, trên một số diễn đàn không gian mạng đã có một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí liên tục đăng tải nhiều bài viết để tôn vinh, ca ngợi về những phát biểu, những hành vi của ông Lưu Bình Nhưỡng, xem đó như là một “biểu tượng” của một vị lãnh đạo. Điển hình trong số đó là bài viết “Những phát biểu “dậy sóng” của Tiến sĩ Lưu Bình Nhưỡng” đăng tải trên trang BBC Tiếng Việt vào ngày 21/11/2023 vừa qua đang nhận vô số gạch đá và sự lên án của dư luận, mạng xã hội.

Trang mạng này đã trích dẫn nhiều câu phát biểu của ông Lưu Bình Nhưỡng trước các cuộc họp, nghị trường Quốc hội như câu nói “những cán bộ vi phạm luật pháp đều là những người học theo gương Bác Hồ”, “Cả đại đội công an tấn công dân Đồng Tâm”, “theo số liệu tính toán qua báo cáo, tôi thấy vi phạm của cơ quan điều tra rất khủng khiếp”… Và từ đó họ cho rằng những phát biểu “dậy sóng” này của ông Lưu Bình Nhưỡng là một người tốt.

Vậy nhưng trên thực tế, chính những phát biểu trên của ông Lưu Bình Nhưỡng là điều kiện, chất xúc tác để cho không ít các báo đài, trang mạng phản động lợi dụng để xuyên tạc, chống phá đất nước, chống phá chế độ, bôi đen hình ảnh, thân thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lực lượng công an, lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong thời gian qua.

Ở đây, chúng ta cần phải thấy như ý kiến phát biểu trước báo giới của Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên liên quan đến trường hợp bắt ông Lưu Bình Nhưỡng thì rõ ràng những đóng góp tốt thì chúng ta phải ghi nhận nhưng những vi phạm của ông Lưu Bình Nhưỡng cũng phải xử lý. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã quyết định xử lý thì chắc chắn có đủ căn cứ.

Vụ việc liên quan đến ông Lưu Bình Nhưỡng sẽ sớm được đưa ra ánh sáng, kẻ nào có hành vi vi phạm pháp luật chắc chắn sẽ bị xử lý nghiêm minh. Còn chiêu trò lợi dụng những phát biểu mang tính “dân tuý” của ông Lưu Bình Nhưỡng để tôn vinh, cổ suý và thậm chí làm bàn đạp cho việc “tẩy tội” cho hành vi vi phạm pháp luật của ông Lưu Bình Nhưỡng là điều cần phải lên án./. 

VIỆT NAM CHỈ CẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH MỘT LUẬN ĐIỆU XẢO QUYỆT

Trong thời gian gần đây các thế lực thù địch tiếp tục điên cuồng chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng. Một trong các luận điệu mới chúng đưa ra là: Ở Việt Nam hiện nay chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, không cần đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng lập luận rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đến nay đã hết thời, nó là sản phẩm của thế kỷ XIX, đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI là không phù hợp. Bởi vì thế giới trong những năm qua đã thay đổi quá nhiều, thời đại này là thời đại mới, thời đại của khoa học và công nghệ… Bên cạnh đó chúng còn cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện rồi, về khía cạnh nào đó có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh còn cao hơn chủ nghĩa Mác - Lênin.

Có thế thấy rằng, những luận điệu nêu trên đưa ra là hoàn toàn sai trái, cần phải phê phán. Mục đích là đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tách biệt ra từ đó làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh không có nền tảng lý luận vững chắc. Từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới phủ nhận luôn cả tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời cho đến nay đã thể hiện bản chất cách mạng, khoa học của nó. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta, tư tưởng đó đã soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Từ đó có thể thấy luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, cần phải đấu tranh bác bỏ. Thực chất là âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch./. 

GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 “Phi chính trị hóa quân đội” là một âm mưu nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội với luận điệu: Quân đội là một tổ chức quân sự, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước, được tổ chức ra để bảo vệ lợi ích quốc gia nói chung, chỉ tuân theo Hiến pháp. Theo đó quân đội trung lập về chính trị (không có quân đội xã hội chủ nghĩa hay quân đội tư bản chủ nghĩa), đứng ngoài những biến động chính trị - xã hội, đứng ngoài cuộc đấu tranh của các đảng phái chính trị giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước. Vì thế quân đội không chịu sự lãnh đạo của bất cứ Đảng phái chính trị nào.

“Phi chính trị hóa quân đội” thực chất là âm mưu, thủ đoạn chính trị nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức truyền bá quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” nhằm lôi kéo quân đội xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm cho quân đội bị tha hóa, biến chất về chính trị và bị vô hiệu hóa, làm cho Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân mất chỗ dựa vững chắc để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Xét về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng một cách khách quan, khoa học nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội, khẳng định quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài người. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước của giai cấp thống trị và để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã tổ chức ra quân đội thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước. V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Điều quan tâm đầu tiên của bất cứ cuộc cách mạng thắng lợi nào, - như Mác và Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh - là đập tan, là giải tán quân đội cũ, thay nó bằng một quân đội mới”(1).

Trong nhiều bài viết của mình, Lênin đã sử dụng các cách diễn đạt khác nhau về quân đội vô sản. Các cụm từ “quân đội cách mạng”, “quân đội mới”, “đạo quân mới”, “tổ chức quân sự mới”, “đạo quân xã hội chủ nghĩa”, “Hồng quân xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân”… được Lênin dùng nhiều lần trong thực tiễn lãnh đạo, tổ chức, xây dựng quân đội, là các cách biểu đạt khác nhau về quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lênin cho rằng quân đội của chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Về bản chất chính trị của quân đội, Người chỉ rõ: hiện nay cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập và quân đội không thể cũng như không nên trung lập, không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ, bọn giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản. Trong các công trình nghiên cứu của mình, Lênin đã được đề cập đến khá nhiều luận điểm kinh điển nhằm khẳng định bản chất của quân đội cách mạng. Những luận điểm đó toát lên một số vấn đề lý luận chủ yếu như sau:

Thứ nhất, không thể có thứ quân đội phi chính trị, phi giai cấp, quân đội “trung lập”, “đứng ngoài chính trị”.

Thứ hai, bất cứ quân đội nào thì về vấn đề chính trị của quân đội cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu, đó thực chất là vấn đề bản chất giai cấp, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, do ai tổ chức và lãnh đạo, chiến đấu cho ai, vì ai.

Thứ ba, chính trị của quân đội vô sản là thực hiện chính trị của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ Đảng, Tổ quốc và nhân dân, biểu hiện tập trung ở chiến đấu đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, xây dựng quân đội về chính trị là yêu cầu cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, để xây dựng “Hồng quân vững mạnh”.

Thứ năm, xem nhẹ buông lỏng vấn đề xây dựng quân đội về chính trị là làm suy yếu, thậm chí làm biến chất quân đội.

Thứ sáu, quân đội vô sản “do một bộ phận tiên tiến những người cộng sản” lãnh đạo, Đảng Cộng sản là người “lập ra quân đội”, “chỉ huy quân đội”, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng: “thành lập các chi bộ cộng sản trong mỗi một đơn vị quân đội”(2).

Những vấn đề lý luận trên rất quan trọng, hợp thành một chỉnh thể thống nhất và toàn diện, phản ánh giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, dài lâu của tư tưởng xây dựng quân đội kiểu mới của V.I.Lênin, có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta hiện nay trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

Tiếp thu học thuyết Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời sẵn sàng làm nhiệm vụ quốc tế cao cả. Từ quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã không tiếp thu các đội quân của chế độ phong kiến để lại mà xây dựng quân đội nhân dân từ không đến có, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đó là những đội Tự vệ công nông đầu tiên trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), những đội du kích hình thành từ các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn… Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và căn dặn: “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền vận động trọng hơn tác chiến”, “người trước súng sau”… đã đề cập rất rõ những vấn đề cơ bản trong xây dựng quân đội như mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất, chức năng, nhiệm vụ… của quân đội. Tên gọi: “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” thể hiện tư tưởng đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi mới thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, quân đội ta đã là quân đội mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba BCHTƯ Đảng khóa II, tháng 04 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ quân đội ta có lập trường chính trị vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo - tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy rõ quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân, quân đội ta là của nhân dân và do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành trong gần 70 năm qua đã chứng minh Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành tin cậy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại phải xây dựng toàn diện các yếu tố, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Như vậy, những người đưa ra quan điểm “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam đã thể hiện ý thức “mơ hồ về chính trị” hoặc vì có ý đồ cá nhân đã cố tình làm ngơ không hiểu rõ bản chất giai cấp của quân đội nói chung cũng như bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam - có sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Có thể nói những người đưa ra quan điểm nói trên chưa nghiên cứu kỹ về lý luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của quân đội, chưa hiểu rõ ngọn nguồn của quan điểm: “phi chính trị hóa quân đội” xuất hiện như thế nào và với mục đích gì, nhất là chưa am hiểu sâu sắc về bản chất giai cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chính vì vậy người viết muốn góp một phần nhỏ - bằng những kiến thức được trang bị, vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch, vạch trần bản chất chính trị phản động, phản khoa học của quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn, là nhân danh “dân chủ hóa” để “lừa bịp về chính trị”, thực chất là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, hòng “chuyển hóa” lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.

Lịch sử thế giới đương đại đã cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô - viết vào cuối năm 1991. Mặc dù lúc đó quân đội Liên Xô còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại, vượt xa các nước cả về lực lượng chiến đấu thông thường và lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng do bị tha hóa, biến chất về chính trị nên mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng mọi biện pháp để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” như: tuyên truyền phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận nguyên tắc: “Đảng lãnh tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam”, đòi xóa bỏ hoạt động CTĐ, CTCT, cùng với hệ thống cơ quan chính trị trong quân đội, xuyên tạc bản chất truyền thống tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội… đặc biệt gần đây, trong quá trình tham gia góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có một số ý kiến khác nhau về quy định ở điều 70 (sửa đổi, bổ xung điều 45) trong dự thảo Hiến pháp về nội dung: “ Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân”. Đặc biệt là có những ý kiến vì nhiều động cơ mục đích không lành mạnh, đưa ra quan điểm: “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, đòi quân đội đứng ngoài chính trị, trung lập về chính trị.

Trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, chúng ta khẳng định chắc chắn rằng Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân đồng thời có tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bản chất quân đội kiểu mới thể hiện rõ rệt ở sự thống nhất hữu cơ giữa tính Đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị - xã hội, cơ chế lãnh đạo chỉ huy và chức năng nhiệm vụ của quân đội.

Lý tưởng chiến đấu của quân đội ta là vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cơ sở chính trị - xã hội của quân đội ta là phong trào cách mạng của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và gắn bó máu thịt với nhân dân. Quân đội được xây dựng trên nền tảng vũ trang toàn dân và là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ nhân dân mà ra, các thế hệ Bộ đội Cụ Hồ đều được tuyển chọn từ con em các tầng lớp nhân dân. Quá trình trưởng thành của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội có những đặc điểm riêng, song đều có cái chung là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tôi luyện của tổ chức quân sự và hoạt động quân sự, được nhân dân hết lòng nuôi dưỡng, giáo dục và rèn luyện.

Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, thông qua hệ thống tổ chức Đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở. Nhà nước thống nhất quản lý đối với quân đội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức Đảng trong quân đội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách theo chức trách, nhiệm vụ.

Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện xuyên suốt của các tổ chức đảng, trong quân đội thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 513 của Đảng ủy quân sự trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).

Các chức năng nhiệm vụ của quân đội ta có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu rộng. Trong chiến đấu, quân đội ta thực hiện xuất sắc vai trò nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, xả thân hy sinh để giải phóng và bảo vệ nhân dân. Trong lao động sản xuất, quân đội ta tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh, xung kích đến những vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ để xây dựng những khu kinh tế - quốc phòng, những công trình có ý nghĩa chiến lược quốc gia. Trong thực hiện chức năng đội quân công tác, quân đội ta luôn đồng cam cộng khổ cùng nhân dân, tích cực vận động và giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm nghèo, luôn xung kích đi đầu trong cứu trợ cứu nạn, hết lòng, hết sức giúp đỡ nhân dân phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, xả thân trong hiểm nguy để cứu tính mạng và tài sản cho nhân dân.

Như vậy, chúng ta thấy với bản chất và truyền thống của quân đội ta, chúng ta tin tưởng rằng quân đội sẽ luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng, luôn là lực lượng trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Và để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá quân đội ta của các thế lực thù địch, chúng ta cần làm tốt công tác giáo dục cho bộ đội, nâng cao bản lĩnh chính trị, giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo ra sự “miễn dịch” cần thiết, tăng cường sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các tư tưởng phi vô sản vào quân đội. Đấu tranh kiên quyết trước mọi biểu hiện lơ là, chủ quan mất cảnh giác dẫn đến hậu quả nguy hại đối với bản chất chính trị và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động hoặc chỉ hô hào chung chung mà trên thực tế không đấu tranh. Cần tăng cường giáo dục giác ngộ cho cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam./.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ ĐÍCH ĐẾN HIỆN THỰC

Hoàn toàn có cơ sở khoa học để khẳng định chắc chắn rằng: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không hề viễn vông, bất định như chủ nghĩa tư bản mà các thế lực thù địch xuyên tạc. Ngược lại nó được minh chứng thuyết phục, sinh động cả về lý luận và thực tiễn.

Trước hết, Chủ nghĩa xã hội là sự vận động tất yếu của lịch sử. Bằng hai phát kiến vĩ đại là học thuyết giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã luận giải thuyết phục sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Dựa trên các quy luật vận động nội tại của xã hội, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và quy luật mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, C.Mác đã đi đến khẳng định: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Ở đây C.Mác và Ph.Ănghen đã phát triển CNXH từ không tưởng thành khoa học khi luận chứng nó từ quy luật vận động của lịch sử như sự vận động tất yếu của các quy luật kinh tế, quy luật xã hội đã hình thành ngay trong lòng CNTB. Vì vậy, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “C.Mác hoàn toàn chỉ dựa vào những quy luật kinh tế của sự vận động xã hội hiện đại mà kết luận rằng xã hội TBCN nhất định sẽ phải chuyển biến thành xã hội XHCN” và “Chỉ có học thuyết kinh tế của C.Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp công nhân trong toàn bộ chế độ TBCN”. Như vậy, biện chứng khách quan của lịch sử chính là sự vận động phát triển không ngừng của các hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, hình thái kinh tế - xã hội XHCN tất yếu sẽ thay thế hình thái kinh tế - xã hội TBCN. Con đường đi lên của nhân loại không gì khác là CNCS mà giai đoạn thấp là CNXH - Đó là tất yếu của lịch sử chứ không phải là ảo vọng hay sự tự biện của những người cộng sản.

Thứ hai, mục tiêu của CNXH là không xa vời mà rất cụ thể. Đó là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ sự phân chia giai cấp, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do, hạnh phúc. Ở CNXH có sự khác biệt rất căn bản so với tất cả các phương thức sản xuất trước đó chính là nằm ở mục tiêu hay con đường đi tới. Nếu như trong xã hội trước đây chỉ là sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ là thay thế giai cấp thống trị này bằng giai cấp thống trị khác, quần chúng cần lao vẫn là giai cấp bị trị, vẫn chịu sự bóc lột bằng cách này hoặc cách khác. Cách mạng XHCN đi trái lại với quy luật thay thế giai cấp thống trị quần chúng cần lao. CNXH là một xã hội được xây dựng nhằm hướng tới mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người.

Mục tiêu này cũng đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rất rõ ràng, cụ thể:

Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác đã khẳng định cả về lý luận và thực tiễn sự vận động phát triển của cách mạng vô sản thế giới. Trên cơ sở khẳng định những mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa trong xã hội tư bản, C.Mác đã chứng minh CNTB nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội mới - XHCN. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với bộ tham mưu chiến đấu là Đảng cộng sản nhằm đấu tranh lật đổ chế độ áp bức, bóc lột của CNTB, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, bình đẳng. Luận điểm này được C.Mác khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.

Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen về CNXH và con đường đi lên CNXH, dựa trên thực tiễn xây dựng CNXH sau cách mạng tháng Mười Nga, V.I.Lênin khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến CNXH, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi một dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. Rõ ràng với luận điểm này, V.I.Lênin đã chỉ ra xu thế tất yếu của thời đại là quá độ đi lên CNXH trên toàn thế giới với mục tiêu rất cụ thể là xây dựng thành công CNXH. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau thì lựa chọn con đường, cách thức, biện pháp khác nhau. Mỗi quốc gia phải dựa vào đặc điểm tình hình cụ thể của mình để định hình con đường đi lên CNXH phù hợp. Tùy theo tư duy, nhận thức, cách thức tổ chức thực hiện ở từng Đảng cộng sản, từng quốc gia khác nhau sẽ có độ dài ngắn trên con đường đi đến đích khác nhau. V.I.Lênin không chỉ chỉ ra con đường đi lên CNXH mà còn hiện thực hóa nó bằng các chính sách cụ thể để xây dựng CNXH. Chính V.I.Lênin là người tổ chức, lãnh đạo cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, khai sinh ra và tổ chức xây dựng nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đến Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh nhưng đều không thể tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Cho đến khi Người bắt gặp Luận cương của V.I.Lênin về Dân tộc và thuộc địa, Người đã nhất quyết đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Vì chỉ cách mạng vô sản mới đảm bảo cho dân tộc Việt Nam được độc lập, người dân Việt Nam được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người khẳng định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Vì ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc và mục tiêu, lí tưởng cách mạng XHCN phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ý thức rất rõ việc giải phóng dân tộc đã rất khó khăn, xây dựng CNXH còn khó khăn hơn rất nhiều, nó đòi hỏi sự đoàn kết, đồng thuận của toàn thể nhân dân. Người chỉ ra: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”.

Thứ ba, Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội đã được hiện thực hóa trên thực tế - khác biệt về chất so với các chế độ xã hội trước đó. Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH và cách mạng vô sản trên toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu sắc đối với việc xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp - xã hội XHCN. Trước năm 1917 chưa có cuộc cách mạng nào trong lịch sử có thể biến khát vọng tự do, bình đẳng của quần chúng cần lao thành hiện thực. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga là kết quả hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trên thực tế, biến khát vọng sống hòa bình, độc lập, tự do, bình đẳng thành hiện thực. Từ đây học thuyết của chủ nghĩa Mác về CNXH khoa học đã trở thành CNXH hiện thực với đầy đủ hình hài của một xã hội tương lai. Cách mạng tháng Mười Nga đã giải phóng giai cấp vô sản Nga thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản; giải phóng giai cấp nông dân khỏi gông cùm của địa chủ phong kiến; giải phóng các dân tộc trong đế quốc Nga ra khỏi xiềng xích của chế độ Nga hoàng. Đồng thời mở đường cho nhân dân Liên Xô xây dựng chế độ mới - chế độ XHCN; Biến đế quốc Nga nghèo nàn về kinh tế, lạc hậu về chính trị, yếu kém về quốc phòng thành một cường quốc XHCN, xứng đáng là thành trì của hòa bình và cách mạng vô sản toàn thế giới - đó là những hiện thực không thể bác bỏ, phủ nhận.

Thứ tư, Chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Đây là minh chứng sinh động, cụ thể về một mô hình CNXH được xác định qua 8 đặc trưng cơ bản về mục tiêu; về trình độ lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; nền văn hóa; về con người, về nhà nước pháp quyền XHCN… 8 đặc trưng này là sự khái quát hóa mô hình của CNXH, nó không chỉ dừng lại trong chiến lược, trong nghị quyết mà được hiện thực hóa trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Biểu hiện cụ thể nhất là thực hiện dân chủ XHCN “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đó là những minh chứng rõ ràng, thuyết phục nhất về sự hiện thực hóa nội hàm của con đường đi lên CNXH. Bởi xét cho cùng giá trị của cách mạng XHCN đều kết tinh ở chỗ người dân làm chủ cái gì, thụ hưởng được cái gì. Và cũng chính điều này khẳng định sự khác biệt về bản chất của chế độ XHCN so với chế độ TBCN. Rõ ràng là chúng ta không chỉ xác định con đường mà chúng ta còn nỗ lực cao độ để đi trên con đường CNXH; chúng ta không phải xác định mục tiêu xa vời mà được cụ thể hóa sinh động trong việc thụ hưởng các giá trị CNXH của mỗi người dân Việt Nam. Đó cũng là những lí lẽ sắc sảo nhất về sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn của con đường cách mạng XHCN ở Việt Nam.

Kiên định niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã chọn: Cả lý luận và thực tiễn cho thấy con đường đi lên CNXH là con đường đúng đắn, hiện thực, phù hợp với xu thế thời đại và khát vọng của dân tộc Việt Nam. Xây dựng CNXH là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy gian nan thử thách, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể chủ quan nóng vội, cũng không bi quan dao động, lung lay niềm tin. Vì vậy, cần thống nhất tư tưởng, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH trên cơ sở đó kiên định niềm tin vào tương lai và sự thắng lợi của CNXH. Đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị cho quá trình xây dựng CNXH. Đó cũng chính là cội nguồn sức mạnh để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu, cống hiến, xây dựng và hiện thực hóa CNXH trên đất nước Việt Nam./. 

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2024

QUAN ĐIỂM VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC ĐƯỢC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII NHƯ THẾ NÀO?

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định:

Tiếp tục khẳng định đại đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược, vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.

Xác định phương hướng, mục tiêu chung về công tác dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025: Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đây là nét mới nổi bật trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII.

Nhấn mạnh vấn đề “bảo đảm” trong chính sách dân tộc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Việc khẳng định nội dung này, thể hiện quan điểm của Đảng về hiện thực hóa đường lối giải quyết vấn đề dân tộc bằng những chính sách cụ thể bảo đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát triển của các dân tộc thiểu số được thể hiện sinh động trong thực tiễn, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo an ninh xã hội, thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và mức sống so với vùng phát triển; nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng toàn diện, bền vững, hòa nhập và phát triển cùng với đất nước.

Nhiệm vụ của công tác dân tộc cần tập trung giải quyết là: Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số.

Xác định nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về chính sách dân tộc giai đoạn 2021 – 2025: Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặct hù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2012 - 2030. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi. 

KẾT LUẬN SỐ 65-KL/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ RA NGÀY 30/10/2019, VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 24-NQ/TW NGÀY 12/3/2003 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA IX) VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG TÌNH HÌNH MỚI XÁC ĐỊNH CÁC NỘI DUNG CÔNG TÁC DÂN TỘC CƠ BẢN CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN?

Kết luận  đã xác định tám nội dung công tác dân tộc cơ bản cần tập trung thực hiện:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Ðảng về công tác dân tộc trong Nghị quyết 24 và các nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII; xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số.

Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quốc phòng - an ninh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết.

Bốn là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hóa, tập quán từng dân tộc. Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, tạo sản phẩm đặc sản, giá trị cao.  

Năm là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Sáu là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết những mâu thuẫn ngay từ cơ sở, kiên quyết không để xảy ra các điểm nóng, điểm phức tạp về an ninh trật tự, đặc biệt ở các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền trung. Chủ động đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, buôn bán người, ma túy, xâm phạm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nhất là ở khu vực biên giới. Tăng cường quan hệ hợp tác, đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân vùng biên giới.

Bảy là, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số và khắc phục tình trạng không có tổ chức đảng và đảng viên ở các thôn, bản, nhất là đảng viên là người dân tộc thiểu số ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường hoạt động của các mô hình tự quản tại cộng đồng; biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tám là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, lồng ghép, tích hợp các chính sách hiện hành để hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách dân tộc. Ðổi mới mô hình tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. 

NỘI DUNG QUAN ĐIỂM VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG?

Đại hội XII tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn những nội dung cơ bản:

Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung.

Đại đoàn kết toàn dân tộc được hiểu là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, tôn giáo… bao gồm cả bộ phận định cư ở nước ngoài. Đoàn kết các dân tộc là đoàn kết các thành phần dân tộc trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết các dân tộc trong giai đoạn mới là nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.

Khẳng định nhân tố quan trọng để phát triển các dân tộc hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. 

QUAN ĐIỂM VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)?

Về vị trí của đoàn kết các dân tộc: Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.

Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc, xây dựng đoàn kết các dân tộc Việt Nam: Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Một số nội dung phải thực hiện tốt trong thời gian tới để xây dựng, củng cố đoàn kết các dân tộc Việt Nam: Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công tác dân tộc: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. 

Những định hướng cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc; các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.