Thứ Ba, 26 tháng 10, 2021

“VIỆC CẦN PHẢI LÀM TRƯỚC TIÊN LÀ CHỈNH ĐỐN LẠI ĐẢNG”

Từ rất sớm, từ tiên liệu về sự vận động của Đảng trong quá trình phát triển và sự biến động của tình hình, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, song không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ngợi ca nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Vì vậy, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là tất yếu khách quan, là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa thường xuyên của Đảng cầm quyền, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Qua đó, góp phần phòng và chống bệnh choáng ngợp, tự mãn, quan liêu, ngày càng rời xa nhân dân của người đang nắm giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong Đảng và các cơ quan công quyền - những người mà theo Hồ Chí Minh, “trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, nhưng đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng”…

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng chỉ có thể chắc chắn, vững mạnh, trở thành đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, chỉ giành và giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng khi thường xuyên tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Để xứng đáng là vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, Đảng phải tự xây dựng thành “một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải “suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân”. Đó là trách nhiệm kép, vừa vinh dự vừa khó khăn mà muốn hoàn thành, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải vừa ra sức nâng cao năng lực trí tuệ ngang tầm nhiệm vụ lịch sử vừa phải thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất; nghiêm túc thực hiện chế độ tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, trau dồi đạo đức cách mạng và gắn bó mật thiết với nhân dân, để nhân nguồn sức mạnh của Đảng.

Vì thế, từ khi chuẩn bị đến sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã luôn chú trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng để Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không ngừng nâng cao bản lĩnh và trí tuệ của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc xây dựng một chính đảng Mácxit chân chính; đồng thời, coi đó là một quy luật tất yếu, là sự vận động và phát triển của Đảng trong tiến trình phát triển của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Và không phải ngẫu nhiên, trong Di chúc, Hồ Chí Minh lại căn dặn, để Đảng trong sạch, chân chính, vững mạnh, “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đó là vì:

Một là, đoàn kết được coi là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tạo nên sức mạnh thống nhất trong ý chí và hành động để chiến thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì đoàn kết là “một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, nên mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương và những nguyên tắc sinh hoạt Đảng; được thể hiện trong nhận thức và hành động, trong mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, nhất quán giữa lời nói và việc làm.

Hai là, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi", vì dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của sự tiến bộ và phát triển xã hội. Dân chủ trong Đảng là phát huy quyền làm chủ của đảng viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, để mọi đảng viên được bày tỏ hết ý kiến của mình, vì thế, mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải gương mẫu thực hành dân chủ. Song dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật của Đảng và kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ; thực hành dân chủ có tác dụng giải phóng, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; do đó, cán bộ, đảng viên phải lãnh đạo nhân dân một cách dân chủ, phải phát huy vai trò của nhân dân trong mọi lĩnh vực và đó là "cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn". Tuy nhiên, thực hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ của đảng viên, của nhân dân phải dưới sự lãnh đạo của Đảng, để bảo đảm cho quá trình thực hiện dân chủ được đúng hướng; để vừa loại bỏ được tình trạng độc đoán, chuyên quyền trong lãnh đạo vừa tránh rơi vào hiện tượng vì "sợ" mất dân chủ mà theo đuôi quần chúng, hoặc dân chủ quá trớn.

Ba là, thường xuyên, nghiêm chỉnh "tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng". Nguyên tắc quan trọng này phải được thực thi thường xuyên, liên tục, nghiêm túc, thực chất để phát huy vai trò, khả năng sáng tạo, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, để bảo đảm dân chủ, công khai, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng, trong tự phê bình và phê bình: một mặt, cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình nghiêm túc, phải chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình và cấp dưới; mặt khác, phải động viên cấp dưới và quần chúng phê bình tổ chức đảng và đảng viên chân thành, triệt để trên "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".

Bốn là, thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để Đảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Khẳng định vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là cơ sở nền tảng của một đảng cầm quyền "là đạo đức, là văn minh", Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời” đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, “ra sức làm việc” cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình; “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc; ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác để cùng tiến bộ... Với Hồ Chí Minh, làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đó là một sự nghiệp rất vẻ vang song vô cùng khó khăn, gian khổ, do vậy “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải "thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" theo lời Người dặn chính là để rèn mình, chống thói hư tật xấu trong mình như tham ô, lãng phí, quan liêu, tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa,v.v.. để xứng đáng với vai trò tiền phong.

Thực hiện được 4 điều Hồ Chí Minh trăn trở, căn dặn trong Di chúc chính là góp phần “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “xứng đáng là người lãnh đạo”, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; để mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mẫu mực về tấm gương đạo đức cách mạng và tầm cao năng lực trí tuệ nhằm quy tụ, lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước bền vững.

Không chỉ chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; thường xuyên yêu cầu cán bộ, đảng viên phải rèn luyện đạo đức cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân,v.v.. Hồ Chí Minh còn luôn là một tấm gương mẫu mẫu mực về rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn thống nhất giữa nói và làm. Một Hồ Chí Minh hết lòng yêu thương nhân dân, luôn vui niềm vui của đồng bào, đồng chí, buồn nỗi buồn của áp bức, bất công; chỉ vui trọn vẹn khi không còn chiến tuyến, khi không còn chiến tranh đã luôn làm ấm lòng những người xung quanh mình. Hồ Chí Minh - con người và nhân cách vĩ đại đã từng được suy tôn là “một hiền nhân” là người đã thực hiện trọn vẹn những điều vốn là khát vọng lâu đời được nêu trong sách Luận ngữ: “Đem lại sự nghỉ ngơi cho người già, đem lại lòng tin cậy cho bầu bạn, đem lại tình thương yêu cho trẻ nhỏ” - không chỉ thuộc về hiện tại mà Người còn thuộc về tương lai cả trong ý nghĩ, tầm nhìn chiến lược và những quyết sách, hành động.

PHẢI RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG CHỐNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” HIỆN NAY

  “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là do sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, v.v.. Trong đó, có “không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

V.I.Lênin từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không ai có thể đánh đổ được chúng ta, trừ chính những sai lầm của chúng ta và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”. Vì vậy, phải rèn luyện bản lĩnh chính trị để phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Theo đó, các cấp ủy cần tập trung thực hiện tốt các biện pháp căn cốt sau:

Một là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông” dẫn tới khuyết điểm và trước hết, nguy hiểm nhất là “khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan” mà “nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng”. Vì thế, học tập lý luận chính trị, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị là công việc quan trọng, cần thiết, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên. Trau dồi, bồi dưỡng về lý luận chính trị; khắc phục những hạn chế trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng; giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng... sẽ giúp cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học; những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng; thấu suốt đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Từ đó có nhận thức chính trị, tình cảm chính trị đúng đắn, có thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Trong học tập, phải gắn lý luận với thực tiễn, phục vụ nhu cầu công tác, phát huy tính độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo, “học đi đôi với hành”. Đa dạng hóa các phương thức giáo dục lý luận chính trị theo hướng thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao khả năng “tự miễn dịch, tự đề kháng” trước những tác động tiêu cực, trái chiều.

Hai là, thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân.

Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm của mỗi cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường “sức đề kháng” chống lại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị phải luôn gắn với “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” theo phương châm mọi tổ chức, cán bộ, đảng viên phải tự giáo dục và rèn luyện hằng ngày.

Trong đó, gắn thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng và Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”… Thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết và đưa vào tiêu chí thi đua, đánh giá xếp loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền; kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt, nhân rộng các tập thể, cá nhân tiêu biểu đi liền với nghiêm túc phê phán những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc. Tạo không khí thi đua thiết thực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở từng cơ quan, địa phương, đơn vị.

Ba là, đổi mới công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, 6, 7 khóa XII.

Bố trí, sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở trường, đúng việc, đúng người. Lựa chọn và tìm được người tài đức xứng đáng với sự tin tưởng của tập thể và niềm tin nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, luân chuyển, bố trí cán bộ. Thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, với đổi mới cơ cấu, chức năng của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại theo hướng thiếu cái gì đào tạo, bồi dưỡng cái ấy nhằm nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng của cán bộ, đảng viên để làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn.

Tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Khắc phục tình trạng cục bộ, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và sự khép kín trong từng vùng, ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tạo điều kiện để cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn. Hoàn thiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt những người trong Đảng hay ngoài Đảng, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của tất cả các cấp, ngành trong hệ thống chính trị.

Bốn là, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng - nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở - để mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên xứng đáng là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cán bộ, đảng viên phải tiên phong gương mẫu, vững vàng trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ, chăm lo xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh; gắn nâng cao chất lượng ra nghị quyết với tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. Chủ động khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, hạn chế, khuyết điểm. Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, hành động thù địch để bảo vệ nền tảng, đường lối, quan điểm của Đảng.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảng viên chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; thực hiện Điều lệ Đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm; tự soi, tự sửa các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí truyền thông... trong kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên.

Gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng; kiên quyết, nghiêm minh xử lý đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm và những tổ chức đảng yếu kém.

Tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính trị, vai trò nêu gương của người đứng đầu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.

Năm là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Chủ động triển khai các biện pháp, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chức năng thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa những hoạt động phá hoại chính trị nội bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp luôn nắm vững và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đồng thời, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo về công tác này. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi cán bộ, đảng viên; gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với xây dựng cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở an toàn, vững chắc về mọi mặt...

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ LÀ SỰ THỂ HIỆN “TÍNH ĐẢNG”

 Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, bản lĩnh chính trị là phẩm chất tuyệt đối cần thiết; là sự thể hiện “tính đảng”; là trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm đều phải: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”; “quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân…, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp”. Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên thể hiện ở sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ...

Bản lĩnh chính trị của Đảng còn được thể hiện trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; thể hiện ở sự vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng và của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá chế độ của các thế lực thù địch, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn phong trào cách mạng của mỗi người. Khi mỗi người, trong mọi thời điểm thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, luôn thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, có tinh thần vững vàng, niềm tin chắc chắn và sự kiên định thì “phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”.

“TỰ DIỄN BIẾN” “TỰ CHUYỂN HÓA” LÀ SỰ SUY THOÁI

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là hệ quả của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo chiều hướng ngày càng tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Điều đó khiến cho vai trò tiên phong, gương mẫu của họ ngày càng giảm, không đủ “sức miễn dịch”, thiếu “sức đề kháng” trước những tác động tiêu cực trong xã hội, đồng lõa với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng Việt Nam. Đó còn là biểu hiện rõ nhất của bản lĩnh chính trị không vững vàng, từ chỗ ban đầu là mơ hồ ảo tưởng, hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng dẫn đến hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…

Cụ thể hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn biểu hiện ở những việc sẵn sàng tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu ly khai, chống đối, lý luận phản động; phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ, phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; móc nối, câu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật…

Những biểu hiện trên cũng đã được V.I.Lênin chỉ ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, dưới các biểu hiện khác nhau của những người đảng viên trong các Đảng dân chủ - xã hội Tây Âu như: tư tưởng cơ hội về chính trị, tư tưởng và tổ chức, khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng chống chủ nghĩa Mác, đòi xét lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận chủ nghĩa Mác… Đó chính là bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của giai cấp tư sản.

Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ những biểu hiện: “Thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… mang nặng chủ nghĩa cá nhân… không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước… hững hờ như những người không có lý tưởng,… không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm”; “ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác… tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người… coi thường những quyết định của tổ chức,… coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài… chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình… phô trương, lãng phí… sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”, “biến thành người có tội với cách mạng” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái.

Để khắc phục các biểu hiện, hiện tượng đó, Người khẳng định phải: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và mỗi “người đảng viên chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Một là, công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch luôn phải được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác này một cách thực chất, thường xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị lớn, có sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng. Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch với nước ta.

Hai là, tiếp tục tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, đặc biệt là các phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch để tuyên truyền các luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch; dự báo thời điểm các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng để kịp thời triển khai biện pháp đấu tranh, ngăn chặn. Trong đó, đặc biệt chú trọng nắm tình hình từ xa, nắm tình hình ngay từ trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để chủ động triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vị thế, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước; làm cho hệ tư tưởng này có sức sống mãnh liệt và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của xã hội ta. Qua đó nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho cuộc đấu tranh, phê phán quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch chống phá Việt Nam. Gắn kết chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ hệ tư tưởng của xã hội ta với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chủ động, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tuyên truyền và tư tưởng, lý luận; gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong công tác này nhằm tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân về bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng minh chứng cụ thể từ những thắng lợi trong lịch sử dân tộc và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng; về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm tuyên truyền, xuyên tạc hệ tư tưởng của xã hội ta... để từ đó thúc đẩy mọi người tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh. Làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ tác hại của các thông tin phản động, xuyên tạc; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” các nội dung thông tin xấu độc, nguy hại đối với xã hội.

Năm là, tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đó là minh chứng sinh động nhất nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đập tan luận điệu tuyên truyền sai trái, thù địch chống phá nước ta. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện, các vụ đình công, lãn công… ngay từ cơ sở, không để hình thành “điểm nóng”, không để kẻ địch lợi dụng chống phá. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, đảm bảo các yêu cầu đặt ra theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong và ngoài nước, kiên quyết không để sơ hở để kẻ địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.

Sáu là, tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông, internet và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Qua đó chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc của một số phóng viên, nhà báo thoái hóa, biến chất; phát hiện các tài liệu, bài viết tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc, thù địch để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các trang mạng độc hại, các blog “đen” thường đăng tải các tin, bài, phim ảnh có nội dung xấu, độc hại, trái ngược với quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực thông tin, truyền thông, quản lý internet, cần xác định những quan hệ xã hội nảy sinh trên lĩnh vực này chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị cơ quan chức năng xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.

Có thể thấy, phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc, thù địch chống phá nước ta là cuộc chiến đầy khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta và với những thành tựu đã đạt được trong công tác này những năm qua, chúng ta tin tưởng rằng, những năm tới, nước ta sẽ thực hiện thành công công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, thù địch đối với đất nước.

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, những thông tin xấu, độc hại, bịa đặt, vu cáo hòng chống phá Việt Nam. Thông qua đó, hòng xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, từng bước thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng coi đó là một mũi tấn công quan trọng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (ANCT-TTATXH).

Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, coi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Chúng cho rằng, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng triệt để lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lợi dụng các vụ việc phức tạp xảy ra ở trong nước để xuyên tạc rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, cho rằng Việt Nam nên thay đổi Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản để “phù hợp với xu thế phát triển”. Chúng ra sức đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là xã hội áp bức, bóc lột. Thông qua đó, nhằm làm một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới của đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam; kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta.

Để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch với nước ta, các thế lực thù địch đã xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: Các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội các nước (như Mỹ, Australia, Anh…); các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO) như: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: Sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt, như: BBC, VOA, RFA, RFI… Trong đó, các thế lực thù địch đã lập hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm tạp chí, báo, nhà xuất bản, hơn 60 đài phát thanh có chương trình tiếng Việt, tổ chức hàng chục cuộc hội thảo, tọa đàm hàng năm hoặc qua tiếp xúc, làm việc trực tiếp với các cá nhân, cơ quan trong nước… để xuyên tạc nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng, phủ nhận thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm kích động, lôi kéo nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ANCT-TTATXH; qua đó nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng như Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử Quốc hội… hoặc xảy ra các vụ việc phức tạp để đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng nhằm tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc, thù địch đối với nước ta. Điển hình như, vào các thời điểm đoàn Việt Nam bảo vệ Báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, các đối tượng phản động lưu vong tập trung biểu tình, rải tờ rơi xuyên tạc chính sách, thành tựu nhân quyền ở trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền. Hoặc khi chính quyền tổ chức cưỡng chế giải tỏa chùa Liên Trì (TP Hồ Chí Minh), các đối tượng đã tán phát tài liệu vu cáo Nhà nước ta đàn áp chức sắc, tín đồ, vi phạm quyền tự do tôn giáo của người dân.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng ngừa, đấu tranh trên lĩnh vực này, như: Nghị quyết số 16/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khóa X về tăng cường công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; nghị quyết Đại hội Đảng qua các thời kỳ… Trong đó, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã khẳng định: "Đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Ðảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc".

Trên cơ sở thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, như: Luật An ninh mạng 2018, Luật Báo chí 2016, Luật Xuất bản 2012… làm cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch. Chính vì vậy, những năm qua, chúng ta đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tuyên truyền những quan điểm sai trái, thù địch; xử lý nghiêm trước pháp luật các đối tượng tuyên truyền, xuyên tạc chống phá nước ta. Các cơ quan chức năng đã tăng cường quản lý báo chí, internet, hoạt động xuất bản, yêu cầu các tập đoàn truyền thông, như: Google, Youtube… gỡ bỏ các clip, tài khoản có nội dung xấu, độc hại. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương… các cơ quan chức năng đã chuyển tải chính sách, thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quyền con người tới cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài, góp phần giải tỏa các thông tin sai lệch và đấu tranh, phản bác các luận điệu phản động, thù địch đối với nước ta.

Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN TRONG PHÊ PHÁN, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tổ chức Đoàn và cán bộ, đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong thời gian tới, Đoàn Thanh niên các cấp sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đến các giải pháp về con người, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành các lực lượng, công cụ…; trong đó, tập trung vào một số giải pháp cơ bản, trọng tâm sau:

Thứ nhất, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Các cấp bộ đoàn kiên trì, sáng tạo, tiếp tục triển khai, cụ thể hóa Chỉ thị số 42, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, các nghị quyết, kết luận, đề án của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn về tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho đoàn viên, thanh niên giai đoạn 2018-2022. Đồng thời, có kế hoạch tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới trong cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Các cấp bộ đoàn duy trì, nâng cao hiệu quả các hình thức thi trực tuyến, tìm hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mạng internet. 

Sửa đổi, bổ sung, triển khai học tập các bài học lý luận chính trị phù hợp với từng đối tượng đoàn viên. Các tỉnh, thành đoàn, đoàn trực thuộc, đoàn thanh niên các trường đại học, học viện thành lập và phát triển các mô hình câu lạc bộ, đội, nhóm “Lý luận trẻ”...

Hai là, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng internet, mạng xã hội của tổ chức Đoàn, Hội các cấp và đoàn viên, thanh niên. Các cấp bộ đoàn ứng dụng công nghệ hiện đại để sản xuất các sản phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm về những nội dung lý luận liên quan đến nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, các ứng dụng trên mạng xã hội và các thiết bị di động thông minh. Xây dựng các chuyên trang định hướng dư luận, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên mạng xã hội. Định kỳ cung cấp thông tin định hướng, tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên về sử dụng mạng xã hội, xử lý khủng hoảng truyền thông trên mạng xã hội, nhận diện và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Các cơ sở Đoàn chủ động xây dựng, điều hành các trang thông tin điện tử, kênh Youtube, Fanpage, Group Facebook, Zalo... trong thanh niên. Thường xuyên khảo sát trực tuyến trên internet, mạng xã hội, phân tích, khảo sát và xây dựng báo cáo phản ứng dư luận và tác động xã hội bằng phương pháp phân tích “Dữ liệu lớn” (Big Data) về các vấn đề quan trọng, nổi cộm được dư luận xã hội, đặc biệt là giới trẻ quan tâm.

Với quan điểm gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả, các cấp bộ đoàn thường xuyên tuyên truyền các câu chuyện đẹp, nhân văn, những tấm gương tốt, những yếu tố tích cực... trong cuộc sống với đoàn viên, thanh niên qua mạng xã hội; tuyên truyền, vận động thanh niên ứng xử văn hóa trên mạng xã hội, có trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội. 

Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp” trên mạng xã hội, góp phần tạo ra trào lưu, xu hướng đăng tải, chia sẻ thông tin tích cực trên mạng xã hội. Triển khai trên diện rộng và đổi mới phương thức tổ chức các chương trình “Tuổi trẻ Việt Nam - Câu chuyện hòa bình”, “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”.

Ba là, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp và đảng viên dự bị, đảng viên trẻ. Theo đó, các cấp bộ đoàn triển khai hiệu quả chương trình “Rèn luyện đoàn viên” giai đoạn 2018-2022; định kỳ tổ chức học tập các bài học lý luận chính trị cho đoàn viên. Vận động và tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia các phong trào, chương trình, hoạt động thực tiễn, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện, phát huy đoàn viên, thanh niên. Tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phòng chống tham nhũng, lãng phí, góp ý đảng viên, đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng với hình thức phù hợp. Chú trọng và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tính tiên phong, bản lĩnh cho đoàn viên, đảng viên dự bị, đảng viên trẻ, phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…

Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”; trong đó, chú trọng giới thiệu đoàn viên ưu tú là công nhân trực tiếp sản xuất, sinh viên, thanh niên nông thôn, lực lượng vũ trang, trí thức trẻ, thanh niên dân tộc thiểu số, cán bộ đoàn cơ sở. Định kỳ tuyên dương đảng viên trẻ tiêu biểu các cấp. 

Để Đoàn Thanh niên và mỗi cán bộ, đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, bên cạnh sự chủ động, tích cực của tổ chức Đoàn Thanh niên, rất cần sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, thường xuyên của các cấp ủy đảng, sự phối hợp, vào cuộc của các cấp chính quyền, các đoàn thể.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN TRONG PHÊ PHÁN, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

Trong những năm gần đây, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (Đoàn Thanh niên) luôn coi trọng, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Trước hết, Đoàn Thanh niên đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai, cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về giáo dục lý tưởng cách mạng cho đoàn viên, thanh thiếu nhi theo giai đoạn và hằng năm như: Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24-3-2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030” (Chỉ thị 42); Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05) trong đoàn viên, thanh niên; 4 đề án, nghị quyết, kết luận về giáo dục lý tưởng cách mạng trong cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi giai đoạn 2012-2017 và 2018-2022.

Hai là, Đoàn Thanh niên đã từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Các cấp bộ đoàn đã tổ chức đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua sinh hoạt chi đoàn, sinh hoạt chính trị “Con đường cách mạng của thanh niên thời kỳ mới”, “Tự hào tiến bước dưới cờ Đảng”, “Tự hào tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh”, tọa đàm, hội thảo về cuộc đời, sự nghiệp, giá trị học thuyết MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các cuộc thi tìm hiểu trên mạng internet, cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường”, “Tầm nhìn xuyên thế kỷ”… thu hút hàng triệu lượt đoàn viên, thanh niên, sinh viên tham gia. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được triển khai đồng bộ, thường xuyên, liên tục, xác định nội dung, hình thức phù hợp với từng đối tượng thanh thiếu nhi, gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng dư luận trong thanh niên trước những diễn biến phức tạp và công tác đấu tranh với những luận điệu chống phá, âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm vào thanh niên được chú trọng hơn.

Ba là, Đoàn Thanh niên đã tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội. Các cấp bộ đoàn đã nghiêm túc tổ chức quán triệt, triển khai trong cán bộ đoàn, đoàn viên, tuyên truyền trong thanh niên về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc quán triệt, học tập, tuyên truyền các nghị quyết của Đảng, của Đoàn được triển khai với nhiều hình thức sáng tạo, như: học tập trực tuyến, thi trắc nghiệm, thi tự luận trên internet, xây dựng phim ngắn, bản đồ tư duy tuyên truyền, phổ biến nghị quyết... Trong 5 năm gần đây, đã có trên 30 triệu lượt cán bộ, đoàn viên, thanh niên được quán triệt, học tập, tuyên truyền các nghị quyết của Đảng, của Đoàn, được học tập lý luận chính trị. Quán triệt quan điểm “Xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các cấp bộ đoàn đã phát huy vai trò của đoàn viên, tổ chức cơ sở đoàn xung kích thực hiện nghị quyết của Đảng, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; thông qua đó, tạo môi trường để đoàn viên rèn luyện, trưởng thành và phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Với các giải pháp chỉ đạo sát hợp, kịp thời, cụ thể và sự cố gắng, nỗ lực của các cấp bộ đoàn, trong 10 năm (2008-2018) thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Đoàn Thanh niên đã giới thiệu cho Đảng 2.184.913 đoàn viên ưu tú; trong đó, có 1.207.210 đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng chiếm 55,25% tổng số đoàn viên ưu tú được giới thiệu. 

Trong tình hình hiện nay, bối cảnh mới đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết trước mắt, thường xuyên, vừa chiến lược, lâu dài đối với tổ chức Đoàn là phải bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch. Khách quan, đó là quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bối cảnh xã hội đa dạng, diễn biến tư tưởng xã hội có nhiều biến động, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, nhất là lợi ích vật chất tác động lệch lạc đến nhận thức, tư tưởng của thanh niên. Sự phát triển bùng nổ của internet và các mạng xã hội toàn cầu đang tác động mạnh mẽ, nhiều chiều đến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó nhiều thông tin khó kiểm chứng. Các thế lực thù địch, phản động có những chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó thế hệ trẻ là một trong những đối tượng trọng điểm. 

Chủ quan, đó là nhận thức của một bộ phận cán bộ đoàn về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa đầy đủ, thậm chí có một bộ phận nhỏ coi đó là công việc của Đảng, của cơ quan chức năng, ở tầm vĩ mô; thiếu kiên trì trong triển khai các giải pháp. Đoàn còn bị động, thiếu kịp thời trong nắm bắt, đấu tranh phản bác với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thanh niên hiện nay không có nhiều cơ hội rèn luyện qua môi trường thực tiễn sinh động của cách mạng như trong chiến tranh và giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một bộ phận đảng viên, trong đó có đảng viên trẻ có biểu hiện lười tu dưỡng, rèn luyện, bản lĩnh chính trị không vững vàng, thậm chí có một số ít thanh niên bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: "Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Ðảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Ðảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa";  “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.

GIẢI PHÁP CƠ BẢN KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG XUỐNG CẤP ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA

Chắc sẽ còn nhiều hơn nữa những lý do giải thích cho sự xuống cấp đạo đức, nhưng câu trả lời cho giải pháp nào để giúp giảm bớt và tiến tới loại trừ hẳn hiện tượng tiêu cực này có lẽ sẽ quan trọng hơn việc mải miết đi tìm nguồn gốc mà không đưa ra những cách làm hữu hiệu để loại bỏ nó. Dưới đây là một vài gợi ý nhỏ cho một vấn đề lớn được tiếp cận từ góc độ văn hóa:

Thứ nhất, cần quan tâm hơn đến vai trò của nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng con người mới, xác định những giá trị xã hội mới được xã hội tôn vinh.

Trước kia, cha ông chúng ta chỉ sử dụng các loại hình nghệ thuật như tuồng, chèo, cải lương, sử dụng tục ngữ, dân ca để chuyển tải các thông điệp nhân văn, mà giáo huấn được cả xã hội đi theo tiếng gọi của lương tri, đạo đức. Bối cảnh xã hội hiện nay không cho phép chỉ sử dụng những biện pháp cũ, nhưng nếu chúng ta cho nghệ thuật, hình thành những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, thu hút sự quan tâm của nhiều người dân trong xã hội, thì sức lan tỏa của các thông điệp từ nghệ thuật có tác dụng cao hơn nhiều lời hiệu triệu. Chứng kiến cả chục ngàn người đứng lên hát vang quốc ca trong một trận đấu bóng đá và cả nước hân hoan, vẫy cờ, ào xuống phố một cách trật tự, văn minh cùng với niềm vui chiến thắng của dân tộc, cũng là lúc chúng ta hiểu thêm những giá trị tốt đẹp mà văn hóa đem lại cho cả xã hội. Từ những niềm vui tinh thần do văn hóa mang lại đó, bầu không khí xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, thuận tiện hơn để cả dân tộc có thể tạm quên đi những khó khăn, tiếp bước trên hành trình vinh quang của mình.

Thứ hai, xây dựng và củng cố hệ thống các quy tắc đạo đức trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi viết cuốn sách “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản”, Max Weber đã nhấn mạnh đến khía cạnh dẫn dắt sự phát triển của xã hội từ các giá trị đạo đức. Theo đó, chính các giá trị đạo đức đã có tác dụng vừa ổn định xã hội, vừa tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Muốn làm được như vậy, xã hội cần hình thành hệ thống các quy tắc đạo đức ở tất cả các lĩnh vực khác nhau. Nghề giáo, nghề y hay bất kỳ một ngành nghề nào cũng có một bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Bộ quy tắc đạo đức ấy sẽ giúp đạo đức xã hội được ổn định trong từng nhóm nhỏ, rồi từ đó lan ra toàn xã hội (việc Hội Nhà báo Việt Nam vừa cho ra đời Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam là một ví dụ cho thấy, chúng ta cần có thêm các bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức cho các lĩnh vực khác nhau để bảo đảm sự ổn định, rõ ràng trong hành vi ứng xử của từng nhóm xã hội trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể).

Thứ ba, phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông trong việc truyền đi thông điệp tích cực về những lối sống đẹp, những tấm lòng nhân ái trong xã hội, và hình thành một dư luận xã hội ủng hộ các giá trị chân - thiện - mỹ. Về bản chất, xã hội là tốt và con người là hướng thiện. Vì thế, để cái tốt và lòng hướng thiện lan tỏa trong xã hội sẽ khiến cho cuộc sống đẹp hơn. Chính cái thiện, cái đẹp của văn hóa trong xã hội sẽ góp phần đẩy lùi tệ nạn và cái xấu, đạo đức tốt đẹp trong xã hội sẽ dần trở lại. Từ đó, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là hệ điều tiết cho sự phát triển xã hội./.

NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ XUỐNG CẤP ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA

Đạo đức xã hội xuống cấp là vấn đề đáng lo ngại ở nước ta hiện nay. Chúng ta đều nhận thức được tác hại khôn lường của nó đối với sự phát triển của dân tộc.

Xét ở một khía cạnh nào đó, văn hóa là sản phẩm của một xã hội. Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều phản ánh vào văn hóa. Sự xuống cấp đạo đức cũng nằm trong một bối cảnh chung như thế. Xét theo chiều lịch đại, chúng ta thấy sự thay đổi nhanh chóng của xã hội Việt Nam. Nhiều thành tựu chính trị, kinh tế, xã hội và cả văn hóa đã được người dân chứng kiến, đặc biệt từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc Đổi mới. Tuy nhiên, không có bất cứ thứ gì không có mặt trái của nó. Sự mở cửa về kinh tế, xã hội, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông, bên cạnh những tác động tích cực, cũng để lại rất nhiều hệ quả. Ở góc độ văn hóa, sự thay đổi xã hội khiến cho lôgic vận hành của văn hóa thay đổi, bao gồm những vấn đề của định hướng giá trị, thói quen và phong tục, tập quán của một xã hội đang trên đà chuyển đổi. Với định hướng giá trị, thì đó là những giá trị cũ, có những thứ không còn thích hợp thì chưa mất hẳn, còn những giá trị mới, phù hợp hơn thì chưa thực sự định hình. Có những tấm gương đạo đức trước kia có tác dụng rất lớn, giờ không còn đóng đúng vị trí của nó nữa!

Xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng giá trị. Từ khủng hoảng giá trị dẫn đến mất niềm tin và định hướng trong xã hội, đó là lý do quan trọng của tình trạng xuống cấp đạo đức vì xung đột và khủng hoảng giá trị và niềm tin. Kể cả những nghề được xã hội coi trọng, xem là cao quý như nghề giáo và nghề y đang chứng kiến nhiều hiện tượng xuống cấp đạo đức cũng chính vì những lý do này.

Sự thay đổi thói quen, phong tục, tập quán cũng trong vòng quay như vậy. Những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc giờ đây bị thách thức bởi những thói quen mới được ra đời từ cuộc sống giàu sang và tiện nghi hơn, bị quyến rũ bởi những thông tin về cuộc sống xa lạ ở các xã hội xa lạ. Điều này dường như còn được làm đậm hơn bởi những “người của công chúng” khi đưa ra những ca khúc phản cảm với những ca từ nhảm nhí, lối sống tạo scandal để nổi tiếng bằng mọi giá, bất chấp những giá trị đạo đức của dân tộc. Tất cả khiến cho nhiều chủ nhân tương lai của xã hội (thế hệ trẻ) lạc lối trong cách xác định lý tưởng sống cũng như phong cách sống. Những lối sống mới xa lạ, đua đòi, những phong cách thời trang, nghệ thuật không phù hợp với chuẩn mực đạo đức dân tộc đã khiến cho xã hội trở nên hỗn loạn hơn, và đó cũng là nguyên nhân của sự xuống cấp đạo đức trong xã hội xét từ cách nhìn văn hóa.

Các phương tiện truyền thông đang khiến cho những giá trị phản văn hóa được dung dưỡng, lan truyền bằng những thông tin thiếu định hướng. Việc xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới với internet và điện thoại di động thông minh, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cũng tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách, đặc biệt trong tầng lớp thanh, thiếu niên. Thế giới ảo nhưng tác động thực là những thứ mà xã hội chúng ta chưa từng chứng kiến và chưa có giải pháp hữu hiệu để đối phó. Trào lưu cá nhân hóa khác rất nhiều so với lối sống vì cộng đồng từng phổ biến trong xã hội truyền thống. Các cá nhân tưởng tượng mình vô danh trên thế giới ảo, có thể thể hiện ý kiến (kể cả bức xúc) của mình theo cả những cách tiêu cực nhất. Và khi chính sự tự kiểm soát bản thân không thể thực hiện được trên môi trường mạng, cái xấu sẽ lan tràn ra toàn xã hội. Đó là những điều chúng ta thực sự lo ngại.

TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO, TÍN NGƯỠNG CỦA NHÂN DÂN TRÊN CƠ SỞ LỢI ÍCH QUỐC GIA, DÂN TỘC

Suốt nhiều năm qua, các thế lực thù địch luôn triệt để lợi dụng từ “tự do” trong cụm từ “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” của hệ thống pháp luật Việt Nam để tổ chức các hoạt động chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị-xã hội.

Để thực hiện mưu đồ ấy, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn nhằm tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước; hậu thuẫn về vật chất, tinh thần cho các đối tượng chống đối, đưa tôn giáo ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị “đối trọng” với Đảng. Chúng xác định lấy “tự do tôn giáo” làm “ngòi nổ” để chống phá Việt Nam. 

Những năm gần đây, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch nhằm tách quyền “tự do” ra khỏi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam thể hiện dưới các hình thức: Chống phá thông qua việc ra các đạo luật, nghị quyết từ ngoài nước; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng sự mở rộng về dân chủ, nhân quyền của Nhà nước Việt Nam để tiến tới quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, hòng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Việt Nam; tăng sức ép với Việt Nam qua thể chế hóa các vấn đề về tự do tôn giáo, tín ngưỡng nhạy cảm, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, vu khống về tự do tôn giáo ở Việt Nam... Chúng xúi giục, kích động số phần tử phản động trong tôn giáo người Việt ở nước ngoài tổ chức các hoạt động chống phá về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; tổ chức một số cuộc mít tinh, biểu tình do các hội, nhóm mang danh tôn giáo hải ngoại nhằm đưa ra những yêu sách đòi Việt Nam thực thi cái gọi là "các quyền tự do tôn giáo". Để đi sâu hơn, chúng hỗ trợ, kích động và chỉ đạo một số linh mục cực đoan trong nước đẩy mạnh hoạt động chống phá. Bên cạnh đó, các cơ quan đại diện chính thức của một số nước phương Tây thông qua đại sứ quán, lãnh sự quán đã có những hoạt động công khai, hoặc bí mật ủng hộ số đối tượng cực đoan nói trên. Họ trực tiếp, hoặc cử người đi điều tra, nắm những sai sót, sơ suất trong thực hiện chính sách tôn giáo của Việt Nam ở các địa phương, cơ sở để lợi dụng chống Đảng và Nhà nước, tố cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp giáo sĩ...

Thực tế cho thấy, được sự chỉ đạo và hỗ trợ của các thế lực thù địch, một số linh mục cực đoan đã viết và tán phát nhiều tài liệu đi ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân Việt Nam đã giành được qua các cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ đòi hỏi xã hội phải thừa nhận vai trò của tôn giáo như vai trò của chính quyền trong việc điều hành xã hội... Những hoạt động nói trên tuy chưa phải phổ biến, song nó cho thấy tính chất thâm hiểm và xảo quyệt trong việc chống phá cách mạng Việt Nam, kích động, chia rẽ bà con giáo dân với cấp ủy đảng, chính quyền ở cơ sở, gây bất hòa giữa những người theo đạo và không theo đạo, làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân và lợi ích chung của dân tộc.

Ở các tỉnh miền núi, chúng lợi dụng việc đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn trong đời sống sinh hoạt và phát triển kinh tế, nhận thức còn hạn hẹp để truyền đạo trái phép, hòng lôi kéo, tập hợp quần chúng. Thời gian qua nổi lên là hiện tượng lôi kéo đồng bào dân tộc đi theo đạo Tin lành Đề-ga; đạo Dương Văn Mình... Thông qua việc giảng đạo, các đối tượng lồng ghép những vấn đề chính trị để chống lại đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cụ thể, họ kích động đồng bào dân tộc thiểu số không thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình, không tham gia các tổ chức chính trị ở địa phương, không tham gia các hoạt động do cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai... nhằm lôi kéo đồng bào ra khỏi sự quản lý của chính quyền, vô hiệu hóa chính quyền cơ sở.

Những vấn đề dẫn ra ở trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo đang đặt ra thật sự cấp bách. Bởi sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo có tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị, làm suy giảm những thành tựu của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, việc đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta. Điều đó đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.

Để đập tan những âm mưu, thủ đoạn phản động, trước hết phải nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo mà cụ thể là chiêu bài lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác, kịp thời đấu tranh hiệu quả với mọi âm mưu và hoạt động chống phá của chúng. Cần phải hiểu rằng, cuộc đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo và âm mưu “diễn biến hòa bình” trong khu vực và trên thế giới ngày nay sẽ còn nhiều biến động phức tạp, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam vẫn tiếp tục là mục tiêu chống phá của chủ nghĩa đế quốc. Trong những năm tới, vấn đề tôn giáo, dân chủ và nhân quyền vẫn tiếp tục là mục tiêu tiến công, chống phá của các thế lực thù địch, cần phải đặc biệt quan tâm.

 Phải xác định rõ đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các thế lực thù địch chính là giữ vững được sự ổn định bên trong; linh hoạt, mềm dẻo giải quyết hài hòa các lợi ích giữa đồng bào theo đạo và đồng bào không theo đạo trên cơ sở lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc. Trong đó khẳng định việc đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và phải lấy đó làm điểm tương đồng để đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc và tập hợp các lực lượng cho cuộc đấu tranh ấy. Cần phải thực hiện các biện pháp để đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng nhưng vẫn thực hiện tốt mục tiêu, đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng, ngày càng thu hút bạn bè quốc tế theo tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Để có cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh này, chúng ta cần xây dựng được "thế trận lòng dân" vững chắc. Trong đó phải chú trọng xây dựng được niềm tin với nhân dân, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; hướng các chức sắc, chức việc tôn giáo vào việc vừa phụng sự đạo giáo, vừa phục vụ sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Để làm được điều đó phải dựa chắc vào dân, tổ chức liên kết nhân dân thành một khối đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ và sức mạnh tổng hợp của nhân dân, nhất là trong đồng bào có đạo, định hướng cho đồng bào luôn hành động theo mục tiêu sống tốt đời, đẹp đạo. Bên cạnh đó chúng ta phải phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các địa phương, thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế-xã hội mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trên tất cả vùng, miền của Tổ quốc. Làm tốt những vấn đề trên chắc chắn chúng ta sẽ tạo ra được một khối đoàn kết thống nhất giữa Đảng với nhân dân và trong các tầng lớp nhân dân với nhau mà không một thế lực nào có thể phá vỡ.

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG - MỘT NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN

Để phòng ngừa và đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân mà còn là một trong những thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và mỗi người dân về quyết tâm của Đảng, Nhà nước đối với cuộc đấu tranh PCTN; đưa nội dung đấu tranh PCTN vào sinh hoạt định kỳ của các tổ chức Đảng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị. Trong đó, các tổ chức Đảng tăng cường chỉ đạo quyết liệt công tác giáo dục, phòng ngừa tham ô, tham nhũng; các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về PCTN. Đồng thời, nâng cao và phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng trong thwucj thi trọng trách được giao gắn với đấu tranh PCTN theo Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường phối hợp và kịp thời cung cấp, công khai thông tin, định hướng tuyên truyền về PCTN, để một mặt tạo sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị; mặt khác thông qua đó, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch lợi dụng PCTN để chống phá Đảng, Nhà nước. Chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm, bất kể là ai, giữ chức vụ gì; về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm trong đấu tranh PCTN đi liền cùng với việc chủ động tuyên truyền gương người tốt, việc tốt; bảo vệ, khen thưởng, động viên những người dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng. Thông qua tuyên truyền về kết quả đấu tranh PCTN, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật và đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm, góp phần làm trong sạch bộ máy, tạo động lực, khí thế, sự thống nhất cao về ý chí và hành động để cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, tiếp tục gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ" với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và với các Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QÐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”… Qua đó, mỗi người hằng ngày đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân; kiên quyết chống tư tưởng trực lợi và các biểu hiện cơ hội, thực dụng, lạm dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm”,v.v.. Coi đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mỗi cá nhân trong công tác giáo dục và tự giáo dục, vừa đấu tranh và tự đấu tranh để thiết thực phòng và chống 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ nói chung, về đấu tranh PCTN nói riêng.  

Thứ tư, phải công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị để cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức… nhà nước nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện chức trách, công vụ theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Việc công khai, minh bạch không chỉ góp phần để những người "có chức quyền" hiểu rằng mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để vụ lợi, trục lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý mà còn để người dân nhận biết được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo các quy định của pháp luật cũng như đòi hỏi các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các quy định đó. Theo đó, cần công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định… đó là “những chìa khóa then chốt” để bảo đảm đấu tranh PCTN hiệu quả, thành công.

Thứ năm, tham khảo kinh nghiệm PCTN của một số nước trên thế giới, để có thể vận dụng trong quá trình xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, hoàn thiện thể chế, phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành, các cấp trong đấu tranh PCTN. Bổ sung một số hành vi tham nhũng thuộc tội phạm tham nhũng; ban hành các quy định về bảo vệ, khen thưởng người có thành tích trong công tác PCTN, nhất là người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng; đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 28/2/2018. Đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ PCTN; tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng đi liền cùng với đó là cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức, viên chức… để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh PCTN. Đồng thời, cùng với quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, trước mắt, phải xây dựng và hoàn thiện chế tài pháp lý để mỗi người, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chức quyền tại các cơ quan công quyền trong hệ thống chính trị “không thể tham nhũng” và “không dám tham nhũng”./.

THAM NHŨNG VÀ HỆ LỤY CỦA NÓ

Theo Bộ Luật hình sự, Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN) năm 2005 và Luật PCTN năm 2018 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019), các hành vi tham nhũng bao gồm: "1. Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện bao gồm: a) Tham ô tài sản; b) Nhận hối lộ; c) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; đ) Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; g) Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;  h) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; k) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; l) Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; m) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. 2. Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm: a) Tham ô tài sản; b) Nhận hối lộ; c) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi"...

Thực tế cho thấy, các hành vi tham nhũng nêu trên đã và đang xảy ra không chỉ ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn có giá trị hàng ngàn tỷ đồng (tham nhũng lớn) mà còn xuất hiện nhiều tại các bệnh viện, các cơ quan công quyền ở cơ sở,v.v.. nơi hằng ngày trực tiếp giải quyết những công việc liên quan lợi ích của nhân dân (tham nhũng vặt). Diễn ra càng tinh vi, khó phát hiện do các đối tượng tham nhũng thường có chức vụ, quyền hạn, có trình độ hiểu biết pháp luật, quan hệ rộng, liên kết với nhau thành các nhóm lợi ích - “tham nhũng lớn” hay “tham nhũng vặt” - những hành vi tham nhũng của những người đang chịu trách nhiệm thực thi công vụ, quản lý trong một tổ chức có động cơ, lợi ích cá nhân, trục lợi trên cương vị của mình, sẵn sàng “ăn không từ thứ gì” cũng đều gây hậu quả nặng nề, cũng đều là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong đó, “tham nhũng lớn” bị phát hiện ngày càng tăng về số lượng, mức độ thiệt hại, số tiền và tài sản thất thoát và rất rất nhiều vụ “tham nhũng nhỏ” diễn ra công khai cũng từng bước được “chỉ mặt vạch tên”.

Tham nhũng không chỉ xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn lan rộng sang các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao; trong các chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; trong các chương trình cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai; trong quá trình xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng… Tham nhũng làm thay đổi mọi lĩnh vực trong trong đời sống xã hội như kinh tế, luật pháp, dân chủ, luân lý, giáo dục... đã xâm phạm, thậm chí làm xê dịch, thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức trong hệ thống các cơ quan công quyền, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Tham nhũng không chỉ làm xói mòn niềm tin của người dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn "tiếp tay" cho các thế lực thù địch, phản động trong việc bôi nhọ, hạ uy tín, vị thế của Đảng trong phạm vi quốc gia cũng như trên trường quốc tế.  

Tham nhũng - những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được đã khiến nhiều cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao “không giữ được mình”, không gương mẫu trong thực thi trọng trách được giao, nói một đằng, làm một nẻo, không còn xứng đáng với vai trò tiền phong. Họ đã bất chấp việc vi phạm pháp luật mà làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp…để vụ lợi, trục lợi cho mình, người thân, cánh hẩu của mình, nhóm lợi ích của mình... dẫn đến làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gây bất bình, bức xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân đối với các cơ quan công quyền. Vì vậy, bình sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ; “là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta… làm hỏng tinh thần trong sạch, ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Tuy các tệ nạn này biểu hiện trong đời sống xã hội dưới nhiều dạng khác nhau, song các hành vi tham ô, tham nhũng dù là “lớn’ hay “vặt” cũng đều là “ăn cắp của công làm của tư”, “đục khoét của nhân dân”, “ăn bớt của bộ đội”, “tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình”, “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” …, cho nên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải “- Chống nạn tham ô, - Chống nạn lãng phí, - Chống bệnh quan liêu”. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh rằng, chừng nào và ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó ắt có tham ô, lãng phí và nơi nào bệnh quan liêu càng nặng, thì ở đó càng nhiều lãng phí, tham ô, càng nhiều hiện tượng tham nhũng từ nhỏ đến lớn. Tất cả những tệ nạn đó, các hành vi đó, dù xảy ra ở cấp Trung ương hay tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị cơ sở cũng đều là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân, chúng đều “xâm phạm đến lợi ích của nhân dân”, đều “là kẻ thù của nhân dân và của Chính phủ”. Do đó, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu cũng rất cần thiết, “quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”- mặt trận tư tưởng và chính trị. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Thực hiện theo chỉ dẫn của Người, trong những năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong thời kỳ miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội để làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam, công tác phòng và chống tham ô, tham nhũng, quan liêu - chống thứ “giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm” đã được thực hiện, với quyết tâm chính trị cao. Từ Trung ương đến các địa phương đều thống nhất triển khai chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu với tinh thần: 1) “Phải kiên quyết chống nạn lãng phí ở các cơ quan và trong sự sinh hoạt của chúng ta. Chống cách tiêu dùng bừa bãi tiền của của nhân dân và vốn liếng của Chính phủ”; 2) “Phải chấm dứt nạn phô trương, lãng phí” trong “những cuộc khai hội, những lễ kỷ niệm, những đám yến tiệc tốn hàng vạn, hàng chục vạn” và “không thể tha thứ cho những việc phô trương, lãng phí như vậy”; 3) Chấm dứt cái thói vô Chính phủ như “xem thường phép luật, chính quyền”, “hy sinh lợi ích của nước nhà để lên mặt mình khảng khái” của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức quyền; 4) Phải chống nạn ăn cắp của công mà các cơ quan quen gọi trộm cắp “đường hoàng” vì “đó là một điều đáng chú ý, một điều đáng nguy hiểm”; đồng thời, cũng phải chống bọn “trộm cắp kín đáo”, “bọn trộm cắp tinh vi”, để chúng “không sống còn được”…

Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết về PCTN, công tác PCTN đã có bước tiến mạnh, đột phá, đạt nhiều kết quả toàn diện, tích cực rõ rệt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Báo cáo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN ngày 25/6/2018 khẳng định: “Công tác phòng, chống tham nhũng được chỉ đạo thực hiện ráo riết, quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, được nhân dân rất hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá tích cực. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”. Theo đó, nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được ban hành về PCTN vừa có tác dụng giáo dục, răn đe, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm…  Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác PCTN …

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác PCTN vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu… Trong khi đó, không chỉ các vụ “tham nhũng lớn” mà ngay cả “tham nhũng vặt” trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn còn nhiều, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, việc chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện nghiêm đã tạo “kẽ hở” cho việc lạm quyền để trục lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu rèn luyện đạo đức, tham lợi, vụ lợi bất chính...