Thứ Hai, 8 tháng 7, 2024

Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917 LÀ GÌ?

 

Ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 như sau:

Một là, Cách mạng Tháng Mười mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kể từ sau Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga và sau đó ở hàng loạt nước trên thế giới, trở thành hệ thống đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản.

Hai là, Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành chính quyền giành độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Mười thành công, chủ nghĩa cộng sản từ lý luận đã trở thành hiện thực ở Nước Nga Xôviết. Lúc ấy, nhân dân thế giới mới biết chủ nghĩa cộng sản là thế nào, nước Nga tự do là thế nào và họ “ngồi mơ nước Nga”. Đó là niềm khát khao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới; đồng thời cổ vũ họ trong cuộc đấu tranh xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ba là, Cách mạng Tháng Mười vạch ra con đường giải phóng cho các dân tộc và là mẫu mực về chiến lược và sách lược của giai cấp công nhân. Cách mạng Tháng Mười không những chỉ có giá trị trong những năm đầu của thế kỷ XX mà hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” [1]



2.       Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, H, 1980, tr. 461.

NỘI DUNG CHÍNH TRONG DIỄN BIẾN CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917 NHƯ THẾ NÀO?

 

Ngày 10 tháng 10 năm 1917, V.I.Lênin triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; ngày 16 tháng 10 lại triệu tập Hội nghị mở rộng. V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích đã phân tích tình hình trong nước, quốc tế, những điều kiện khó khăn, thuận lợi… để đi đến quyết định và thông qua kế hoạch khởi nghĩa vũ trang trong toàn nước Nga, giành chính quyền về tay nhân dân.

Cuộc khởi nghĩa được ấn định trong toàn quốc vào ngày 25 tháng 10 năm 1917, cùng ngày khai mạc của Đại hội Xôviết toàn Nga lần thứ II ở thành phố Pêtrôgrát. Nhưng do tình thế cách mạng nên khởi nghĩa nổ ra sớm hơn so với dự kiến ban đầu là 1 ngày.

Ngày 24 tháng 10 năm 1917, từ Điện Xmônưi, V.I.Lênin viết thư gửi các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương quyết định ngay tức khắc khởi nghĩa giành chính quyền. Đêm 24 tháng 10, các đại biểu của các đơn vị khởi nghĩa đã về Xmônưi nhận lệnh khởi nghĩa và khởi nghĩa đã diễn ra đúng như kế hoạch. Sáng 25 tháng 10, các địa bàn, vị trí quan trọng như ngân hàng, nhà ga xe lửa, bưu điện…v.v. ở Pêtrôgrát đã bị quân khởi nghĩa chiếm giữ.

Chiều 25 tháng 10, sào huyệt cuối cùng của Chính phủ lâm thời là Cung điện Mùa Đông đã bị chiến hạm Rạng Đông nổ pháo. Đêm 25 tháng 10, toàn bộ Chính phủ lâm thời bị bắt. Khởi nghĩa đã thắng lợi ở Pêtrôgrát.

Đúng 10 giờ đêm ngày 25 tháng 10, Đại hội II các Xôviết đã khai mạc ở điện Xmônưi. Thay mặt hơn 400 Xôviết toàn quốc, Đại hội đã tuyên bố: Toàn bộ chính quyền đã về tay các Xôviết; Đại hội ra lời hiệu triệu gửi công nhân, nông dân, binh lính và thông qua các Sắc lệnh về hòa bình, Sắc lệnh về ruộng đất, Sắc lệnh thành lập Chính phủ công nông do V.I.Lênin đứng đầu. Sau thắng lợi ở thủ đô, Cách mạng Tháng Mười tiếp tục giành thắng lợi ở các thành phố, khu công nghiệp và các vùng nông thôn xa xôi trên khắp nước Nga. Đầu tháng Hai năm 1918, cách mạng đã thắng lợi trên toàn quốc.

CÁCH MẠNG THÁNG HAI NĂM 1917 Ở NGA DIỄN RA TRONG BỐI CẢNH NHƯ THẾ NÀO?

 Một là, Sau cách mạng 1905 - 1907, đến năm 1916 sau 2 năm tham gia Thế chiến lần thứ Nhất, nền kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng, kiệt quệ. Nạn đói lan tràn từ nông thôn đến thành thị, nền độc lập bị đe dọa, phụ thuộc và có nguy cơ trở thành thuộc địa của nước Anh và Pháp. Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân, binh lính và các dân tộc bị Nga Hoàng áp bức phát triển mạnh hơn bao giờ hết đã vùng lên đòi lật đổ chế độ Nga Hoàng. Đến tháng 1 năm 1917, phong trào bãi công nổ ra rất rầm rộ nhất là ở thủ đô, dưới khẩu hiệu “bánh mì”, “đả đảo chiến tranh”, “đả đảo Nga Hoàng”.

Hai là, các cuộc bãi công chính trị của công nhân nổ ra liên tiếp, quy mô ngày càng lớn.  Ngày 18 tháng 2, một cuộc bãi công nổ ra ở Pêtơrôgrat trong nhà máy Pulitốp. Ngày 22 tháng 02, phần lớn công nhân ở các xí nghiệp lớn cũng bãi công. Ngày 23 tháng 02, theo lời kêu gọi của Ban Chấp hành Bônsêvích ở Pêtơrôgrat, các nữ công nhân đã biểu tình chống đói, chống chiến tranh và chế độ Nga Hoàng. Cuộc bãi công biến thành cuộc tổng biểu tình chính trị, chống chế độ Nga Hoàng.

Ngày 24 tháng 2 đã có 20 vạn công nhân bãi công. Ngày 25 tháng 2, bắt đầu cuộc tổng bãi công, biểu tình, công nhân đã tước vũ khí của cảnh sát để trang bị cho mình. Sáng ngày 26 tháng 2, bãi công chính trị và biểu tình bắt đầu biến thành khởi nghĩa. Ngày 26 tháng 2, Ủy ban khởi nghĩa ở Pêtơrôgrat đã ra bản tuyên ngôn kêu gọi tiếp tục đấu tranh vũ trang chống chế độ Nga Hoàng, lập ra chính phủ cách mạng lâm thời. Ngày 27 tháng 2, binh lính Nga Hoàng ở Pêtơrôgrat không bắn vào người biểu tình mà chạy sang hàng ngũ cách mạng, chế độ Nga Hoàng sụp đổ, cách mạng giành được thắng lợi.

Các Xôviết đại biểu công nhân và binh lính được thành lập ngay trong những ngày đầu cuộc khởi nghĩa. Nhưng đứng đầu Xôviết ở Pêtơrôgrat và Mátxcơva và một số thành phố khác là bọn Mensêvích và xã hội cách mạng. Quần chúng chưa giác ngộ đầy đủ về chính trị, chưa có kinh nghiệm về tổ chức để nhận rõ bộ mặt và âm mưu thỏa hiệp của chúng. Ban lãnh đạo thỏa hiệp của Xôviết Pêtơrôgrat giao chính quyền cho giai cấp tư sản. Ngày 2 tháng 3, Chính phủ lâm thời được thành lập. Nhưng bên cạnh Chính phủ lâm thời tư sản còn có một chính phủ khác là Xôviết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính.

Ba là,  sau Cách mạng Tháng Hai, toàn bộ chính quyền chưa thuộc về tay giai cấp công nhân mà tồn tại song song hai chính quyền đó là Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và các Xôviết công, nông, binh. Mặt khác, những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng cũng chưa được giải quyết, ruộng đất vẫn nằm trong tay bọn địa chủ; nhà máy, công xưởng vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản

NỘI DUNG CƯƠNG LĨNH CỦA PHÁI TẢ DO V.I.LÊNIN VẠCH RA LÀ GÌ?

 

Hưởng ứng lợi kêu gọi của V.I.Lênin, những người xã hội chủ nghĩa ở các nước đã tổ chức hai hội nghị liên tiếp ở Dimmécvan (9/1915) và Kientan (4/1916) ở Thụy Sĩ. Sau hội nghị, phái tả Dimmécvan đã được thành lập, bao gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại biểu của phái tả Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ, Hà Lan. Thay mặt cho phái tả, V.I.Lênin vạch ra cương lĩnh gọi là Cương lĩnh của phái tả với nội dung:

- Biến chiến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Nghĩa là làm cho chính phủ nước mình thất bại trong chiến tranh đế quốc, không được bỏ phiếu cho chiến tranh, những người xã hội chủ nghĩa phải rút khỏi chính phủ tư sản.

- Đoạn tuyệt hoàn toàn với Quốc tế II, tiến tới thành lập Quốc tế Cộng sản. Nhưng đến cuối năm 1916, những người trong liên minh phái tả Dimmécvan (trừ Đảng Bônsêvích Nga) đã rơi vào lập trường hòa bình tư sản, kỳm hãm việc mở rộng phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Trước tình hình đó, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga kiên quyết tách khỏi phái này. Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng tháng 4 năm 1917, V.I.Lênin cho rằng, không thể trông chờ vào lực lượng nào khác, đề nghị Đảng Bônsêvích Nga phải đảm nhiệm lấy sứ mệnh lịch sử đứng ra thành lập quốc tế mới - Quốc tế III.

V.I.LÊNIN ĐẤU TRANH VỚI TRÀO LƯU DÂN TÚY Ở NGA NHƯ THẾ NÀO?

 

Trào lưu dân túy ở Nga, một trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng tiểu tư sản ở Nga. Thời kỳ này, nó cản trở việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga. Bởi vậy, muốn đem chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân Nga và thành lập chính đảng mác xít cách mạng nhất thiết phải đập tan ảnh hưởng của trào lưu dân túy này.

Plêkhanốp và nhóm “giải phóng lao động Nga” đã làm việc đó, nhưng chỉ có cuộc đấu tranh của V.I.Lênin mới đập tan được chủ nghĩa dân túy. Các tác phẩm: “Những người bạn dân…” (1894), “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” (1899), “Gửi nông dân nghèo” (1903) của V.I.Lênin đã giáng những đòn chí tử vào trào lưu dân túy.

V.I.Lênin tạm thời bắt tay với phái Mác xít hợp pháp để cùng chống dân túy nhưng về nguyên tắc vẫn kịch liệt phê phán phái Mác xít hợp pháp là cắt xén chủ nghĩa Mác, mưu toan làm cho chủ nghĩa Mác thích nghi với chủ nghĩa tư bản, xét lại chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin gọi phái dân túy là kẻ thù công khai và phái Mác xít hợp pháp là kẻ thủ giấu mặt của phong trào cách mạng Nga. Về sau, phái Mác xít hợp pháp chuyển thành đảng của giai cấp tư sản tự do, hoàn toàn chống lại chủ nghĩa Mác.

NHẬN DIỆN TRÀO LƯU DÂN TÚY DỰA VÀO NHỮNG ĐẶC ĐIỂM GÌ?

 

Để nhận diện trào lưu dân túy, cần phải dựa vào các đặc điểm sau đây:

Một là, tư tưởng theo đuổi những chính sách trước mắt được dân chúng ủng hộ trong đoản kỳ nhưng không bền vững như trong trường kỳ, thường là những chính sách xã hội, như những chính sách trợ giá hàng hóa, trả tiền lương hưu hậu hĩ hoặc miễn phí chăm sóc y tế, …

Hai là, một khuynh hướng chính trị lấy danh nghĩa “nhân dân” làm căn bản cho tính chính danh của chế độ, tuy nhiên nhiều quan điểm của chủ nghĩa dân túy không coi “nhân dân” là toàn bộ dân số mà thay vì đó chỉ một số nhóm sắc tộc hoặc chủng tộc được coi là nhân dân “thực thụ”.

Ba là, một khuynh hướng chính trị sùng vai trò cá nhân, biểu hiện tuyên bố họ được giao sứ mệnh nắm giữ quyền lực, không phụ thuộc vào các thiết chế như đảng phái chính trị; Phát triển mối quan hệ trực tiếp, không qua trung gian với “nhân dân” mà tự xưng là người đại diện, hướng những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi của người dân vào một hành động tức thời. 

TRÀO LƯU DÂN TÚY LÀ GÌ VÀ RA ĐỜI TỪ KHI NÀO?

 

Trào lưu dân túy được dùng để nói về trào lưu tư tưởng, đường hướng chính trị mị dân, đánh vào tâm lý của đám đông để kêu gọi, lôi kéo, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận và quần chúng nhân dân tổ chức phong trào nhằm phục vụ mục đích chính trị của cá nhân và tổ chức chính trị.

Trào lưu dân túy xuất hiện trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm giữa thế kỷ XIX ở châu Âu. Sự kiện tháng 6 năm 1848 ở Pháp và tấn bi kịch Công xã Pari năm 1871, đã có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành hệ tư tưởng của trào lưu dân túy. Ở Mỹ, thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” (populism) được sử dụng rộng rãi từ những năm 1890, khi phong trào dân tuý thúc đẩy người dân nông thôn và Đảng Dân chủ chống lại những người Cộng hòa thường sống ở đô thị.

Ở Nga, thuật ngữ “dân túy”, được sử dụng để đề cập đến phong trào dân túy của Nga vào thế kỷ XIX, chủ yếu thức tự ghét bỏ tầng lớp mình đồng cảm với giai cấp nông dân, ấp ủ mộng ước xây dựng “công xã nông thôn” cho nông dân dựa trên tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng.

Trào lưu dân túy có nguồn gốc xã hội từ cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, đòi ruộng đất, thủ tiêu các hình thức bóc lột của chế độ nông nô.

Bản chất của trào lưu dân túy là sự hỗn tạp những tư tưởng dân chủ nông thôn với những ước mơ xã hội chủ nghĩa, với hy vọng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, một biến dạng của chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản, đó là hệ tư tưởng của phái dân chủ nông dân.