Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2020

NHỮNG KẺ GIEO LỜI ĐỘC ÁC, BỊA ĐẶT CẦN “TU” CÁI MIỆNG ĐỂ KHÔNG GIEO KHẨU NGHIỆP

Những kẻ đó có biết rằng, quân đội tham gia cứu hộ, cứu nạn, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai là một nhiệm vụ chiến đấu thời bình. Hành động tiến nhanh về những "điểm nóng", về nơi hiểm nguy, những nơi người dân đang kêu cứu, đói khát, tuyệt vọng, thậm chí đang cận kề cái chết... luôn là mệnh lệnh không lời, mệnh lệnh từ trái tim mỗi người lính Cụ Hồ. Vì muốn cứu giúp nhân dân trong thiên tai hoạn nạn mà họ đã hy sinh, đúng như lời điếu văn của đồng chí Tư lệnh Quân khu 4 đọc trong lễ truy điệu 13 liệt sĩ hôm 18-10: “Chúng ta đã, đang thực sự sống trong cuộc chiến đấu giữa thời bình, hành động “phía trước là nhân dân” với mệnh lệnh từ trái tim, luôn sẵn sàng có mặt ở nơi hiểm nguy để cứu giúp nhân dân là hành động cao đẹp, thể hiện sâu sắc phẩm chất sáng ngời và bản lĩnh của Bộ đội Cụ Hồ; của những công chức, viên chức mẫu mực, trách nhiệm, tận tụy, thực sự là công bộc, là người “đày tớ” trung thành của nhân dân!’’.

Phát biểu tại Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương nêu rõ: “Ở đâu nhân dân gặp khó khăn, gian khổ, thiên tai, dịch bệnh thì ở đó có bộ đội giúp dân”. Sự hy sinh của các cán bộ, chiến sĩ vừa qua đã một lần nữa minh chứng điều đó. Đó cũng là điều mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần phát biểu và gần đây nhắc lại: Trong những diễn biến phức tạp của tình hình, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là quân đội của nhân dân, quân đội trong lòng dân. Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường...

Trong những tình huống nguy nan nhất, khó khăn nhất, những phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ xả thân vì dân, vì nước đã thực sự in đậm trong trái tim đồng bào, đồng chí. Những phẩm chất ấy, danh xưng ấy tuyệt đối không phải là khẩu hiệu mà đã thấm sâu vào từng suy nghĩ, việc làm của mỗi người lính. Sống là cho và chết cũng là cho!

Những kẻ gieo lời ác độc có biết rằng, những vị tướng, cán bộ cao cấp mà họ xuyên tạc đều là những cán bộ hàng chục năm lăn lộn dọc ngang những vùng đất sáng ngăn bão dông, chiều ngăn nắng lửa; binh nghiệp cách mạng của họ là những cuộc hành quân không nghỉ đi hết cơn bão này đến cơn bão khác, hết sự cố này đến tai nạn kia, có mặt khắp mọi miền đất nước. Những người lính ấy từng là ân nhân cứu sống và hỗ trợ biết bao cuộc đời người dân lam lũ. Không phải ngẫu nhiên mà trong mấy ngày đêm vừa qua, hàng triệu tài khoản mạng xã hội đã đặt biểu tượng những người lính âm thầm khoác áo bào đi trong gió mưa hoặc ẩn trong hình ngôi sao trên nền cờ Tổ quốc hay chia sẻ những lời xúc động: “Dòng tên anh khắc vào đá núi”, “Áo bào thay chiếu anh về đất”...

Sự hy sinh cao cả của các anh chính là phẩm chất, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là khí chất Trường Sơn năm xưa vẫn chảy mãi trong huyết quản mỗi người lính thời bình hôm nay. Đó là điều cao quý, thiêng liêng mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn trân trọng, tự hào. Đó là những biểu tượng, là ngôi đền thiêng không cho phép những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ chỉ "nhìn đời không qua khỏi lỗ đồng xu" tùy tiện đơm đặt, phỉ báng. 

Dư luận nhân dân và tất cả cán bộ, chiến sĩ trong quân đội đều rất bất bình trước những thông tin sai trái, xuyên tạc của các đối tượng nêu trên; đề nghị các cơ quan chức năng cần sớm xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm minh những kẻ gieo lời ác độc, vô lương tâm đó!

KHÔNG THỂ VẤY BẨN SỰ HY SINH CAO CẢ CỦA NGƯỜI LÍNH

Đã có những bài học đắt giá, tại sao vẫn có nhiều đối tượng với suy nghĩ lệch lạc, "ăn cháo đá bát", táng tận lương tâm, bôi nhọ những người xả thân, quên mình vì cuộc sống và sự bình yên của nhân dân?

Chúng tôi cho rằng, do nhiều nguyên nhân nhưng có một lý do quan trọng là việc xử lý những đối tượng vi phạm chưa triệt để, kịp thời dẫn đến việc “nhờn luật”, coi thường kỷ cương phép nước.

Còn nhớ sau vụ án giết người và chống người thi hành công vụ đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội), có nhiều kẻ xưng là "dân chủ", "tân tiến" tràn vào trang cá nhân của vợ một chiến sĩ công an hy sinh để xúc phạm chị và cháu bé, chế ảnh tùm lum bậy bạ rằng chị được "thuê để khóc"... Những đối tượng này còn báo cáo đánh sập trang cá nhân của chị, gửi tin nhắn xúc phạm đến gia đình, người thân chị; tìm ra địa chỉ cơ quan chị để quấy rối, đe dọa. Đó là những hành vi vô lương tâm không thể chấp nhận, song đáng tiếc nhiều kẻ vi phạm lại chưa bị trừng trị thích đáng.

Có lẽ, chỉ những kẻ không còn là con người mới đang tâm có những hành vi bịa đặt, bôi nhọ những người đã hy sinh cả tính mạng vì cuộc sống bình yên của cộng đồng, trong đó có cả bản thân họ.

Những luận điệu xuyên tạc, những thông tin sai trái đó khi chia sẻ trên các trang mạng xã hội, có những bài đạt tới hàng nghìn lượt like và bình luận bậy bạ, khiến những người có lương tri và cán bộ, chiến sĩ quân đội rất bất bình. Gia đình, người thân, đồng đội của những người ngã xuống sẽ nghĩ gì trước những thông tin bịa đặt kia và bè đảng những kẻ cấu kết đơm đặt đó lại vẫn nhởn nhơ, không bị trừng trị hay lên án?

Xem lại những hình ảnh cuối cùng tại khu vực thủy điện Rào Trăng 3 ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế ấy, chúng tôi không khỏi nghẹn ngào xúc động khi thấy vị tướng cùng những sĩ quan, lãnh đạo chính quyền và nhà báo ngồi sát bên nhau quanh đống lửa giữa đêm mưa dữ dội nơi núi rừng. Họ vừa hong quần áo, vừa bàn về nhiệm vụ ngày mai, bàn cách gấp rút tiếp cận cứu những công nhân thủy điện đang gặp nạn. Trong clip, hiện lên rõ nét hình ảnh Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó tư lệnh Quân khu 4 ngồi trầm ngâm bên bếp lửa, nét mặt hằn lên những âu lo việc dân, việc nước. Câu nói cuối cùng của anh trong clip nhẹ nhàng nhưng như một mệnh lệnh từ trái tim: “Việc thì gấp, vì nhiệm vụ, vì nhân dân chúng ta phải làm”...  

KHÔNG ĐỂ NHỮNG KẺ “NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU” XÚC PHẠM SỰ HY SINH CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ QUÂN ĐỘI

Những ngày qua, đồng bào cả nước hướng về mảnh đất khúc ruột miền Trung, nơi đã có hàng chục quân nhân ngã xuống khi đi làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai-một nhiệm vụ chiến đấu thời bình của quân đội.

Vậy mà lại xuất hiện những kẻ táng tận lương tâm, vong ơn bội nghĩa cất lên những luận điệu, chia sẻ những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, xúc phạm tới danh dự và sự hy sinh cao quý của những người lính. Đó là điều không thể chấp nhận, cần phải nghiêm trị, không để tái diễn việc cố tình xuyên tạc, xúc phạm sự hy sinh cao cả và làm tổn thương hình ảnh cao quý Bộ đội Cụ Hồ!

Đó là những kẻ trong liên minh ma quỷ “nhà dân chủ”, KOLS, “nhà báo công dân”, những kẻ mà nhiều năm nay thường xuyên dùng mạng xã hội xuyên tạc tình hình đất nước, chống phá Đảng, Nhà nước và lần này là Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trên trang cá nhân của Trương Châu Hữu Danh, một thành viên của nhóm "Báo sạch" đăng dòng trạng thái chia sẻ có vẻ như xót thương, tưởng nhớ 13 cán bộ hy sinh khi làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn. Thế nhưng bên dưới bài viết lại có rất nhiều bình luận xuyên tạc. Bọn họ trắng trợn bịa đặt rằng đoàn cán bộ đi công tác vào thủy điện Rào Trăng không phải vì cứu dân mà vì “có cổ phần trong nhà máy thủy điện”. Thông tin này được các Facebook Bùi Văn Thuận, Người buôn gió và trang Facebook mang tên Lê Hoài Anh, xưng là một nữ doanh nhân đã chia sẻ, tán phát nhằm xúc phạm, bôi nhọ sự hy sinh của một vị tướng quân đội.

Có kẻ là giảng viên đại học phán xét rằng, việc các thiếu tướng, đại tá đi cứu hộ, cứu nạn là không cần thiết, nên để cho chiến sĩ. Chúng xúc phạm sự hy sinh cao cả của các cán bộ, chiến sĩ khi đưa ra luận điệu: Cứ mặc định người của quân đội, công an chết thì thành liệt sĩ còn người dân chết khi lũ lụt, hạn hán thì không ai thương.

Tổ chức khủng bố Việt Tân nhân sự việc này thổi phồng rằng lũ lụt, thiên tai là do lỗi của Đảng. Chúng kích động, bịa đặt rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước không quan tâm đến người dân khốn khổ vì bão lụt, chỉ lo đại hội Đảng...

Theo cơ quan chức năng, có dấu hiệu cho thấy các đối tượng thù địch, cơ hội chính trị đã lợi dụng vấn đề bão lũ ở miền Trung để xuyên tạc, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong phòng, chống thiên tai, vai trò của quân đội trong tham gia cứu hộ, cứu nạn.

Tuy nhiên, những luận điệu xuyên tạc, mượn cả máu xương và sự hy sinh của những người lính xả thân vì dân, vì nước đã khiến dư luận bất bình. Ngay cả khi Trương Châu Hữu Danh cho hiển thị hàng trăm bình luận xấu, vẫn có nhiều ý kiến chân chính phản bác: “Các ông có là con người không khi bình phẩm những người đã chết, họ cho dù thuộc cộng sản, tư bản, vô thần hay có đạo? Một người tử tế luôn tôn trọng những người đã khuất, đó là đạo lý của con người, của sự nhân văn”.

Những hiện tượng đáng buồn nêu trên khiến chúng ta nhớ đến một câu chuyện cách đây gần 5 năm. Vào năm 2016, khi 9 cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ mất tích cùng máy bay CASA 212 trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu nạn phi công và máy bay chiến đấu Su-30MK, người dân cả nước nóng lòng dõi theo từng dòng tin về các anh thì một nhà báo đã dùng mạng xã hội tạo một cuộc thăm dò dư luận với cách đặt câu hỏi "Vì sao CASA tan xác?" cùng với các giả thuyết mang tính suy diễn khiến dư luận rất bất bình, như máy bay "tan xác", "bị bắn", "không loại trừ bị bắn vỡ" hay "máy bay chất lượng kém do tham nhũng trong ngành quốc phòng luôn bị đóng dấu mật"... Hành vi đó đã xúc phạm nghiêm trọng danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam, gây tổn thương sâu sắc đến gia đình, người thân, đồng đội của những cán bộ, chiến sĩ gặp nạn khi đang thực hiện nhiệm vụ, làm tổn hại đến chính uy tín của những người làm báo. Nhà báo trên sau đó đã bị xử lý kỷ luật, thu hồi thẻ nhà báo.

Cách đây vài tháng, Phòng An ninh chính trị nội bộ Công an TP Đà Nẵng đã triệu tập, điều tra và xử phạt nặng một thanh niên đăng tải thông tin xúc phạm uy tín, danh dự hình ảnh lực lượng Công an nhân dân và đăng tin sai sự thật liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đối tượng này đã viết những lời xuyên tạc sự hy sinh của hai chiến sĩ Công an quận Sơn Trà trong vụ truy bắt nhóm cướp giật, đua xe là “cái chết thảm”, “chết như dàn cảnh”... Cho dù đối tượng ban đầu không thừa nhận, quanh co cho rằng tài khoản Facebook bị hack, có người khác chiếm quyền sử dụng... nhưng sau đó, qua đấu tranh đã phải thừa nhận hành vi sai trái và bị xử lý.

THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÌNH HÌNH BÃO LŨ TẠI MIỀN TRUNG ĐỂ XUYÊN TẠC CHỐNG ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA

 Trong lúc Đảng, Nhà nước, người dân đang nỗ lực, đồng lòng để ứng phó, giải quyết hậu quả bão lũ thì số đối tượng chống đối chính trị, phản động lại ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ tình đoàn kết quân dân, tuyên truyền chống phá Nhà nước Việt Nam bằng những thủ đoạn nham hiểm.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã gửi lời chia buồn đến những gia đình có người thân bị nạn do lũ lụt, thăm hỏi, động viên và kêu gọi cả nước chung sức, đồng lòng giúp đỡ bà con vùng lũ; Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Ban Bí thư đã có các công điện chỉ đạo, đồng thời cử các đồng chí lãnh đạo trực tiếp xuống địa bàn, cùng cấp ủy, chính quyền triển khai các giải pháp gấp rút, kịp thời cứu nạn, cứu hộ.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng trực tiếp chỉ đạo công tác ứng phó liên quan đến tình trạng sạt lở đất đặc biệt nghiêm trọng tại thủy điện Rào Trăng 3. Bộ máy chính quyền cơ sở đã tăng cường các biện pháp, công tác để đối phó với tình trạng bão lũ đang diễn biến phức tạp.

Trong lúc Đảng, Nhà nước, người dân đang nỗ lực, đồng lòng để ứng phó, giải quyết hậu quả bão lũ thì số đối tượng chống đối chính trị, phản động lại ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ tình đoàn kết quân dân, tuyên truyền chống phá Nhà nước Việt Nam bằng những thủ đoạn nham hiểm.

Một số trang tin của tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Nhật ký yêu nước”... ra sức đăng tải những thông tin sai trái, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ tại các tỉnh miền Trung. Đáng chú ý, trang tin phản động “Nhật ký yêu nước” thường xuyên đăng tải thông tin tuyên truyền, cắt ghép hình ảnh, video... để vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Những luận điệu xuyên tạc như: “Đại dịch COVID 19, kinh tế suy thoái cộng thêm lũ lụt, người dân lâm vào khó khăn, đói kém, vậy mà Đảng Cộng sản vẫn tưng bừng tổ chức đại hội...”. Những thông tin mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người”, các tổ chức phản động, chống đối liên tục tung ra nhằm gây sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận quần chúng, mục đích nhằm gây chia rẽ giữa người dân với Đảng, chính quyền.

Mục đích của các đối tượng nhằm hướng lái dư luận hiểu sai lệch, cho rằng Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình cảnh khốn khó, cần sự che chở, giúp đỡ nhất. Rằng việc chi ra một số tiền lớn từ tiền thuế do người dân đóng góp để tổ chức đại hội Đảng các cấp lúc này “không khác gì Đảng đang diễn vở kịch trên nỗi đau của đồng bào”.

Đơn cử những luận điệu chống phá, công kích trên là một số linh mục chống đối như N.P. Trên trang facebook của N.P bình luận về mối tương quan giữa việc tổ chức đại hội Đảng và khó khăn người dân vùng lũ miền Trung đang phải gồng gánh, cố gắng vượt qua với những lời lẽ quy kết, xuyên tạc bản chất của công tác đại hội Đảng tại các tỉnh, thành phố, coi đó là “hội nghị giành ghế của những cuộc đấu đá nội bộ, mua quan bán chức một cách có hệ thống và đã tồn tại từ lâu”; vu cáo “mặc cho dân tình đói khổ, chết chóc, lụt lội, nghèo khó... thì đại hội nào cũng được hệ thống báo chí tuyên truyền là thành công tốt đẹp và được sự ủng hộ nhiệt tình của người dân”!

Những luận điệu trên là một trong những thủ đoạn chống phá trước, trong thời điểm diễn ra đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Ở đây, các đối tượng chống phá đã cố tình lợi dụng tình hình thiệt hại do lũ lụt để vẽ ra bức tranh sai lệch, tương phản giữa người dân vùng lũ và việc tổ chức đại hội Đảng các cấp.

Thủ đoạn được chúng sử dụng và thực hiện ở đây là lợi dụng hai sự việc diễn ra cùng một thời điểm để so sánh, tạo nên sự tương phản. Từ đó, cung cấp cho dư luận, những người quan tâm sự đối sánh có tính mâu thuẫn cao và hướng đến mục đích chính là xuyên tạc “sự bàng quan, lãnh đạm của Đảng, nhà nước”, cho rằng Đảng chỉ quan tâm tới công tác đại hội của mình mà bất chấp tính mạng, tài sản của người dân trong bão lũ.

Đây những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, cố tình xuyên tạc sự thật, đưa ra những luận điệu sai trái nhằm gây hiểu nhầm trong công chúng, chia rẽ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Công tác tổ chức đại hội Đảng các cấp là hoạt động 5 năm mới diễn ra một lần với mục đích tổng kết, đánh giá lại chặng đường 5 năm qua và định hướng, đề ra chương trình hoạt động cho thời gian tới; bầu bộ máy nhân sự mới các cấp với các tiêu chí, tiêu chuẩn đề ra.

Với vai trò, ý nghĩa đó, đây là nội dung hệ trọng, quyết định tới sự ổn định, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là tổ chức lãnh đạo Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Với tính chất như vậy, việc tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là cả một quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng theo lịch trình đã đề ra, chỉ trong trường hợp đặc biệt mới có thể hoãn đại hội. Đại hội các cấp diễn ra theo đúng tinh thần tiết kiệm, dân chủ, hiệu quả...

Trong đợt lũ lụt tại miền Trung hiện nay, việc tổ chức đại hội Đảng bộ các tỉnh diễn ra trong tháng 10 này là đảm bảo theo kế hoạch, lộ trình đã đề ra. Đồng thời, trước diễn biến phức tạp của lũ lụt, cấp ủy, chính quyền các địa phương vừa tổ chức đại hội nhưng cũng triển khai ngay các bộ phận, lực lượng chức năng tham gia giúp đỡ, ứng cứu người dân một cách rốt ráo nhất chứ không phải “lo đại hội, bỏ mặc dân” như các đối tượng rêu rao.

Trên thực tế, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nỗ lực, tinh thần đoàn kết của người dân, công tác phòng, chống bão lũ đang được các địa phương xử lý tích cực. Trong cuộc chiến chống thiên tai, đã có những hi sinh, mất mát vô cùng thương tâm khi 13 cán bộ, chiến sĩ trong đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và chính quyền Thừa Thiên - Huế hi sinh.

Trước đó, trong những ngày chưa tìm được thi thể các cán bộ, chiến sĩ bị nạn, tâm trạng lo lắng bao trùm cộng đồng mạng. Dõi tin cứu nạn từ vùng lũ, những vần thơ thương cảm trào dâng: “Còn ai không? Đồng đội ơi.../ Tiếng gọi khàn đi giữa đồi núi lở/ 13 chiến sĩ vượt núi đi cứu người/ 13 con người bị vùi đâu đây... Còn ai không?”... Những dòng thơ tự đáy lòng, da diết tâm can.

Trong suốt mấy ngày đêm, các cơ quan chức năng, đồng đội, nhân dân chạy đua cùng thời gian để tìm kiếm thi thể nạn nhân. Điều kỳ diệu đã không đến, trái tim mỗi người như thắt lại khi lần lượt tìm thấy thi thể 13 cán bộ, chiến sĩ vùi sâu trong bùn đất, còn nguyên sắc phục. Các anh đã mãi mãi ra đi, hy sinh vì đất nước, vì nhân dân.

Hưởng ứng sự kêu gọi của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, những ngày qua, nhiều tổ chức, cá nhân đã chung sức, đồng lòng hướng về người dân vùng lũ miền Trung với bằng cả tấm lòng sẻ chia “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Ấy vậy mà các đối tượng phản động, chống đối vẫn “nước đục thả câu”, lợi dụng cơ hội này để tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước, chống phá đại hội Đảng các cấp, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Điều này càng thể hiện sự vô nhân tính những kẻ phản dân, hại nước.

Những kẻ đội lốt dân chủ, nhân quyền xuyên tạc tàn nhẫn trên nỗi đau thương, mất mát khi nói rằng “Cán bộ vốn sợ chết? Tại sao đoàn cán bộ lại hấp tấp đi vào vùng rừng núi đang lũ và sạt lở như vậy”. Thậm chí còn bịa đặt trắng trợn rằng 99% các dự án thuỷ điện có tài sản, lợi ích của các cán bộ trong đoàn cứu hộ.

Những kẻ này bịa đặt rằng, cùng với dự án thuỷ điện, có công ty tư nhân đằng sau của một số cán bộ trong đoàn cứu hộ, khai thác bán gỗ, bán rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, bán khoáng sản như vàng và kim loại quý, từ đó quy kết cán bộ lại cấp tập băng rừng cứu hộ vì lý do này...

Các đối tượng đã tung lên nhiều trang mạng hải ngoại, phản động, nhiều trang thừa cơ dẫn lại, phân tích, suy diễn, xuyên tạc chống phá. Để lan rộng, số này tung lên mạng xã hội facebook, youtube… những tài khoản có nhiều người theo dõi để tạo làn sóng chỉ trích, miệt thị.

Người Việt chúng ta lấy làm tự hào về tinh thần đoàn kết, truyền thống tương thân, tương ái. Đó chính là thứ vũ khí, sức mạnh mềm để chúng ta đương đầu, đánh thắng nhiều thế lực ngoại xâm cũng như chung tay vượt qua các đợt thiên tai.

Trong lúc này, truyền thống đó đang được đồng bào cả nước thể hiện sâu sắc thì thực sự đáng lên án khi trong đó có những tiếng nói dù mang dòng máu Việt lại thể hiện sự lạc điệu, bất nhân, bất nghĩa. Chính những người đó với những tiếng nói giả danh sự thương cảm người dân vùng lũ miền Trung càng lộ rõ bụng dạ xảo trá, bội bạc với đồng bào.

CHỨC NĂNG THAM GIA LAO ĐỘNG SẢN XUẤT ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH TRONG THỰC TIỄN XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI

Hơn 75 năm qua cho thấy, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Trong kháng chiến chống Pháp, với vô vàn khó khăn chồng chất, trước hết là ăn, mặc, tiếp đến là trang bị vũ khí…, nếu không có các đơn vị quân đội tham gia lao động sản xuất, chế tạo vũ khí, khí tài, đạn dược…, liệu Quân đội có thể hoàn thành được nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và nhân dân giao phó! Trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, hậu phương lớn miền Bắc vừa tiến hành công cuộc cải tạo, phục hồi kinh tế từ một nước sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu trong điều kiện chiến tranh, vừa chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, nếu các đơn vị quân đội không tham gia lao động sản xuất, không có các căn cứ hậu cần tại chỗ trên chiến trường miền Nam, nhất là ở các địa bàn chiến lược như: khu 5, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ,... đặc biệt là Bộ đội Trường Sơn, Quân chủng Hải quân để xẻ núi, bạt đèo, xây dựng hàng chục ngàn cây số đường bộ, đường sông, đường ống, đường biển, mở các tuyến vận tải chiến lược chi viện cho chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Cam-pu-chia, liệu có thể có Chiến thắng của ngày 30 tháng 4 lịch sử!

Sau ngày 30 tháng 4, đất nước hoàn toàn thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước ra sức hô hào, cổ súy, viện trợ tiền của, vũ khí cho bọn ngụy quân, ngụy quyền, bọn Fulro tăng cường hoạt động chống phá, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Một lần nữa, Quân đội lại tiên phong trên các mặt trận, vừa phải làm tròn chức năng là đội quân chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng, vừa là đội quân xung kích vào những nơi khó khăn, nguy hiểm nhất, cùng cả nước xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đồng thời, kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân; giữa xây dựng thế trận quốc phòng với phát triển kinh tế, góp phần cùng cả nước từng bước vượt qua khó khăn, thách thức để bước vào hội nhập và giao lưu quốc tế với uy tín và vị thế mới.

Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị quân đội tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế; trọng tâm là Nghị quyết 71/ĐUQSTW, ngày 25-4-2002 “Về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội”; Nghị quyết 520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012 về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”; Thông tư 69/2017/TT-BQP ngày 03-4-2017 của Bộ Quốc phòng ban hành Quy chế quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh kinh tế của Quân đội. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, có bước phát triển toàn diện, đạt kết quả quan trọng cả về kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh.

Quán triệt quan điểm đó, các đơn vị quân đội đã phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng thực sự là nhân tố quan trọng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, xã hội ở từng địa phương, vùng, miền gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước; tham gia có hiệu quả xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng căn cứ cách mạng, đẩy lùi các hủ tục; xây dựng làng, bản văn hóa; cùng đồng bào các dân tộc xây dựng vành đai biên giới, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Những việc làm đó góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Như vậy, lao động sản xuất là một nhiệm vụ chính trị xuyên suốt của Quân đội ta, một giá trị cốt lõi làm nên nhân cách, phẩm giá “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì thế, những luận điệu xuyên tạc của tổ chức, cá nhân thời gian qua dù vô tình hay cố ý là không thể chấp nhận và đáng bị lên án.

QUÂN ĐỘI THAM GIA LAO ĐỘNG SẢN XUẤT LÀ MỘT NỘI DUNG QUAN TRỌNG ĐÃ ĐƯỢC HIẾN ĐỊNH

Điều 68 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) ghi rõ: “... kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh...”. Điều đó cho thấy, việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là của toàn dân, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là ở nơi dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế của Quân đội cũng chính hướng tới mục tiêu đó.

Tuy nhiên, để hiểu tường tận vai trò, chức năng tham gia xây dựng kinh tế của Quân đội, cần có một cách nhìn khách quan, khoa học về vấn đề này. Trước hết, thuật ngữ “quân đội làm kinh tế” phải được hiểu dưới góc độ tham gia lao động sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội; không được hiểu với nghĩa kinh tế đơn thuần, dù doanh nghiệp đó sản xuất trong bất cứ lĩnh vực nào. Nhận thức sai lầm, ngộ nhận dù vô tình hay cố ý đối với thuật ngữ này chính là một sự đánh tráo khái niệm, nhằm hạ thấp vai trò, uy tín của Quân đội, gây sự hiểu nhầm trong xã hội, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Quân đội; giữa Quân đội và nhân dân.

Hơn nữa, mục tiêu tham gia lao động sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế của Quân đội là: gia tăng sức mạnh của Quân đội và sức mạnh tổng hợp của quốc gia; góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trong đó có kinh tế quốc phòng; tận dụng tiềm lực, tiềm năng của đất nước về mọi mặt; từng bước nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn lại được tiến hành ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, nếu không có các đơn vị quân đội, các doanh nghiệp ngoài Quân đội khó có thể tiếp cận được. Ở khía cạnh này ta thấy, ngay từ đầu, vấn đề giữa lợi nhuận và sự toàn vẹn của lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc đã được các đơn vị quân đội tham gia lao động sản xuất trả lời một cách dứt khoát. Với thế mạnh của mình và về nguồn nhân lực, vật tư, trang thiết bị, Quân đội tham gia sẽ phải gánh vác những nhiệm vụ chính trị xã hội mà các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước cũng khó có thể đảm đương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những nơi đời sống của nhân dân còn hết sức thiếu thốn, lạc hậu. Rõ ràng, tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội là một mệnh lệnh, một nhiệm vụ chính trị của Quân đội. Không chỉ tham gia lao động sản xuất đơn thuần, mà các đơn vị quân đội còn có thế mạnh là sử dụng nguồn lực có chất lượng của mình để tổ chức các lớp học văn hóa, giúp nhân dân nâng cao dân trí, xây dựng kết cấu hạ tầng, như: điện, đường, trường, trạm, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, v.v. Có thể nói, những đóng góp của cán bộ, chiến sĩ các đoàn kinh tế - quốc phòng trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, kết hợp giữa phát triển kinh tế, xã hội với thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; giữa quân sự, quốc phòng với phát triển kinh tế, xã hội thời gian qua là rất lớn và không thể phủ nhận.

THAM GIA LAO ĐỘNG SẢN XUẤT LÀ MỘT CHỨC NĂNG CỦA QUÂN ĐỘI

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, hoàn toàn khác với bản chất của quân đội các thể chế chính trị, xã hội khác, được thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân, quan hệ cán binh và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả. Quân đội của các nước tư bản chủ nghĩa “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo đảm cho kỷ luật tư sản và sự thống trị của tư bản, là nhà trường giáo dục một cách nô lệ và sự phụ thuộc của người lao động đối với tư bản”1. Đây là điểm khác biệt cốt yếu của quân đội tư sản với Quân đội ta. Quân đội của Việt Nam là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mục tiêu chiến đấu của Quân đội là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia - dân tộc. Ngoài mục tiêu đó, Quân đội không có mục đích nào khác. Nhưng không vì thế mà phủ nhận vai trò của Quân đội trong tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội, mà cùng với chức năng của đội quân chiến đấu, Quân đội ta còn phải thực hiện tốt chức năng đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.

Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, vấn đề quân đội tham gia lao động sản xuất luôn được các triều đại phong kiến Việt Nam vận dụng và phát huy hiệu quả vào công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Đó là chính sách “ngụ binh ư nông”. Điều căn bản cốt lõi của chính sách “ngụ binh ư nông” là gửi quân dự bị ở nông thôn, lao động, sản xuất tại địa phương, khi đất nước cần thì huy động họ trở thành binh lính thường trực bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” để vừa bảo đảm cho triều đình luôn duy trì một lực lượng cân đối giữa xây dựng kinh tế với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; giữa sản xuất và chiến đấu, hậu phương và tiền tuyến trong chiến tranh giữ nước, bảo đảm cho quân đội luôn có một đội quân thường trực có số lượng đủ mức cần thiết, tinh thông võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu cao và quân dự bị đông đảo, dễ dàng huy động khi có chiến tranh. Chính sách này còn thể hiện mối liên kết hài hòa giữa quân sự và kinh tế (trước hết là nông nghiệp), giữa kinh tế và quân sự, có khả năng chuyển hóa nhanh nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến và ngược lại. Nhờ thực hiện tốt chính sách này, mà đất nước ta dưới các triều đại phong kiến không những có số lượng quân thường trực phù hợp, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc, mà còn có lực lượng dự bị hùng hậu, khi đất nước chưa huy động, họ góp phần tạo ra một lượng của cải vật chất to lớn phục vụ quốc kế dân sinh; đảm bảo vũ khí, trang bị và các nhu cầu thiết yếu khác cho quân đội cả trong thời bình lẫn thời chiến.

Hiện nay, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách đảm bảo cho quốc phòng hạn hẹp, việc Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế đã tạo ra nguồn lực to lớn, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội và cải thiện đời sống người lao động, củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ năm 2000 đến nay, các đoàn kinh tế - quốc phòng đã đỡ đầu, đón nhận hơn 101.000 hộ dân vào sinh sống, lập nghiệp; xây dựng mới trên 536 điểm dân cư tập trung với hơn 32.000 hộ dân; xóa hơn 344 thôn, bản “trắng” đảng viên; củng cố, giúp hàng nghìn chi bộ, tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở đi vào hoạt động có nền nếp...

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ QUÂN ĐỘI THAM GIA HIỆU QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội”. Trong đó, chú trọng: “Phát triển vững chắc, hiệu quả công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển phù hợp doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm lưỡng dụng. Từng bước hình thành tổ hợp công nghiêp quốc phòng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp”. Cùng với việc tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, Quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng KTQP, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước. Trong đó, tập trung thực hiện tốt những định hướng cơ bản sau:

Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ sản xuất phát triển kinh tế quốc phòng. Toàn quân, nhất là cấp ủy, chỉ huy các đơn vị được giao nhiệm vụ xây dựng khu KTQP cần tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng khu KTQP. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vị trí, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, phát triển khu KTQP trong thời kỳ mới, cũng như vai trò của Quân đội trong thực hiện nhiệm vụ này; từ đó, nêu cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.

Cùng với đó, tập trung chấn chỉnh tổ chức biên chế các đoàn KTQP, các doanh nghiệp quân đội phù hợp với chức năng, yêu cầu nhiệm vụ, theo hướng giảm khâu trung gian, giảm tối đa biên chế cơ quan để tăng cường quân số cho các đơn vị, đội sản xuất; thực hiện tốt việc điều chuyển đoàn KTQP về trực thuộc quân khu, nhằm thống nhất trong quản lý, chỉ đạo. Các đoàn KTQP chú trọng xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các cấp; đào tạo, tuyển dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số ở địa phương, trí thức trẻ tình nguyện. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực về quản lý, phát triển kinh tế, kiến thức, kinh nghiệm về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Đối với những đơn vị KTQP hoạt động trên các địa bàn chiến lược phải góp phần tăng nguồn lực cho quốc phòng, đóng góp ngân sách nhà nước và phục vụ cho các hoạt động chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội... Thông qua các hoạt động đó, các doanh nghiệp quân đội góp phần xóa đói giảm nghèo, chung sức xây dựng nông thôn mới, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc trên các địa bàn chiến lược, biên giới, vùng sâu, vùng xa.

Hai là, nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng về“Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội”. Đây vừa là nhiệm vụ vừa là định hướng cơ bản, cần phải được quán triệt sâu sắc và nắm vững tư tưởng chỉ đạo: Lấy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh là mục tiêu hàng đầu; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. KTQP góp phần “khắc phục triệt để những sơ hở thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”.

Ba là,tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu KTQP trên các địa bàn chiến lược vừa là giải pháp vừa là định hướng; đồng thời, là sự thể chế hóa quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong thực tiễn.

Bốn là,cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quân đội, gắn với giữ vững, nâng cao năng lực sản xuất phát triển kinh tế. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt việc đổi mới, sắp xếp, phát triển các doanh nghiệp quân đội và đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Qua đó, góp phần giữ vững, nâng cao năng lực sản xuất quốc phòng, ổn định, phát triển kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Phát huy kết quả đạt được, trong thời gian tới, các doanh nghiệp quốc phòng cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp; trên cơ sở đó, tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 425-NQ/QUTW, trọng tâm là thực hiện tốt Đề án “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội giai đoạn 2016 - 2020”. Các doanh nghiệp quân đội, các đoàn KTQP tập trung rà soát, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với mô hình hoạt động; tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; chấp hành nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, kỷ luật của quân đội.

Năm là, ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế quốc phòng, thực hiện có hiệu quả chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn chiến lược. Để khai thác, sử dụng hiệu quả các tiềm năng thành nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước và các địa phương, đơn vị cần tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho các doanh nghiệp KTQP mũi nhọn, có thế mạnh trên tuyến biên giới và ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo... Trong đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, phát triển các khu KTQP mạnh có đủ khả năng kết hợp phát triển kinh tế với tạo lập thế trận phòng thủ trên tuyến biên giới, ven biển; tập trung nguồn lực, khoa học, công nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả các tiềm năng của từng địa phương; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế với quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất của nhân dân trên các tuyến biên giới, các vùng biển, đảo.

Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển KTQP trên các vùng biển, hải đảo đòi hỏi các ngành chức năng và địa phương phối hợp nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu thế phát triển. Việc quy hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa các vùng, miền; phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên các hướng trọng điểm. 

Từ những đóng góp quan trọng của Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, Quân đội cần phải nghiên cứu những thành tựu của công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng, để tận dụng các thành tựu của công nghiệp dân sự sang công nghiệp quốc phòng. Sự kết nối này sẽ tăng sức mạnh cho nền kinh tế đất nước và trực tiếp cho quốc phòng./.

QUÂN ĐỘI THAM GIA HIỆU QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Từ thực tiễn lịch sử kháng chiến và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định những đóng góp quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, Quân đội ta đã xây dựng các lâm trường, nông trường, các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng, rồi sau đó trở thành nòng cốt trên nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đến nay, trong Quân đội đã có một đội ngũ cán bộ, kỹ thuật, kỹ sư, công nhân viên quốc phòng, đáp ứng được không chỉ nhu cầu xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại mà còn tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế có hiệu quả rõ rệt.

Sau khi đất nước thống nhất (1975), Quân đội nhanh chóng trở thành lực lượng xung kích, nòng cốt, tham gia đắc lực vào hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, nhất là tại các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Với gần 28 vạn cán bộ, chiến sĩ chuyển sang thực hiện nhiệm vụ quan trọng này đã hoàn thành nhiều chương trình, dự án trọng điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên địa bàn cả nước.

Trong thời kỳ đổi mới, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng được Đại hội VI đề ra: “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, ngày 31-7-1998 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg giao nhiệm vụ cho Quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng các khu kinh tế quốc phòng (KTQP). Theo đó, ngày 1-8-1998, Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) ban hành Quyết định số 150/ĐUQSTW giao Quân đội làm nòng cốt trong phát triển KTQP. Nhờ những chủ trương đúng đắn của Đảng và chỉ đạo kịp thời của Chính phủ và Quân ủy Trung ương, hoạt động KTQP trong Quân đội đã mang lại nhiều kết quả rất đáng trân trọng. Không phải ngẫu nhiên đến Đại hội X, Đảng ta xác định: “Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”. Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 25-9-2012, Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 520-NQ/QUTW về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”, nêu rõ: “Toàn quân cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết, tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ trên mặt trận lao động sản xuất”. Đặc biệt, ngày 18-5-2017, Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị quyết 425-NQ/QUTW về: “Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo” đã tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao chất lượng của Quân đội tham gia xây dựng, phát triển kinh tế.

Nhìn chung, sau sắp xếp, đổi mới, hầu hết các doanh nghiệp quân đội giữ được ổn định và phát triển, tổ chức sản xuất phát triển kinh tế hiệu quả, từng bước hội nhập thị trường trong nước, khu vực và thế giới; sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cao phục vụ quốc phòng và xã hội, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho hàng vạn lao động và tăng thu nộp ngân sách nhà nước; góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố hậu phương quân đội...

Hiện nay, các doanh nghiệp quân đội đang có 37 dự án đầu tư ra nước ngoài (gồm cả doanh nghiệp quân đội đã cổ phần) với tổng số vốn đầu tư hơn 5,2 tỷ USD. Tiêu biểu là Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đã được ghi nhận với 3 chỉ số quan trọng, là doanh nghiệp có chỉ số lợi nhuận tốt nhất, nộp thuế lớn nhất và có giá trị thương hiệu cao nhất Việt Nam (2,6 tỷ USD). Thương hiệu Viettel được xếp hạng thứ 49 trong tốp 50 thương hiệu viễn thông lớn nhất thế giới. Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn giữ vững vị trí khai thác cảng biển hàng đầu Việt Nam và cảng Cát Lái là một trong số 34 cảng biển hàng đầu thế giới về khối lượng hàng hóa thông quan. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp quân đội còn tích cực đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghệ mới, dịch vụ lưỡng dụng, để vừa sản xuất thiết bị, phương tiện, khí tài quân sự, vừa sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ dân dụng. Việc thực hiện các đơn hàng dân sự chính là cách để các doanh nghiệp quân đội tiếp nhận, chuyển giao, đổi mới công nghệ, rèn luyện kỹ năng, tay nghề, nâng cao nghiệp vụ, trình độ quản lý, đầu tư mở rộng sản xuất...

Tuy còn có những hạn chế, bất cập trong nhận thức và quá trình quản lý, triển khai thực hiện tiến độ dự án, việc sử dụng đất quốc phòng của một số doanh nghiệp chưa chặt chẽ làm cho mục tiêu xây dựng các khu KTQP chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, nhưng tổng thể những kết quả đạt được là có ý nghĩa quan trọng.

Nhiều doanh nghiệp quân đội đã xây dựng được những thương hiệu mạnh, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tham gia đầu tư có hiệu quả ra nước ngoài và là lực lượng dự bị mạnh cho quốc phòng; là đối tác kinh tế quốc tế có uy tín, tích cực trong công tác đối ngoại quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2020

GIỚI HẠN CỦA LIVESTREAM “CHỐNG THAM NHŨNG”

Thời gian gần đây, khi vào Facebook hoặc các nền tảng mạng xã hội, chúng ta bắt gặp những video được một số người dân quay bằng điện thoại thông minh phát trực tiếp (livestream) từ trụ sở tiếp công dân với lời lẽ gay gắt tố cáo người này, người nọ vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực...

Điều đáng nói là những thông tin tố cáo kiểu trên chưa được cơ quan chức năng xác định đúng sai, nhưng người "lai-trim" đã tự cho mình được quyền qui kết gây hiệu ứng không tốt trên mạng xã hội. Việc làm này cần phải được xử lý nghiêm theo qui định của pháp luật.

Đ.V, ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội khá nổi tiếng trên trang "T.D" bởi tần suất livestream liên tục trên trang mạng này. Đây là một trang mạng được lập ra và "chạy" trên nền tảng facebook nên có thể chia sẻ, bình luận, bấm "like", tạo hiệu ứng lan tỏa đến rất nhiều người sử dụng facebook.

 Với danh nghĩa livestream để "cộng đồng mạng giám sát" việc thực thi công vụ của cán bộ tiếp công dân khi giải quyết khiếu nại, tố cáo của Đ.V; nhưng thực tế, khi xem một vài video, thấy rằng, Đ.V không chú tâm vào việc trình bày nội dung mấu chốt khiếu nại, tố cáo của mình, mà chủ yếu là tự diễn thuyết, dẫn dắt câu chuyện để thuyết minh tạo hiệu ứng thu hút người xem cho video livestream là chính.

Trong vai là người "chống lại cả một đường dây tiêu cực", Đ.V tố cáo hết người này đến người khác nhưng không đưa ra được chứng cứ mà đã tự qui kết, gắn mác cho họ là tham nhũng, tiêu cực, vi phạm này nọ... Ngay cả những người hàng xóm của Đ.V cũng bị anh ta livestream đưa lên mạng với những suy diễn thiếu căn cứ, vi phạm đời tư cá nhân.

Điều đáng nói là, những video livestream của Đ.V đã thu hút được khá nhiều người xem. Nhiều người không có thông tin hai chiều đã vội đưa ra những bình luận qui chụp, cổ xúy Đ.V là "người hùng" chống tham nhũng; còn những kẻ bất mãn, cơ hội thì lợi dụng để công kích chính quyền.

Trường hợp của Đ.V không phải là cá biệt, có lẽ nhận thấy sự "biến tướng" của một số cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân để ghi hình, đưa lên mạng xã hội phục vụ những mục đích không đúng pháp luật, UBND TP Hà Nội đã ban hành nội qui tiếp công dân, trong đó có qui định không cho phép người dân quay phim, chụp hình khi chưa có sự đồng ý của cán bộ tiếp công dân.

Qui định này đã gây ra những ý kiến trái chiều. Người thì đồng tình vì cho rằng, công dân có quyền giám sát cán bộ thực thi công vụ nhưng ngược lại, cán bộ cũng có quyền bảo vệ hình ảnh cá nhân theo pháp luật dân sự; công dân không thể tự do làm điều mình muốn khi quyền ấy lại xâm phạm đến quyền cá nhân của người khác... Những người theo quan điểm phản đối cho rằng, nếu phải xin phép cán bộ tiếp dân mới được ghi hình, chụp hình sẽ làm hạn chế quyền giám sát của người dân, không ngăn chặn được thái độ cửa quyền, nhũng nhiễu, tiêu cực...

Về phía cán bộ tiếp công dân, biết là người dân đang ghi hình để livestream trực tiếp trên mạng xã hội với mục đích công kích cá nhân, cơ quan, tổ chức một cách thiếu căn cứ nhưng cũng rất khó ngăn cấm họ, bởi người dân cho rằng, họ làm những gì pháp luật không cấm. Có người còn viện dẫn Điều 8 Hiến pháp qui định: “cán bộ, công chức, viên chịu sự giám sát của Nhân dân” để đấu lý với cán bộ tiếp công dân...

Thực ra, từ khi thành lập nước đến nay, với bản chất là "Nhà nước của dân, do dân và vì dân", trong quá trình xây dựng Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước ta luôn coi trọng quyền tự do, dân chủ của công dân; trong đó có quyền giám sát cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước.

Tuy nhiên, trước đây, khi các thiết bị số và mạng xã hội chưa phát triển, người dân cũng có thể giám sát bằng các hình thức khác nhau. Hiện nay, điện thoại thông minh kết nối internet trở nên thông dụng thì mạng xã hội trở thành một kênh thông tin quan trọng để cơ quan chức năng phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức cũng như các hiện tượng tiêu cực khác trong xã hội.

Trở lại vấn đề có nên cho phép hay không việc công dân livestream tại trụ sở tiếp công dân trên mạng xã hội? Theo chúng tôi, chúng ta không thể đi ngược lại với xu thế công nghệ của thời đại 4.0, vì ghi hình để làm căn cứ đấu tranh cũng là một cách giám sát việc thực thi công vụ. Song lúc nào thì được ghi hình, cách ghi hình như thế nào để không làm ảnh hưởng đến cán bộ và hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, địa điểm nào cấm không được phép ghi hình... thì cần có qui định cụ thể để người dân và cơ quan nhà nước căn cứ vào đó mà thực hiện.

Tuy nhiên, bất luận là thế nào, chúng ta cũng không chấp nhận việc một số cá nhân lợi dụng quyền tự do dân chủ, lợi dụng "quyền giám sát" của công dân để xuyên tạc sự thật, tự ý qui chụp, cắt ghép hình ảnh kết luận thay cơ quan nhà nước, gây ra những hiệu ứng không tốt trên mạng xã hội. Điều 16, Luật An ninh mạng có qui định về phòng ngừa, xử lý thông tin  trên không gian mạng, trong đó nghiêm cấm việc đưa nội dung làm nhục, vu khống người khác; đưa thông tin bịa đặt, sai sự thật, xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 3-2-2020 cũng đã có chế tài xử phạt các vi phạm trong lĩnh vực này...

Vì vậy, đối với những trường hợp đưa thông tin tố cáo tham nhũng, tiêu cực cần có bằng chứng rõ ràng, bên cạnh việc làm "video clip" để tố cáo tiêu cực, người dân cần có đơn gửi tới các cơ quan có thẩm quyền để đề nghị xem xét giải quyết khiếu nại - tố cáo của mình.

Chỉ có cơ quan chức năng mới có quyền kết luận người đó có tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật hay không. Khi chưa có kết luận cuối cùng, người dân không được phát ngôn qui chụp, khẳng định, làm thay việc giải quyết khiếu nại - tố cáo của cơ quan nhà nước. Khi đến cơ quan Nhà nước, người dân cần có thái độ hòa nhã, lịch sử, thể hiện văn hóa nơi công sở; không được gây mất trật tự, dùng điện thoại dí vào mặt cán bộ tiếp dân để ghi hình, chụp ảnh thể hiện sự thiếu ý thức tôn trọng người khác.

Về phía cơ quan nhà nước, khi tiếp công dân cần căn cứ vào Luật tiếp công dân. Cán bộ tiếp công dân cần có thái độ lịch sự, văn hóa, ứng xử đúng mực với người dân, đồng thời cũng có quyền từ chối không tiếp nếu công dân có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, vi phạm nội qui tiếp công dân.

KIÊN ĐỊNH GẮN LIỀN VỚI ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là sự lựa chọn của lịch sử. Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu xuyên suốt, được xây đắp, bảo vệ bằng xương máu của bao thế hệ người dân đất Việt. Sự lựa chọn và kiên định đó đã đem lại thành quả, để đất nước có “vị thế và cơ đồ” như ngày hôm nay. Bởi vì chủ nghĩa, tư tưởng, chế độ ấy bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động, có Đảng Cộng sản là đội quân tiên phong của giai cấp công nông lãnh đạo, tổ chức cách mạng, vì lợi ích của dân tộc, nhân dân.

Chính vì vậy, trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại Hội XIII của Đảng, đưa đất bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Đây là nền tảng vững chắc của Đảng ta. Thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên đổi mới không phải là “đổi màu”, “hòa tan” như các thế lực thù địch mong muốn.

“NHẬN ĐỊNH NHÂN SỰ” – MƯU CŨ TRÊN ÁO MỚI

Trước, trong và ngay sau thời gian diễn ra Hội nghị 13 của Đảng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động tung ra các luận điệu sai trái, thù địch chống phá. Trên các trang BBC, RFA, VOA cũng như trang facebook, blog cá nhân của một số đối tượng cơ hội, chống đối trong và ngoài nước đã tập trung khai thác, đăng tải hàng loạt bài viết sai lệch, suy diễn với dụng ý xấu. Những luận điệu xuyên tạc, sai trái các đối tượng tập trung chống phá đáng chú ý là:

Chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên VOA, họ đưa ra những luận điệu: “Ý thức hệ và điều cần thay đổi”, “Cung cách chuẩn bị nhân sự và đường lối xây dựng xã hội không thay đổi, vẫn là kiên trì xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn coi học thuyết xây dựng xã hội của Lênin làm nền tảng tư tưởng - lý luận thì đừng mong một sự thay đổi tốt đẹp”. Từ đó xuyên tạc: “Chuyện Đảng cộng sản kiên quyết chỉ duy trì một ngôi nhà chính trị duy nhất – ngôi nhà của những người theo Mác và Lênin – khiến cho hàng chục triệu người trở thành vô gia cư về chính trị, nhân dân chẳng tha thiết gì với chủ nghĩa cộng sản và các đồng chí trong đảng cộng sản”…

Nhằm cổ suý đa nguyên, đa đảng, đả phá và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, trên đài BBC, VOA… đăng tải các bài viết, trong đó lấy ý kiến của một số cá nhân, đối tượng vốn có “thâm niên” chống đối Đảng Cộng sản, chính quyền nhân dân, cho rằng đã đến lúc “Đảng Cộng sản Việt Nam phải dân chủ hoá, đa đảng. Phải chấp nhận và để cho chế độ đa đảng xuất hiện, tồn tại để các đảng phái chính trị cạnh tranh công khai, công bằng”. Họ viện cớ góp ý để kích động: “phải đa đảng, từ đó xem đảng nào có những quyết sách tốt nhất, được ủng hộ nhất đưa đất nước phát triển và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, cũng như ai phục vụ nhân dân tốt nhất và được nhân nhân tín nhiệm giao phó trọng trách điều hành việc nước”.

Lấy vỏ bọc bên ngoài là dân chủ, họ quy kết công tác cán bộ của Đảng rằng, cách làm nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không có sự cạnh tranh công khai, minh bạch. Tất cả các quy định, thủ tục lựa chọn nhân sự chỉ để hợp thức hóa việc lựa chọn người theo phe cánh, quan hệ và việc mua quan bán tước (tiêu cực, hối lộ, đút lót). Đó là cách lựa chọn nhân sự được đúc kết: “thứ nhất hậu duệ - thứ nhì quan hệ - thứ ba tiền tệ - thứ tư trí tuệ. Trong khi đó cũng có sự cạnh tranh nhưng là cạnh tranh ngầm giữ các phe cánh”. Họ phân tích theo hướng tiêu cực “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ”, dự đoán, sắp xếp vị trí theo kiểu “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”, phân tích, suy diễn theo chiều hướng tiêu cực, đấu đá, mất đoàn kết nội bộ, gây rối loạn thông tin, hoang mang trong dư luận xã hội.

Thủ đoạn của các đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng, không bao giờ thay đổi là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, hướng lái cách mạng Việt Nam chệch hướng với mục tiêu, con đường mà Đảng và Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn. Từ lâu, các thế lực chống phá đã ra sức xuyên tạc, bóp méo, suy diễn, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng, kim chỉ nam cho mọi hành động trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là mục tiêu tấn công, thúc đẩy “tự do hóa” chính trị. Thực hiện “đa nguyên chính trị, “đa đảng đối lập” để tạo ra cơ hội, môi trường hoạt động của các tổ chức phản động, đảng phái chính trị đối lập. Họ luôn hô hào đất nước phải “đa nguyên” mới là tự do, “đa đảng” mới có dân chủ; coi đó là tiêu chuẩn, giá trị khuôn mẫu để dẫn dắt sự tiến bộ của mọi quốc gia, dân tộc dù điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Do vậy, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng được quy định trong Điều 4 – Hiến pháp, cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được lịch sử dân tộc, nhân dân lựa chọn là âm mưu, thủ đoạn tinh vi, mục đích của các thế lực thù địch, phản động.

Công tác cán bộ là một trong những nội dung quan trọng nhất mỗi kỳ Đại hội Đảng. Nhằm làm suy giảm, xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào tính ưu việt của chế độ, uy tín của Đảng, chúng tinh vi khoét sâu vào công tác nhân dự Đại hội; giở trò dự đoán nhân sự, sắp xếp ghế này, ghế nọ, tung chiêu phe này đánh phia kia, người này “tranh giành, tiêu diệt, triệt hạ” người kia… Các đối tượng tự vẽ lên tình hình chính trị nội bộ với gam màu xám, an ninh chính trị “đấu đá, lâm nguy”. Nhiều người nếu thiếu tỉnh táo, khi xem các thông tin tiêu cực trên mạng có thể bị dẫn dắt theo luận điệu của chúng, tư tưởng hoang mang, dao động, mất niềm tin vào chế độ, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thực chất, việc xuyên tạc Hội nghị 13 nằm trong mưu đồ chống phá Đại hội XIII của Đảng, một phương thức, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình”, xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, thực hiện đa nguyên, đa đảng, thay đổi thể chế chính trị.

Ý ĐỒ ĐẰNG SAU NHỮNG LỜI KÊU GỌI TRẢ TỰ DO CHO PHẠM ĐOAN TRANG

Phạm Đoan Trang đã có những hành vi đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Những hành vi trên của Phạm Đoan Trang vi phạm pháp luật như thế nào, đến đâu sẽ được các cơ quan bảo vệ pháp luật làm rõ. Việc cơ quan chức năng thi hành lệnh khởi tố, bắt bị can để tạm giam, khám xét nơi ở đối với Phạm Đoan Trang là việc làm cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có thể thấy rằng, ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào khác, những kẻ vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Hoàn toàn không có chuyện bắt, xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật lại bị coi là đàn áp người “bất đồng chính kiến”, “người hoạt động nhân quyền” như những luận điệu mà RSF, HRW, AI đưa ra.

Một lần nữa, những “con rối” đội lốt nhân quyền như RSF, HRW, AI lại núp bóng “nhân quyền” đưa ra những luận điệu xuyên tạc, thiếu khách quan và định kiến, thù địch về Việt Nam. Việc đưa ra những tuyên bố sai sự thật trên thực chất là một sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam. 

Không những vậy, việc làm này còn thể hiện ý đồ của các tổ chức đội lốt “nhân quyền”, đó là cố tình bảo vệ, hà hơi, tiếp sức cho Phạm Đoan Trang cũng như các đối tượng chống đối chính quyền khác. Họ cố tình xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp những người “bất đồng chính kiến” nhằm làm cho các quốc gia, tổ chức, cộng đồng thế giới hiểu sai về quan điểm, chính sách của Việt Nam, hạ uy tín của Việt Nam đối với bạn bè thế giới.

PHẠM ĐOAN TRANG CÓ PHẢI “NHÀ BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN” HAY “NHÀ HOẠT ĐỘNG NHÂN QUYỀN”?

Phạm Đoan Trang, 42 tuổi, trú tại quận Đống Đa, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình cơ bản, Phạm Đoan Trang từng tốt nghiệp trường Hà Nội - Amsterdam và Khoa Kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội. Sau khi ra trường, Phạm Đoan Trang làm phóng viên cho báo điện tử Vnexpress trong 2 năm, sau đó làm nhân viên Công ty quảng cáo HAKI, nhân viên Công ty Truyền hình kỹ thuật số VTC, cộng tác viên báo Vietnamnet và có gần 3 năm làm phóng viên báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh. Năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Phạm Đoan Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc.

Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Phạm Đoan Trang đã được một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo và đưa Phạm Đoan Trang bắt đầu hành trình trượt dài trên con đường tội lỗi. Trở về nước, Phạm Đoan Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời đứng sau lôi kéo lập nhóm “Du ca Sài Gòn”, “Tuổi trẻ làm đẹp quê hương”, lợi dụng danh nghĩa biểu diễn ca nhạc, bảo vệ môi trường để tụ tập, trình diễn ca khúc thời Việt Nam cộng hòa, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ.

Phạm Đoan Trang cũng lập và điều hành các trang mạng “Luật khoa tạp chí”, “Phamdoantrang.com”, “The Vietnamese”, viết, tán phát nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ. 

Đặc biệt, trong thời gian gần đây, Phạm Đoan Trang đã viết, tán phát bất hợp pháp nhiều cuốn sách có nội dung chính trị xấu như: “Cẩm nang truyền thông”, “Từ Facebook xuống đường”, “Bầu cử phi dân chủ ở Việt Nam”, “Chính trị bình dân”, “Toàn cảnh thảm họa môi trường Formosa ở Việt Nam”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù”... Đây là những cuốn sách có nội dung bôi nhọ, xuyên tạc thể chế chính trị Việt Nam, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; hướng dẫn cách thức hoạt động chống chính quyền, “bất bạo động”, cách thức đối phó với các cơ quan thực thi pháp luật; kêu gọi biểu tình, lật đổ chế độ ở Việt Nam.

Phạm Đoan Trang cũng là thành viên cốt cán của tổ chức “VOICE” (một tổ chức ngoại vi của tổ chức khủng bố Việt Tân). Phạm Đoan Trang được số đối tượng cầm đầu tổ chức “VOICE” giao phụ trách nhân sự, trực tiếp tuyển lựa, duyệt người trước khi đưa ra nước ngoài để huấn luyện, đào tạo cách thức hoạt động chống phá chính quyền. Phạm Đoan Trang cũng là một trong những người sáng lập và duy trì hoạt động của “Nhà xuất bản tự do” - một tổ chức dân sự trá hình, hoạt động “chui”, chuyên xuất bản, in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung tiêu cực, xuyên tạc, kích động bạo lực, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Một người được sinh ra trong gia đình cơ bản, thế nhưng đã không biết sử dụng trí tuệ của mình vào việc chính đáng, lại thường xuyên viết, tán phát các bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước, kêu gọi biểu tình lật đổ chế độ. Vậy, thử hỏi đó là một “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà hoạt động nhân quyền”, hay là một kẻ phạm tội, vi phạm pháp luật đúng nghĩa?

SỰ THẬT ĐẰNG SAU NHỮNG LỜI KÊU GỌI TRẢ TỰ DO CHO PHẠM ĐOAN TRANG

Có thể thấy rằng, ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào khác, những kẻ vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Hoàn toàn không có chuyện bắt, xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật lại bị coi là đàn áp người “bất đồng chính kiến”, “người hoạt động nhân quyền” như những luận điệu mà RSF, HRW, AI đưa ra.

Ngày 7/10/2020, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội đã phối hợp với Công an TP Hồ Chí Minh thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam, khám xét khẩn cấp đối với Phạm Đoan Trang (tên thật là Phạm Đoan Trang, 42 tuổi, trú quận Đống Đa, Hà Nội) về hành vi “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. 

Ngay lập tức, một số tổ chức núp bóng nhân quyền như “Phóng viên không biên giới” (RSF), “Theo dõi nhân quyền thế giới” (HRW), “Ân xá quốc tế” (AI)... đã lớn tiếng phản đối và kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho Phạm Đoan Trang. Vậy, sự thật đằng sau những lời kêu gọi này là gì?

Ngày 7/10, tổ chức RSF đã ra thông cáo báo chí kêu gọi trả tự do cho Phạm Đoan Trang. Thông cáo báo chí của RSF đã cố tình xuyên tạc rằng “vụ bắt giữ Phạm Đoan Trang là ví dụ mới nhất về việc đàn áp những tiếng nói chỉ trích ở Việt Nam”. 

Không những vậy, thông cáo báo chí của RSF còn dẫn lời ông Christian Mihr - Giám đốc điều hành RSF với những lời lẽ ngang ngược, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam khi cho rằng: “Tội bị cáo buộc của bà, thật ra chỉ là phổ biến những thông tin độc lập và tạo điều kiện cho đồng bào của bà thực hiện các quyền của người dân được bảo đảm bởi Hiến pháp. Bà Trang không thể bị tù. Bà ấy phải được thả ngay lập tức”.

Cổ súy cho những luận điệu của RSF, tổ chức “Theo dõi nhân quyền quốc tế” (HRW) cũng đưa ra những lời lẽ xuyên tạc khi trích lời của ông Phil Robertson, Phó Giám đốc HRW rằng: “Phạm Đoan Trang đã dấn thân để tìm cách giải thích cho các công dân Việt Nam về những quyền hạn của chính họ, đúng theo Hiến pháp Việt Nam”. 

Không những vậy, Phó Giám đốc HRW còn tìm cách cổ vũ cho những hành vi chống Nhà nước Việt Nam của Phạm Đoan Trang bằng những giọng điệu hết sức ngang ngược: “Phản ứng như thiêu đốt của Việt Nam đối với bất đồng chính kiến được trưng bày cho tất cả mọi người xem với vụ bắt giữ blogger và tác giả nổi tiếng Phạm Đoan Trang.

Trong khi đó, với một tuyên bố mang nặng tính định kiến, thiếu khách quan có tiêu đề “Việt Nam: Nhà vô địch nhân quyền bị bắt, có nguy cơ bị tra tấn nghiêm trọng”, tổ chức “Ân xá quốc tế” (AI) đã lớn tiếng xuyên tạc rằng: “Việc Phạm Đoan Trang bị bắt là một hành động đáng chê trách. Bà là một nhân vật hàng đầu cho cuộc đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Bà đã truyền cảm hứng cho rất nhiều nhà hoạt động trẻ lên tiếng vì một nước Việt Nam công bằng, hội nhập và tự do hơn”. Vậy sự thật là gì?

Thời gian gần đây, Phạm Đoan Trang đã viết, tán phát bất hợp pháp nhiều cuốn sách có nội dung chính trị xấu như: “Cẩm nang truyền thông”, “Từ Facebook xuống đường”, “Bầu cử phi dân chủ ở Việt Nam”, “Chính trị bình dân”, “Toàn cảnh thảm họa môi trường Formosa ở Việt Nam”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù”... Đây là những cuốn sách có nội dung bôi nhọ, xuyên tạc thể chế chính trị Việt Nam, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; hướng dẫn cách thức hoạt động chống chính quyền, “bất bạo động”, cách thức đối phó với các cơ quan thực thi pháp luật; kêu gọi biểu tình, lật đổ chế độ ở Việt Nam.

Phạm Đoan Trang cũng là thành viên cốt cán của tổ chức “VOICE” (một tổ chức ngoại vi của tổ chức khủng bố Việt Tân). Phạm Đoan Trang được số đối tượng cầm đầu tổ chức “VOICE” giao phụ trách nhân sự, trực tiếp tuyển lựa, duyệt người trước khi đưa ra nước ngoài để huấn luyện, đào tạo cách thức hoạt động chống phá chính quyền. Phạm Đoan Trang cũng là một trong những người sáng lập và duy trì hoạt động của “Nhà xuất bản tự do” - một tổ chức dân sự trá hình, hoạt động “chui”, chuyên xuất bản, in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung tiêu cực, xuyên tạc, kích động bạo lực, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Một người được sinh ra trong gia đình cơ bản, thế nhưng đã không biết sử dụng trí tuệ của mình vào việc chính đáng, lại thường xuyên viết, tán phát các bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước, kêu gọi biểu tình lật đổ chế độ. Vậy, thử hỏi đó là một “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà hoạt động nhân quyền”, hay là một kẻ phạm tội, vi phạm pháp luật đúng nghĩa?