Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

PHÁT HUY NGUỒN LỰC CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Đảng, Chính phủ và nhân dân ta luôn coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vì vậy, ngày 10/11/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1334/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” để góp phần củng cố mạng lưới kiều bào trên toàn thế giới, huy động nguồn lực quan trọng này tham gia phát triển đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Song, các thế lực thù địch lại cho rằng Quyết định số 1334/QĐ-TTg là sách lược xâm nhập và thao túng cộng đồng người Việt tại hải ngoại của cộng sản Việt Nam. Bài viết “Dự thảo sách lược đối phó quyết định 1334 của CSVN” của Đào Tăng Lực đăng trên trên Bloger của Fb: Hội những người cầm bút can đảm là một điển hình. Thực tế, Đào Tăng Lực đang cố tình không hiểu, xuyên tạc, nói xấu chế độ chính trị ở Việt Nam. Bởi vì:

1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược có ý nghĩa sống còn, cội nguồn sức mạnh quyết định sự thành bại của cách mạng, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta. Vì vậy, cần tăng cường phát huy dân chủ, tinh thần thân ái, trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình đẳng, tôn trọng, thông cảm lẫn nhau; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần, giai cấp; chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định: Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước luôn chủ động xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Đồng bào Việt Nam ở nước ngoài được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Thực tế, người Việt Nam ở nước ngoài được hỗ trợ đủ đầy địa vị pháp lý để tham gia phát triển kinh tế, hội nhập vào xã hội nước sở tại. Công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh; việc giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; công tác thông tin tình hình trong nước được thực hiện tốt, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc và có nhận thức, hành động phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Quyết định số 1334/QĐ-TTg là hiện thực hoá chủ trương, đường lối của Đảng, nhằm huy động nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng hội nhập quốc tế. Chủ trương này góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đồng thời, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước; củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp cho đất nước. Đây là sự phát triển tư duy của Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, phù hợp với bối cảnh hiện nay; có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần phát huy hơn nữa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với chủ trương đúng đắn này nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ được phát huy hiệu quả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Việc các thế lực thù địch, phản động lợi dụng Quyết định số 1334/QĐ-TTg để bôi nhọ, xuyên tạc, nói xấu chế độ chính trị ở Việt Nam là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân ta. Do đó, chúng ta cần kiên quyết vạch trần, đấu tranh phản bác bộ mặt xảo trá của chúng./.

  

SỰ LỆCH LẠC CỦA CÂU CHUYỆN NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

Vừa qua, trên mạng Internet, nhiều diễn đàn phản động phát tán bài viết: Hậu quả của kiểu “ngoại giao đổi chác” của Đài Châu Á Tự do RFA vu cáo nhà nước Việt Nam vi phạm nhân quyền. Bài viết cho rằng, “nhân quyền của Việt Nam năm 2023 tiếp tục tồi tệ đi” bởi “quyền tự do ngôn luận, lập hội, hội họp, đi lại và tôn giáo” bị đàn áp một cách có hệ thống. Đây là nhận định sai lệch, nhằm mục đích hạ uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng thế giới. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần hết sức tỉnh táo, đề cao tinh thần cảnh giác, nhận diện đúng bản chất của những luận điệu này, để không bị mắc mưu của các thế lực thù địch.

Thứ nhất, tại điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 và Luật tiếp cận thông tin năm 2016 đã nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.

Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 quy định rõ công dân có quyền: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”. Những nội dung này hoàn toàn phù hợp với các văn kiện quốc tế về quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam được thể hiện rất rõ qua sự phát triển đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của báo chí. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 41.600 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động.

Thứ hai, pháp luật Việt Nam với những quy định và chế tài rất rõ ràng, cụ thể để nghiêm trị những hành vi lợi dụng quyền tự do thông tin để chống phá đất nước. Bộ Luật Hình sự với điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; điều 155 “Tội làm nhục người khác”, điều 156 “Tội vu khống”; điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Ngoài ra, Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018, đều quy định rõ những hành vi như đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân… đều bị pháp luật xử lý.

Ở Việt Nam, không ai bị xét xử, bắt giữ chỉ vì bày tỏ chính kiến hay bảo vệ nhân quyền. Chỉ có những đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, vi phạm pháp luật; tung tin giả, tin “xấu độc” hòng gây bất ổn tình hình đất nước, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang dư luận… mới bị xử lý theo pháp luật. Đây cũng là biện pháp của Nhà nước Việt Nam để bảo vệ người dân trước những thông tin bịa đặt, sai sự thật, kích động thù hận…, đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tiếp cận những thông tin chính xác cho công dân. Điều đó phù hợp với luật pháp quốc tế và luật pháp của nhiều nước.

Rõ ràng, bức tranh hiện thực về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, lập hội, hội họp, đi lại, tôn giáo và tự do báo chí ở Việt Nam là thực tế khách quan, không ai có thể phủ nhận được. Giọng điệu Đài Á Châu tự do RFA về tình hình nhân quyền và quyền tự do ngôn luận, lập hội, hội họp, đi lại và tôn giáo bị đàn áp là bịa đặt, vu khống nhằm mục đích xấuMỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần hết sức tỉnh táo, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam./. 

THỰC TIỄN NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA RFA

Vừa qua trên “Rfavietnam” có bài viết: “Theo dõi nhân quyền: Chính phủ Việt Nam đuối lý khi công kích tổ chức phi chính phủ quốc tế” xuyên tạc, Chính phủ Việt Nam đuối lý khi tổ chức nhân quyền quốc tế đưa ra bằng chứng về việc công dân Việt Nam ngày càng mất nhân quyền; kiểm soát các nhóm xã hội dân sự và công đoàn lao động độc lập. Song, thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam đã phản bác luận điệu xuyên tạc này.

1. Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định, chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Quyền con người, quyền công dân là mục tiêu, động lực của sự phát triển, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng trong phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quyền con người, quyền công dân được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,… Bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền lực của nhân dân. Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm, thực thi theo Hiến pháp và pháp luật. Các quyền này gồm: Quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền tự do cư trú, tự do kinh doanh, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận và báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, tự do nghiên cứu, sáng tác, tự do lựa chọn nghề nghiệp mưu sinh, tự do hôn nhân… Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Bất cứ ai vi phạm các quyền này đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngày 11/10/2022 với 145 phiếu ủng hộ, Việt Nam là một trong 14 thành viên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, điều này khẳng định sự tiến bộ về nhân quyền ở Việt Nam được quốc tế công nhận nên RFA không thể xuyên tạc, phủ nhận.

2. Thực tiễn chứng minh rằng, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng “xã hội dân sự” làm công cụ để thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Với ý đồ xây dựng “xã hội dân sự” trở thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước, đòi Nhà nước chia sẻ quyền lực chính trị. Chúng sử dụng “xã hội dân sự” để gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, liên kết các tổ chức “xã hội dân sự” để thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Từ đó, hình thành tổ chức chính trị đối lập cùng với các thế lực bên ngoài, tìm cách xâm nhập, tác động, chuyển hóa các tổ chức chính trị, xã hội ở Việt Nam hòng “phi chính trị hóa” các tổ chức này; tìm cách tiếp xúc, móc nối, mua chuộc cán bộ, đảng viên trong nội bộ để tuyên truyền, kích động tâm lý bất mãn với Ðảng, Nhà nước; phủ nhận, xét lại lịch sử và giá trị văn hóa dân tộc; kích động tư tưởng vô chính phủ, tuyên truyền các giá trị của văn hóa phương Tây… Tiến tới làm “đổi màu” các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan do dân bầu trong hệ thống chính trị; thông qua các tổ chức xã hội dân sự để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn tạo ra tâm lý phản kháng, kích động quần chúng chống lại Đảng, Nhà nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

3. Bộ luật Lao động (sửa đổi) đổi có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021, cho phép thành lập “tổ chức đại diện người lao động” tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn, trên cơ sở phù hợp với các quy định quốc tế về lao động và tuân thủ các hiệp định thương mại tự do mới mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Trên thực tế, các thế lực thù địch đã lợi dụng điều này, đứng ra thành lập “Công đoàn độc lập Việt Nam”. Song, không đăng ký, không tiến hành các thủ tục xin phép thành lập, hoạt động trái với quy định pháp luật. Về thành phần tham gia gồm nhiều đối tượng từng có tiền án, tiền sự về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, có các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ đã bị xử lý hình sự, hành chính. Với mưu đồ biến “Công đoàn độc lập Việt Nam” thành một tổ chức bất hợp pháp, đối lập với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Thực chất, đây là cái cớ để các thế lực thù địch xuyên tạc, nói xấu chế độ chính trị; tiến hành các hoạt động đối lập với các cơ quan của hệ thống chính trị nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước, tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện mục đích đen tối, các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, lôi kéo công nhân, người lao tham gia “Công đoàn độc lập” tại Việt Nam.

Việc các thế lực thù địch, lợi dụng vấn đề nhân quyền để bôi nhọ, xuyên tạc chế độ chính trị ở Việt Nam là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm, của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân ta. Do đó, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, vạch rõ bộ mặt xảo trá của chúng để nhân dân hiểu rõ và cảnh giác. 

PHẠM TRẦN – KẺ XUYÊN TẠC TRẮNG TRỢN CÔNG CUỘC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC Ở VIỆT NAM

Trong thời gian qua, công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, thực chất, đi vào chiều sâu và đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng quốc tế vào sự nghiêm minh trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.

Tuy nhiên, với bản chất của một kẻ “bồi bút” thường xuyên chống phá cách mạng Việt Nam, trên trang “Vietbao” Phạm Trần có bài viết “Từ tham nhũng kinh tế đến tham nhũng quyền lực ở Việt Nam”. Trong bài viết, Y xuyên tạc rằng: “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ”. Y đã đánh tráo khái niệm và bịa đặt rằng: Công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam chưa được đẩy lùi “nên một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quay lưng lại với Chủ nghĩa Cộng sản Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”... Mục đích nhằm hướng lái dư luận hiểu sai về công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, từ đó kích động tư tưởng chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, cần nhận diện rõ và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ của Phạm Trần trên những nội dung sau:

Thứ nhất, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã sớm nhận thức và ngày càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tham nhũng là hành vi “ăn cắp của công làm của tư”, là “giặc nội xâm”. Tại Đại hội VI của Đảng, Đảng ta xác định: Tham nhũng “làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước”. Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng ta nhận diện tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam; Đại hội IX của Đảng xác định: Tham nhũng là “một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng đã nêu 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cơ sở để cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện, tự soi, tự sửa; Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định tham nhũng “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

Trong Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Tham nhũng và tiêu cực, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau; nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Như vậy, Đảng ta đã nhận thức rõ nguy cơ, tác hại của tham nhũng, tiêu cực và xác định rõ vị trí, vai trò của công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ hai, thực tế công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua ở Việt Nam đạt được nhiều kết quả tích cực; tham nhũng, tiêu cực từng bước được kiềm chế, đẩy lùi, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và hệ thống chính trị ở Việt Nam.

Trong 10 năm (2012 – 2022), Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hơn 2.000 nghị định, quyết định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhanh chóng đi vào hoạt động, đạt được những kết quả bước đầu; tăng cường công khai, minh bạch, giám sát, kiểm soát quyền lực. Đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý. Nhiều vụ án tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật. Những con số nêu trên cho thấy quyết tâm cao, nỗ lực rất lớn, tinh thần kiên quyết xử lý các vụ việc tham nhũng, tiêu cực “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc và chống phá của Phạm Trần về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam./. 

NHẬN ĐỊNH SAI TRÁI CỦA RFA VỀ LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI) Ở VIỆT NAM

Mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 (thay thế Luật Đất đai 2013). Tuy nhiên, lợi dụng tự do, dân chủ, một số phần tử cơ hội chính trị, phản động đã đưa ra những nhận định sai trái khi cho rằng: “Những người soạn luật đều là những cán bộ của nhà nước và là những người quản lý đất đai; Họ soạn luật chỉ nhằm có lợi cho chính quyền, cho những người quản lý đất đai thôi, quyền lợi của người dân kể như không được lưu tâm tới” và “Họ ép người dân rồi bắt người dân phải thí đất, giao đất vô lý, trái với pháp luật”. Đây là những nhận định vô căn cứ và hoàn toàn sai trái. Bởi vì:

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội là nơi ý chí của Nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước thể hiện bằng các đạo luật mang tính bắt buộc chung. Tất cả các vấn đề lớn thuộc mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… của đất nước đều được Quốc hội thảo luận và quyết nghị.

Quy trình xây dựng các Luật, Bộ Luật ở Việt Nam được tiến hành rất chặt chẽ, khoa học dân chủ. Các dự thảo Luật, Bộ Luật ở Việt Nam được lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân; bảo đảm phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ của Nhân dân trong việc góp ý vào nội dung dự thảo. Từ đó, tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các Luật và Bộ Luật.

Thứ hai, Luật Đất đai (sửa đổi) đã được chuẩn bị công phu, được Quốc hội thông qua với sự tán thành rất cao, nhân dân đồng tình ủng hộ.

Luật Đất đai (sửa đổi) là dự án luật lớn, có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của đất nước; có tác động sâu rộng đến các tầng lớp Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; đồng thời, là dự án Luật rất khó và phức tạp. Vì vậy, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được xây dựng công phu, chuẩn bị kỹ, được trình Quốc hội tại 04 kỳ họp, 02 Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, 08 phiên họp chính thức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó có 01 phiên cho ý kiến về Kế hoạch lấy ý kiến Nhân dân. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 671/NQ-VBTVQH 15 và Chính phủ ban hành Nghị quyết số 170/NQ-CP về việc lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), từ ngày 03/01 đến ngày 15/3/2023. Những nội dung lấy ý kiến đối với dự thảo Luật Đất đai (sủa đổi) được xác định rất cụ thể, rõ ràng để Nhân dân góp ý, và được tiếp thu, nghiên cứu chỉnh lý. Trên cơ sở ý kiến của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu sự tác động và trên 12 triệu lượt ý kiến của Nhân dân, dự thảo luật được hoàn thiện trước khi trình Quốc hội cho ý kiến lần thứ hai tại kỳ hợp thứ 5 (tháng 5/2023). Tại Kỳ họp bất thường, ngày 18/01/2024, Quốc Hội đã biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) với 432 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 87,63%).

Luật Đất đai (sửa đổi) lần này có nhiều điểm mới và đột phá, được kỳ vọng sẽ khắc phục được những bất cập, hạn chế trong chính sách, pháp luật liên quan đến đất đai hiện hành, tạo hành lang pháp lý cho quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, biền vững, hiệu quả nguồn lực đất đai, đáp ứng tốt sự phát triển của xã hội, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định: Đây là thành quả của quá trình phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học, từ sớm, từ xa, với nỗ lực và quyết tâm rất cao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; huy động mọi nguồn lực với tinh thần thực sự cầu thị, lắng nghe, dân chủ; tranh thủ tốt đa trí tuệ, đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp, cử tri và Nhân dân cả nước. Hoàn toàn không có chuyện ban hành Luật Đất đai (sửa đổi) để phục vụ cho quyền lợi của những người quản lý đất đai, trà đạp lên quyền và lợi ích chính đáng của người dân như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hiện nay, vấn đề Luật Đất đai (sửa đổi) là vấn đề nóng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Các thế lực thù địch sẽ tiếp tục lợi dụng vấn đề này để thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Mỗi cán bộ, Đảng viên, nhân dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, nhận diện đúng bản chất và tích cực đấu tranh làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó.

Như vậy, nhận định của các thế lực thù địch trên trang “Rfatiengviet” là hoàn toàn sai trái. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức đúng cũng như đấu tranh bác bỏ./. 

VẠCH TRẦN LUẬN DIỆU XUYÊN TẠC CỦA ĐÀI BBC

Hằng năm, mỗi dịp tết đến xuân về, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhìn nhận lại một cách toàn diện, sâu sắc một sự kiện lịch sử nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc – Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Từ đó tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Song với thái độ thù địch, mới đây trên diễn đàn BBC tiếng Việt đã đăng tải bài: “Ở Hà Nội ‘không có sự đồng nhất về Mậu Thân’” hòng tuyên truyền những luận điệu sai trái, phủ nhận những cống hiến hy sinh của quân và dân ta để làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bài phỏng vấn nhưng lại không nêu rõ tên tuổi mà chỉ ghi là “Một đại tá QĐND VN” đưa ra những luận điệu bóp méo sự thật, phủ nhận giá trị của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cho rằng: Trong sự kiện đó, phía cách mạng “bị tổn thất nhiều nhất” và “không đạt được kết quả chiến lược”.

Tuy nhiên, trên thực tế, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam vào Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương “xuống thang chiến tranh”, khởi đầu cho một quá trình đi xuống về mặt chiến lược. Với đòn Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân của quân Giải phóng và nhân dân miền Nam Việt Nam, đã buộc Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn phải công khai tuyên bố (đêm 31-3-1968), Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quyết định rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhận định về việc này, Tướng Oét-mo-len – Tư lệnh Bộ Chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1964-1968) đã phải thừa nhận: Đây là khúc ngoặt của cuộc chiến tranh. Lẽ ra là khúc ngoặt đi đến thành công, nhưng đây lại là khúc ngoặt đi đến thất bại… Hà Nội khuynh đảo miền Nam Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn sắp sụp đổ.

Thực tế lịch sử khẳng định, để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quân và dân ta sẵn sàng hy sinh tất cả. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong dịp Tết Mậu Thân 1968 thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam, là cuộc đấu tranh chính nghĩa chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, thực hiện mục tiêu cháy bỏng của cả dân tộc đó là: Giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu trên khắp các chiến trường toàn miền Nam. Để giành được thắng lợi to lớn, toàn diện có ý nghĩa chiến lược, tạo ra bước ngoặt quyết định làm xoay chuyển cục diện chiến tranh trong Tết Mậu Thân 1968 đã có hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ và đồng bào ta đã ngã xuống. Chính nhờ những hy sinh mất mát to lớn đó mà các thế hệ người Việt Nam hôm nay mới được hưởng giá trị của hòa bình, tự do, độc lập; được thừa hưởng những thành quả cách mạng. Mỗi người dân Việt Nam hôm nay luôn tự hào về cha anh, trân trọng trước cống hiến, hy sinh của các thế hệ đi trước, đồng thời phát huy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của bản hùng ca Mậu Thân 1968 để viết nên những trang sử mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trải qua thời gian, càng khẳng định bản chất, tầm vóc và mãi mãi là bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Đây là một thắng lợi quan trọng mang tầm vóc lịch sử; tạo bước ngoặt trong tiến trình phát triển của cách mạng miền Nam, chứ không phải như BBC “thêu dệt”, xuyên tạc. Vì vậy, những luận điệu xuyên tạc về cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của đài BBC không đánh lừa được ai, nhất định sẽ bị phá sản./. 

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI) NĂM 2024 CỦA ANH QUỐC

Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 5. Đây là Bộ luật lớn, phức tạp, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường; tác động sâu, rộng đến các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Dự án luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức liên quan chuẩn bị rất kỹ lưỡng, trách nhiệm, công phu qua nhiều vòng, nhiều bước; được thảo luận, cho ý kiến tại 4 kỳ họp Quốc hội, 2 Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, 6 phiên họp chính thức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; được chỉnh lý, tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học và trên 12 triệu lượt ý kiến của nhân dân. Mượn cớ “quan tâm”, “phản biện” nhiều kẻ cơ hội, thù địch đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân ta.

Bài viết “Tội ác từ đất” của Anh Quốc đang được phát tán rộng rãi trên nhiều diễn đàn phản động là một điển hình. Anh Quốc xuyên tạc rằng: “Cả ba quyền sở hữu, chiếm đoạt, định đoạt đất đai đều trong tay Nhà nước… Nhà nước muốn thu hồi lúc nào, chỗ nào cũng được”. Từ đó, kích động: “Nhà nước là do nhóm người cụ thể thâu tóm quyền lực, định đoạt vận mệnh quốc gia, không bị ai kiểm soát, họ lũng đoạn, lợi ích với nhau thì luật, chính sách cũng là của họ, bàn gì, góp ý gì cũng vô tác dụng”. Thực chất, đây là những luận điệu xuyên tạc, vô căn cứ hòng gây ra nhận thức lệch lạc trong xã hội, kích động những người kém hiểu biết, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị hùa theo chống phá Đảng và Nhà nước, gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao cảnh giác để không mắc mưu đồ của kẻ xấu.

Như chúng ta đã biết, Hiến pháp 2013, tại Điều 53 xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; tại Điều 54 xác định: Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất… Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Nhà nước thu hồi đất… vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng. Việc thu hồi đất được thực hiện công khai, minh bạch, được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Cùng với đó, Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 được thực thi sẽ khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý đất đai hiện nay, đáp ứng kịp thời với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, cụ thể:

Một là, mở rộng hạn mức nhận, chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất và các quy định về tập trung đất nông nghiệp, tích tụ đất nông nghiệp để nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả. Hai là, quy định cụ thể 32 trường hợp Nhà nước thu hồi đất đảm bảo tính công khai, minh bạch, dễ giám sát. Ba là, bỏ khung giá đất. Bảng giá đất được xây dựng hằng năm, giúp cho bảng giá đất tiệm cận giá đất thị trường. Bốn là, bổ sung quy định về phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất. Yêu cầu phát triển, quản lý, khai thác quỹ đất phải theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đúng mục đích, công khai, minh bạch, hợp lý, hiệu quả và theo quy định của pháp luật. Năm là, trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu thầu phải thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tư trúng đấu thầu. Sáu là, quy định thông thoáng việc sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội. Bảy là, cho phép người sử dụng đất lựa chọn trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần. Tám là, Quốc hội cho phép áp dụng ngay một số quy định của Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 để tháo gỡ các vướng mắc từ thực tiễn, cho phép áp dụng ngay các quy định về định giá đất, tạo điều kiện cho Chính phủ xây dựng và ban hành Nghị định quy định về giá đất thực hiện Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024.

Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 được triển khai thực hiện hiệu quả trong thực tiễn chắc chắn sẽ đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của đất nước, kỳ vọng của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Đồng thời, là bằng chứng đanh thép bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động như Anh Quốc. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân Việt Nam cần tích cực nghiên cứu, nắm vững và thực hiện đúng các quy định của Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024. Đồng thời, nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống bình yên của nhân dân ta./. 

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024

NHỮNG THỦ ĐOẠN MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY.

Thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng nước ta hiện nay là rất đa dạng, với tính chất rất nguy hiểm, vừa công khai, hợp pháp, vừa bí mật, bất hợp pháp cả trong nước và ngoài nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội với nhiều tổ chức, nhiều lực lượng để đi đến mục tiêu là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, chia Việt Nam thành nhiều “quốc gia” trong sự khống chế của chúng. Để thục hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng triệt để vấn đề dân tộc bằng các thủ đoạn chủ yếu sau:

Một là, kích động mâu thuẫn dân tộc, kéo quần chúng chống đối chính quyền nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Hai là, lợi dụng những hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc để kích động, chống phá cách mạng Việt Nam.

Ba là, kích động đồng bào dân tộc thiểu số di cư trái phép đến các khu vực trọng điểm và vượt biên ra nước ngoài nhằm tạo sự bất ổn về chính trị, kỉnh tế, văn hoá và xã hội, tạo cớ để can thiệp vào nước ta.

Bốn là, lợi dụng những vấn đề lịch sử để tuyên truyền kích động đòi ly khai, tự trị và tìm cách luật pháp hoá, quốc tế hoá vấn đề dân tộc để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam.

Năm là, lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo, thăm thân, du lịch, các tổ chức phi chính phủ (NGO) để lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số chống phá chính quyền Việt Nam.

Sáu là, hỗ trợ, chỉ đạo bọn phản động trong các dân tộc ở trong nước các và sống ở nước ngoài xây dựng các tổ chức để tập hợp lực lượng, xâm nhập, phá hoại trên các địa bàn chiến lược, nhạy cảm ở nước ta. 

NHẬN DIỆN ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc làm ngòi nổ và nguyên cớ để chống phá cách mạng Việt Nam.

Âm mưu cơ bản xuyên suốt của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là dựa vào vấn đề dân tộc nhằm chia rẽ, phá hoại khốỉ đại đoàn kết dân tộc; kích động đồng bào các dân tộc chống lạỉ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây mất ổn định chính trị xã hội, tạo cớ can thiệp hoặc khi thời cơ đến kích động bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chúng triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, các khó khăn, sai lầm, yếu kém trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc, tôn giáo; làm suy yếu và vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước.

Chúng ra sức kích động mâu thuẫn dân tộc, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan; phân biệt dân tộc; thổi phồng các va chạm, xích mích giữa các dân tộc… để phá vỡ khối đoàn kết các dân tộc. Chúng lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại để chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc, kích động tư tưởng ly khai, tự trị.

Các thế lực thù địch còn đẩy mạnh mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc chống đối chính quyền, tiến hành gây rối và biểu tình trái pháp luật, vượt biên trái phép, di cư tự do, gây ra bạo loạn và các bất ổn chính trị - xã hội. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội ở vùng dân tộc thiểu số. Cải thiện và nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc, giảm dần khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các dân tộc, các vùng; trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Làm tốt công tác định canh định cư, quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững. 

Trong những năm tới, chính sách xã hội tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơ me ở Tây Nam Bộ. Đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Ưu tiên bảo đảm chính sách xã hội và an sinh xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi như: Chính sách ưu tiên bảo hiểm y tế cho người dân tộc thiểu số, người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; cơ chế, chính sách ưu tiên cho giáo viên, học sinh, sinh viên ở vùng dân tộc thiểu số và là người dân tộc thiểu số; chính sách thai sản đối với phụ nữ, chính sách giảm trẻ em suy cinh dưỡng; chính sách cứu trợ khắc phục thiên tai, hoạn nạn; các chính sách ổn định đời sống của người yếu thế.

Quan tâm đặc biệt đầu tư phát triển nhóm các dân tộc rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn. Duy trì, phát triển và nâng cao vị thế của các dân tộc thiểu số rất ít người; giảm dần sự chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các dân tộc. Có các biện pháp giảm thiểu, đi đến chấm dứt tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các dân tộc rất ít người.

Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi; đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đối với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; cung cấp một số loại báo, tạp chí đến thôn bản. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thường xuyên quan đến đời sống văn hoá tinh thần, giáo dục và công tác cán bộ cho miền núi nhằm “nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”. Đồng thời tiến hành phát triển mạnh các trường phổ thông cấp I và cấp II một cách thích hợp nhằm tích cực tạo điều kiện cho con em các dân tộc, nhất là các dân tộc ít người vào học, mặt khác xây dựng các trường cấp III một cách có kế hoạch.  

Nhà nước bảo đảm cho các dân tộc có chữ viết riêng, tập trung đầu tư phủ sóng truyền thanh, truyền hình, tăng lượng cung cấp báo chí. Mở các kênh phát thanh bằng tiếng dân tộc để đồng bào nghe và hiểu biết rộng rãi các chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình trong nước và thế giới.

Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Chú trọng giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số; sưu tầm, lưu giữ, khôi phục các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể: lễ hội, trang phục, kiến trúc, văn học nghệ thuật, dân ca...

Thực hiện “xây luôn luôn gắn liền với chống. Cùng với các chính sách, chương trình, dự án nhằm xây dựng và phát triển cơ sở vật chất, công trình văn hoá, các giá trị văn hoá, còn luôn quan tâm giáo dục, hướng dẫn đồng bào nâng cao ý thức phê phán, loại trừ văn hoá xấu độc, các tệ nạn xã hội như ma tuý, mê tín dị đoan, các tập tục lỗi thời, lạc hậu cản trở đến sự phát triển văn hoá - xã hội và tổn hại đến cuộc sống của nhân dân, làm cho bộ mặt xã hội miền núi ngày càng khởi sắc, tiến bộ. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trên lĩnh vực chính trị, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm phát huy quyền làm chủ của các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo mọi điều kiện để nhân dân tham gia công việc quản lý nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt quan tâm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, đội ngũ cốt cán trong vùng đồng bào dân tộc, coi đây là nhân tố quan trọng bảo đảm quyền làm ch của nân dân và cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, sự ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã hội. Đảng và Nhà nước có chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số; đổi mới chính sách cán bộ, cải tiến chế độ phụ cấp, lương của cán bộ cơ sở; động viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong các dân tộc và địa phương, bồi dưỡng kiến thức và năng lực tham gia xây dựng chính quyền, đoàn thể cơ sở và vận động quần chúng.

Tích cực tụyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc thực hiện đưòng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, giáo dục ý thức cảnh giác cho nhân dân, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lôi kéo, mua chuộc, kích động đồng bào tham gia bạo loạn chính trị, móc nối, nhen nhóm các lực lượng phản động gây mất ổn định chính trị; chống địch đột nhập biên giới, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, bảo vệ cuộc sống bình yên cho đồng bào các dân tộc.

Chống mọi biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưỏng tự ti, mặc cảm dân tộc; giải quyết hài hoà các mối quan hệ lợi ích giữa các cộng đồng dần tộc và nhân dân, chủ động ngăn ngừa những xung đột, hiềm khích làm tổn hại đến đoàn kết dân tộc mà kẻ địch lợi dụng kích động và tạo cớ để can thiệp, gây rối.

Đảng và Nhà nước ta nghiêm cấm mọi sự lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây bất ổn an ninh quốc gia. 

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo đối với các dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam hiện nay tập trung nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực trên các lĩnh vực. Thực hiện có hiệu quả việc xóa mù chữ, nâng cao trình độ học vấn cho thanh niên và cán bộ cơ sở. Có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị các cấp, đội ngũ các nhà khoa học người dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu phát triển mọi mặt của từng vùng, từng dân tộc.

Tăng cường đầu tư cho các trường học. Xây dựng các loại trường, lớp nội trú, bảo đảm đủ giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số có chữ viết được khuyến khích học chữ dân tộc, song song với chữ phổ thông, đồng thời có cơ chế, chính sách quy định cán bộ dân tộc Kinh công tác tại vùng dân tộc thiểu số học tiếng dân tộc thiểu số để làm việc tốt hơn.

Mở rộng hệ đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống trường đảng, trường đoàn thể, trường hành chính và lực lượng vũ trang theo chương trình đổi mới. Có chính sách ưu tiên, tuyển chọn cán bộ dân tộc thiểu số vào các trường đào tạo bậc đại học, cao đẳng, dạy nghề. Củng cố các trường dự bị đại học, xây dựng các trường đại học khu vực, đại học cộng đồng. Chấn chỉnh lại chính sách cử tuyển, bảo đảm đúng đối tương. Thực hiện miễn giảm học phí cho con em người dân tộc thiểu số học trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

Thực hiện tốt chính sách, chế độ khuyến khích đối với các cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền núi, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng cao và thu hút chuyên gia, các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Đảng, Nhà nước xác định ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, coi đây là mặt nhiệm vụ trọng tâm tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi chọ sự phát triển kinh tế - xã, hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểụ số. Đầu tư phát triển mạng lưới (đường giao thông, hệ thống truyền tải điện, trường học, trạm xá, xây dựng các trung tâm, thị trấn, chợ đầu mối, xây dựng và nâng cấp hệ: thống thủy lợi, cầu cống, các công trình phục vụ sản xuất và đời sống...

Chăm lo phát triển sản xuất hàng hoá; trên cơ sở thế mạnh về đất đai; thổ nhưỡng, tập quán sản xuất của từng vùng, đẩy mạnh nhịp độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy các tiềm năng, hình thành các vùng kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng chuyên canh, thâm canh, các vùng nguyên liệu, nông sản có năng suất và chất lượng cao; tích cực đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao thay thế cho các giống cũ sản lượng và chất lượng kém và xoá bỏ cây thuốc phiện. Quan tâm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thông qua các mạng lưới thương nghiệp trong và ngoài nước.

Tập trung xoá đói giảm nghèo, chăm lo cải thiện và từng bước nâng cao đòi sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Thực hiện tốt các chương trình dự án kinh tế - xã hội, có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vay vốn, cung ứng vật tư cho sản xuất, giao đất, giao rừng, tạo vỉệc làm ổn định, phát triển kỉnh tế rừng, đồi; thực hiện định canh, đinh cư, khắc phục tình trạng du danh, di cư, đốt phá rừng bừa bãi; kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường, sinh thái; thực hỉện chương trình trồng năm triệu héc-ta rừng.

Ra sức phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mỏ rộng các hình thức kinh tế trang trại ở miền núi, củng cố các nông, lâm trường quốc doanh, xây dựng các hợp tác xã theo hướng chuyển đổi, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng xuất, hình thức, bước đi vững chắc, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Từng bước đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp, các khu kinh tế quan trọng trên địa bàn miền núi chú trọng thù hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào các vùng nhằm khai thác tốt tiềm năng kinh tế và tạo nên những biến đổi kinh tế to lớn ở miền núi vùng dân tộc thiểu số. Vận động đồng bào các dân tộc đầu tư sản xuất, không để tư thương lợi dụng làm lực lượng vận chuyển hàng lậu, gian lận thương mại qua biên giới. 

QUAN ĐIỂM VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC ĐƯỢC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG.

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược, vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Đảng xác định phương hướng, mục tiêu chung về công tác dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025: Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đây là nét mới nổi bật trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII.

Nhấn mạnh vấn đề “bảo đảm” trong chính sách dân tộc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Việc khẳng định nội dung này, thể hiện quan điểm của Đảng về hiện thực hóa đường lối giải quyết vấn đề dân tộc bằng những chính sách cụ thể bảo đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát triển của các dân tộc thiểu số được thể hiện sinh động trong thực tiễn, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo an ninh xã hội, thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và mức sống so với vùng phát triển; nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng toàn diện, bền vững, hòa nhập và phát triển cùng với đất nước.

Nhiệm vụ của công tác dân tộc cần tập trung giải quyết là: Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số.

Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặct hù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi. 

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC Ở NƯỚC TA

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm lớn đối với các dân tộc nước ta. Theo Người, chính sách dân tộc, đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc. Trong chế độ mới, chính sách dân tộc càng quan trọng, là vấn đề chiến lược của cách mạng. Thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc trong công đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân các dân tộc được hưởng độc lập tự do là lẽ tự nhiên. Nước độc lập rồi thì hết sức chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá của các dân tộc, làm cho các dân tộc thiểu số khắc phục dần sự chênh lệch, tiến kịp trình độ chung, thực hiện bình đẳng dân tộc.

Hồ Chí Minh khẳng định: Thường xuyên coi trọng, thực hiện đại đoàn kết rộng rãi lâu dài; mở rộng, đa dạng các hình thức tập hợp đồng bào các tộc người; sử dụng nhiều phương thức, biện pháp phù hợp với từng tộc người, vùng miền. Đồng thời, các dân tộc phải xóa bỏ mọi hiềm khích, phải đoàn kết, phải giúp đỡ nhau để các dân tộc có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 

Chính sách dân tộc phải toàn diện, tạo điều kiện cho các dân tộc cùng phát triển, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi. Để tạo điều kiện nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc, giữa miền núi với miền xuôi, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Phát huy khả năng vươn lên của các dân tộc, phù hợp đặc thù, thế mạnh của từng dân tộc, vùng, miền. Do vậy, triển khai thực hiện chính sách dân tộc cần phải toàn diện, phải am hiểu về miền núi, về con người miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, vì mỗi dân tộc thiểu số có nếp sống, tâm lý, bản sắc riêng đa dạng và phong phú; phải bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của đồng bào, tin tưởng và giúp đỡ đồng bào vươn lên phát triển cùng đất nước. Có chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Trong đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, miền núi, cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý công việc địa phương, không bao biện, làm thay.  Trong thực hiện chính sách dân tộc phải nâng cao ý thức về chủ quyền dân tộc, xóa bỏ mọi hiềm khích, đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chủ động đấu tranh, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái: tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc; cảnh giác, đấu tranh vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn kỳ thị,chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch, phản động.   

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY MANG TÍNH CÁC MẠNG, KHOA HỌC

Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay mang tính các mạng, khoa học bởi xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn cách mạng, khoa học.

Một là, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng và Nhà nước ta xây dựng chính sách dân tộc. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ: Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược, tạo lực lượng cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc phụ thuộc và phục vụ cho vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và của dân tộc, vừa là mục đích trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hộilà: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết và liên hiệp công nhân các dân tộc lại; phát huy được khả năng vươn lên của các dân tộc, phù hợp đặc thù từng dân tộc, từng vùng miền; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ các tộc người thiểu số…  

Hai là, xuất phát từ đặc điểm cơ bản của các dân tộc và vị trí chiến lược của địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta trong giai đoạn hiện nay. Các dân tộc ở n­ước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư­ trú xen kẽ, phân tán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều. Khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta có vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc điểm này đòi hỏi chính sách dân tộc phải vừa mang tính toàn diện, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài…Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng của chính sách nhằm bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả của hệ thống chính sách dân tộc.   

 Ba là, xuất phát từ bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề dân tộc của các quốc gia trên thế giới và của Việt Nam. Đó là những bài học lớn: Lợi ích quốc gia, dân tộc là cao nhất; nhà nước giải quyết tốt, hài hòa lợi ích của các dân tộc thiểu số; cần thể chế hóa và bảo đảm thực thi một cách nghiêm túc, hiệu quả các vấn đề liên quan đến dân tộc; vấn đề căn bản nhất trong xử lý quan hệ giữa dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số; phải lấy phát triển kinh tế các dân tộc thiểu số làm khâu đột phá, làm cơ sở để giải quyết các vấn đề khác trong phát triển, như: chính trị, văn hóa trong bối cảnh quốc gia đa dân tộc cùng sinh sông.

Bốn là, xuất phát từ thực tiễn thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam thời gian qua và yêu cầu phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm tới. Những năm qua, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta  có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách dân tộc còn không ít khuyết điểm, hạn chế. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Bởi thế, đây là cơ sở quan trọng để xây dựng, thực hiện hệ thống chính sách dân tộc đồng bộ, hiệu quả nhằm phát triển nhanh và bền vững kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?

Một là, tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy đảng, quy định của địa phương.

 Hai là, phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số và xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; phát huy vai trò những người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc.

Ba là, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tập trung đầu tư phát triển địa bàn đặc biệt khó khăn, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi với vùng đồng bằng, đô thị.

Bốn là, tuyên truyền về truyền thống đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tổ chức các phong trào tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng đồng. 

 Năm là, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là chữ viết của các dân tộc có chữ viết và các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc. Đồng thời, vận động, hướng dẫn đồng bào khắc phục, tiến tới xóa bỏ các tập tục lạc hậu trong sinh hoạt, trong tiêu dùng và các hủ tục làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Sáu là, giữ vững an ninh trật tự, củng cố quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi; đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các thể lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đoàn kết các dân tộc, làm mất ổn định chính trị xã hội. 

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHƯ THẾ NÀO?

Chính sách dân tộc ở Việt Namtoàn bộ những chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước tác động vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của các dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số, đối với từng dân tộc riêng biệt, nhằm bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc; phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước được thể hiện trong một chỉnh thể thống nhất giữa đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc. Chính sách, pháp luật về dân tộc của Nhà nư­ớc là công cụ, phương tiện quan trọng nhất để thể chế hoá, hiện thực hoá các quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng trong thực tiễn. Chính sách dân tộc cũng là chính sách phát triển nhằm phát triển về kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu phát triển các dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đối tượng thụ hưởng chính sách dân tộc không chỉ là đồng bào các dân tộc thiểu số, mà còn là vùng dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm cả dân tộc đa số sinh sống trong vùng.

Nguyên tắc, nội dung cơ bản chỉ đạo việc xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”

Chính sách dân tộc  nước ta mang tính tổng hợp, liên ngành, có nội dung toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách  dân tộc đúng đắn sẽ tạo động lực cách mạng to lớn, khơi dậy và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết vấn đề lực lượng cách mạng; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tạo điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội ở các dân tộc, vùng dân tộc, vùng miền núi và cả nước; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá nước ta. Thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta là là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, của đồng bào tất cả các tộc người dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.



. 

VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

Vấn đề dân tộc ở Việt Nam, một mặt là những nội dung nảy sinh trong quan hệ tộc người ở nước ta diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, tác động đến mỗi tộc người và mối quan hệ dân tộc nước ta đòi hỏi  Đảng, Nhà nước phải quan tâm giải quyết nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc Việt Nam, quan tâm phát triển các dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số. Mặt khác, vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay còn là việc củng cố, xây dựng mối quan hệ giữa quốc gia - dân tộc Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới nhằm phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề dân tộc ở Việt Nam biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phản ánh tính đa dạng, phong phú, nhiều chiều cạnh của các quan hệ tộc người ở Việt Nam, tác động, ảnh hưởng đến mỗi tộc người và các quan hệ dân tộc nước ta, đòi hỏi Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách dân tộc cụ thể, phù hợp với đặc điểm các dân tộc nước ta, phù hợp với từng dân tộc, từng vùng, miền nhằm phát triển các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số, tăng cường đoàn kết dân tộc. Thực chất giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay là bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp mhau cùng phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ dân tộc, xây dựng mối quan hệ dân tộc tốt đẹp ở nước ta.

Hiện nay, ở Việt Nam cần tập trung vào giải quyết các nội dung của vấn đề dân tộc sau: Phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc; nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào; xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số vững mạnh; tăng cường an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng; phòng, chống làm thất bại việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.