Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018

THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC LÀ THẮNG LỢI CỦA XU THẾ HOÀ BÌNH, ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ba dòng thác cách mạng trên thế giới đang ở thế tiến công. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô đang ở vào thời điểm củng cố và phát triển lớn mạnh, đã tỏ rõ tính ưu việt, có sức mạnh chinh phục trái tim, khối óc của nhân loại. Sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự trưởng thành của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã tạo nên một sức mạnh mới về thế và lực cho cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh lịch sử đó, giới cầm quyền hiếu chiến Mỹ quyết định mở rộng chiến lược bao vây và ngăn chặn không để chủ nghĩa cộng sản từ châu Âu sang châu Á. Với chiến lược đó, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh lạnh chống lại phe xã hội chủ nghĩa; đồng thời đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản. Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ mưu toan tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc, lập phòng tuyến ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam châu Á. Thực hiện âm mưu ấy, đế quốc Mỹ đã lao vào cuộc phiêu lưu với những thủ đoạn quân sự, chính trị, ngoại giao rất xảo quyệt nhằm cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời, thông qua cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ phô trương sức mạnh quân sự, đe dọa các dân tộc ở lục địa Á, Phi, Mỹ La tinh đang nổi dậy đấu tranh giành độc lập, tự do. Vì vậy đất nước ta đã trở thành nơi thử thách, cuộc đụng đầu lịch sử to lớn giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã chủ trương thực hiện đoàn kết liên minh với các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Xây dựng, củng cố liên minh chiến đấu, tình đoàn kết keo sơn với nhân dân hai nước Lào và Campuchia cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Chính vì vậy, Đảng ta đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc, của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ, hình thành Mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ Việt Nam, chống đế quốc Mỹ. Đó là nguồn sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Trong bài phát biểu ngày 3/5/1975, đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ý viết: “…đó là thắng lợi của tự do chống áp bức, của hòa bình chống chiến tranh…của đoàn kết chống chia rẽ, của lẽ phải chống cường bạo… Thắng lợi đó khẳng định rằng mọi người và mọi dân tộc có thể giải phóng mình khỏi mọi khổ ải và tiến lên một xã hội mới.”
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sẽ “đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca mãi mãi làm nức lòng mọi người yêu chuộng chính nghĩa và công lý độc lập và tự do”. Mọi mưu toan của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, không bao giờ có thể hạ thấp, làm lu mờ được giá trị, tầm vóc và ý nghĩa của cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc thực dân trong thế kỷ XX./.

THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC KHẲNG ĐỊNH TÍNH ƯU VIỆT, SỨC MẠNH CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa…miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước”. Ngay từ khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã sớm xác định vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã chỉ rõ: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà và sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta.
Miền Bắc, căn cứ địa cách mạng của cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật khách quan của xã hội và xu thế thời đại. Mối quan hệ giữa hai miền Nam - Bắc là mối quan hệ giữa tiền tuyến lớn và hậu phương lớn. Trong mối quan hệ đó, chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Theo phương hướng chiến lược đó, sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương lãnh đạo đưa miền Bắc từng bước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Trong khoảng thời gian 21 năm (1954-1975), miền Bắc vừa hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vừa tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua cải tạo quan hệ sản xuất, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ, nhân dân lao động trở thành những người làm chủ; cơ cấu xã hội trở nên thuần nhất với hai giai cấp cơ bản là công nhân và nông dân cùng với tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội được xây dựng dần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của miền Bắc. Sự nghiệp giáo dục, y tế phát triển mạnh mẽ. Miền Bắc cơ bản đã xóa nạn mù chữ, phát triển hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học. Mỗi thôn, làng đều có lớp mẫu giáo, mỗi xã đều có trường cấp 1, cấp 2, mỗi huyện có ít nhất một trường cấp 3. Nhiều trường đại học và cao đẳng được xây dựng. Mạng lưới y tế được xây dựng mở rộng từ Trung ương đến cơ sở, từ đồng bằng đến miền núi. Mỗi xã có một trạm y tế, mỗi huyện có một bệnh viện đa khoa. Đời sống văn hóa mới từng bước được xây dựng, các tệ nạn xã hội được khắc phục, nếp sống văn hóa văn minh được thiết lập. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã trực tiếp góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, tạo ra sức mạnh chính trị, tinh thần và cơ sở vật chất của hậu phương lớn, căn cứ địa cách mạng của cả nước. Miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bằng không quân và hải quân vừa bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội, đồng thời động viên to lớn sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam đã thực hiện nhiều âm mưu phá hoại miền Bắc (tung biệt kích, gián điệp, hô hào Bắc tiến) và trực tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân với quy mô ngày càng lớn, mức độ huỷ diệt ngày càng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay Mỹ, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới đối với nước ta. Đặc biệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã động viên to lớn sức người, sức của trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng đồng bào, chiến sĩ miền Nam đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đến thắng lợi trọn vẹn. Rõ ràng là chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã tỏ rõ tính ưu việt, sức mạnh vĩ đại trước chế độ độc tài, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc mà Mỹ đã thiết lập ở miền Nam. Bình luận về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Báo Kim Tự Tháp Ai Cập, số ra ngày 31/8 /1975 đã viết: "Trong cuộc chạm trán quân sự và chính trị trực tiếp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Chế độ của giai cấp công nhân và nông dân đã chứng tỏ ưu thế tuyệt đối của mình".

THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC LÀ THẮNG LỢI CỦA CUỘC ĐỌ SỨC GIỮA TRÍ TUỆ, CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) kết thúc thắng lợi, nhưng sự nghiệp thống nhất đất nước chưa được thực hiện. Đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, do âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta; ngăn chặn không cho chủ nghĩa xã hội tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Chúng đã thiết lập ở miền Nam nước ta một chế độ độc tài, phát xít tàn bạo. Bằng chính sách “tố Cộng, diệt Cộng” và luật 10/59, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp, gây ra những vụ tàn sát dã man hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng và đè bẹp ý chí chiến đấu vì độc lập tự do, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã lần lượt đánh bại các  chiến lược của  đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, giành thắng lợi trọn vẹn bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng của Đảng và Chủ tịchHồ Chí Minh là sử dụng, phát huy sức mạnh tổng hợp và nghệ thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Xây dựng và động viên sức mạnh chính trị - tinh thần; kết hợp bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành nổi dậy từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao, giữa nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn và đồng bằng. Đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận, kết hợp chặt chẽ ba thứ quân, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ. Luôn giữ vững thế chủ động tiến công; biết tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ đánh thắng địch từng bước, thực hiện “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Với đường lối và phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sáng suốt, sắc bén của Trung ương Đảng mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã chiến đấu mưu trí, dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ.
Trải qua 21 năm chiến đấu, quân và dân ta đã đánh thắng chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt nhất từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đế quốc Mỹ đã đưa vào miền Nam nước ta đội quân viễn chinh hơn 60 vạn lính Mỹ và quân chư hầu, trang bị cho hơn một triệu quân Ngụy những vũ khí kỹ thuật quân sự tối tân. Riêng về quân đội Mỹ, chúng huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 33% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược, ném xuống nước ta 7 triệu 850 ngàn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Chúng còn sử dụng những phát minh khoa học kỹ thuật mới nhất, gây vô vàn tội ác trên đất nước ta hòng nghiền nát lực lượng cách mạng ở miền Nam và đưa miền Bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Ngày nay, nhìn lại những lực lượng và phương tiện chiến tranh mà địch đã sử dụng, những mưu đồ thâm hiểm mà chúng đã thú nhận, những tình huống phức tạp mà nhân dân ta đã vượt qua, chúng ta càng thấy sự vĩ đại của tinh thần chiến đấu anh dũng phi thường của quân và dân ta, đó là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. 

GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Thứ nhất, tổ chức đảng, tổ chức chính trị-xã hội phải thường xuyên chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ công nhân, người lao động.
Đây là một hoạt động quan trọng nhằm trực tiếp trang bị kiến thức, bồi dưỡng nhận thức, lập trường chính trị, góp phần hình thành bản lĩnh chính trị, ý thức chính trị cho giai cấp công nhân và người lao động. Nội dung tuyên truyền giáo dục tập trung vào giáo dục cho công nhân hiểu rõ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lực lượng mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Giáo dục, tuyên truyền những nội dung cơ bản về chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, nhất là những chính sách, quy định liên quan trực tiếp, sát sườn tới quyền lợi, lợi ích thiết thực của đội ngũ công nhân và người lao động. Đồng thời, cũng cần chú trọng đúng mức tới giáo dục truyền thống dân tộc, lịch sử hào hùng của dân tộc cho công nhân, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, trách nhiệm với vận mệnh của đất nước ở đội ngũ công nhân. Có nhiều chính sách khuyến khích, động viên, cổ vũ công nhân vươn lên trong lao động, sản xuất, kinh doanh, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo tích cực làm giàu cho bản thân, quê hương, xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường.
Thứ hai, tiếp tục ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giai cấp công nhân.
Nhà nước cần có hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ và tương đối hoàn thiện để kịp thời điều chỉnh quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, bảo đảm cho họ có quyền tự chủ và tự do sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, có thu nhập tương xứng với công sức lao động bỏ ra. Hiện nay, vấn đề nơi ăn, chốn ở của đội ngũ công nhân và người lao động ở một số khu vực, doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, các điều kiện sinh hoạt không bảo đảm. Do đó, cần phải tiếp tục đầu tư, củng cố cải thiện về điều kiện sinh hoạt, điều kiện lao động cho công nhân. Theo đó, Nhà nước và các cấp chính quyền cần chủ động phối hợp với các doanh nghiệp, các cụm công nghiệp tiến hành đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, thường xuyên hỗ trợ công nhân về đời sống sinh hoạt để họ yên tâm tập trung lao động, sản xuất. Bên cạnh đó, cũng cần phải quan tâm đúng mức tới xây dựng và không ngừng nâng cao đời sống văn hóa-tinh thần cho giai cấp công nhân. Bởi khi đời sống văn hóa-tinh thần của công nhân được nâng cao nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến sự hình thành, phát triển ý thức chính chị của họ. Muốn vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp cần có các biện pháp hỗ trợ đảm bảo công nhân và người lao động có điều kiện tiếp cận với các nguồn sách, báo, tập chí, các phương tiện thông tin, đặc biệt cần thiết đầu tư các khu vui chơi, giải trí tại nơi sản xuất, có chế độ cụ thể và thường xuyên trong hoạt động thể thao, văn nghệ góp phần tích cực nâng cao mọi mặt đời sống cho người lao động.
Thứ ba, thúc đẩy nhanh chóng việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đội ngũ công nhân.
Hiện nay đang tồn tại một thực tế đáng buồn, đó là giới chủ (chủ yếu là người nước ngoài) đang tận dụng “bóc lột” quá mức đối với đội ngũ công nhân, người lao động ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề gây ra không ít những bức xúc xã hội, trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, làm suy giảm đời sống văn hóa, ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức chính trị của đội ngũ công nhân. Hiện nay, trong nhiều thỏa thuận lao động, trong nhiều tình huống có “trục trặc” xảy ra trong quá trình sản xuất thì phần lớn người phải chịu thiệt thòi vẫn là đội ngũ công nhân, người lao động làm thuê. Lý do là trong ký kết các thỏa ước lao động rất nhiều công nhân không được dân chủ tham gia đóng góp, hoặc khi ký kết thì quyền và lợi ích thường nghiêng hẳn về giới chủ… Do đó, Nhà nước cần sớm hoàn thiện về cơ chế, chính sách, buộc giới chủ phải cùng với người lao động tự nguyện ký kết thỏa ước lao động tập thể, chấm dứt tình trạng nhiều người lao động không được ký kết vào bản thỏa ước. Đặc biệt, cần phải có cơ chế, hình thức xử phạt nghiêm khắc với những người chủ nước ngoài mạt sát người lao động, xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của họ. Bởi nếu không sớm chấm dứt các hiện tượng tiêu cực trên thì chắc chắn tâm tư, tình cảm và ý thức chính trị của người lao động nói chung và đội ngũ công nhân nói riêng ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng xấu.
Thứ tư, sớm xây dựng, hoàn thiện và kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng, tổ chức chính trị-xã hội, nhất là tổ chức công đoàn góp phần xây dựng, phát triển ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân.
Việc sớm xây dựng, kiện toàn các tổ chức ở đây chủ yếu muốn nói tới các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bởi trên thực tế tại các doanh nghiệp này các tổ chức đảng, công đoàn thường ít phát huy được vai trò của mình trong đấu tranh, bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho người lao động. Trên thực tế, các tổ chức chính trị- xã hội ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động hoạt động có chất lượng, hiệu quả rất thấp, thường bị giới chủ mua chuộc, lợi dụng, không phát huy được vai trò trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần sớm có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ, viên chức thuộc các tổ chức chính trị-xã hội, để giúp họ yên tâm công tác, hết lòng với người lao động trong sản xuất và đấu tranh đảm bảo công bằng về quyền và nghĩa vụ. Đồng thời, Nhà nước nên sớm nghiên cứu, ban hành Luật Đình công, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh và quản lý hoạt động đình công của người lao động hiện nay. Bởi đây là vấn đề đang diễn ra thường xuyên hiện nay, ảnh hưởng không nhỏ tới tâm tư, tình cảm và ý thức chính trị của giai cấp công nhân và người lao động.
Tóm lại, để xây dựng và phát triển ý thức chính trị cho giai cấp công nhân và người lao động trong thời buổi hiện nay cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức, ban ngành đoàn thể, sự quyết liệt của Đảng và Nhà nước trong ban hành, hoàn thiện chế độ, chính sách, văn bản pháp luật nhằm xây dựng khung pháp lý rõ ràng trong duy trì, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Đây cũng chính là “nhân tố” quan trọng để xây dựng và phát triển ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân hiện nay có chất lượng, hiệu quả.

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Ý thức chính trị thuộc phạm trù hình thái ý thức xã hội bao gồm những nét đặc trưng của ý thức xã hội nói chung. Theo đó, bao hàm những thái độ chính trị, tình cảm, tư tưởng chính trị hay lý luận chính trị của cộng đồng xã hội. Từ đó, có thể suy ra ý thức chính trị của giai cấp công nhân chính là những tình cảm, thái độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị, được hình thành, phát triển trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ý thức chính trị trong quá trình hình thành, phát triển chịu sự tác động của nhiều điều kiện, hoàn cảnh đặc thù-trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, giai cấp công nhân vốn xuất thân chủ yếu từ nông thôn, nông nghiệp nên chịu chi phối nặng nề bởi những tập quán, sản xuất manh mún, tự phát, thái độ tự ti, tư tưởng bảo thủ, ngại thay đổi… Đây thực sự là những “rào cản” lớn, gây khó khăn trong quá trình xây dựng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới của sự nghiệp cách mạng.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay (năm 1986), nhìn chung đại bộ phận giai cấp công nhân Việt Nam có ý thức chính trị, nhận thức tương đối rõ về vị trí, vai trò của lực lượng mình đối với công cuộc đổi mới đất nước, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Giai cấp công nhân đã nhận thức sâu sắc được vai trò nòng cốt của lực lượng mình trong công cuộc kiến thiết đất nước, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Không những thế, đa số công nhân đều tỏ rõ thái độ tự hào, trận trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước và xu thế mở cửa hội nhập; tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng nước nhà.
Tuy nhiên, trong thời buổi tình hình trong nước, khu vực và thế giới luôn có sự biến động phức tạp khó lường về tình hình kinh tế, chính trị như hiện nay, nhất là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã khiến cho một bộ phận không nhỏ công nhân biểu hiện tư tưởng dao động, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào công cuộc đổi mới đất nước, sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong ý thức chính trị của giai cấp công nhân hiện nay còn có những biểu hiện yếu kém, hạn chế, cụ thể như: không ít công nhân chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình trong thời đại mới, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; một bộ phận công nhân nhận thức rằng, giai cấp mình không còn giữ vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn hiện nay; một số công nhân thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lý của Nhà nước. Nhiều công nhân tỏ ra thiếu tin tưởng vào vị trí, vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích cho mình; không ít công nhân nắm không vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích của lực lượng mình; một bộ phận không nhỏ công nhân ít hiểu biết về đặc điểm, tình hình thế giới, thiếu tin tưởng vào tiền đồ của chủ nghĩa xã hội, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; một số khác lại ít quan tâm, tỏ ra kém hiểu biết về lịch sử dân tộc, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đất nước; ngoài ra, có một số ít công nhân thiếu tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, đạo đức, tay nghề, quá coi trọng giá trị vật chất, sống buông thả, chạy theo dục vọng và tiền tài… tất cả những vấn đề trên cho thấy một bộ phận không nhỏ của giai cấp công nhân đã và đang có sự yếu, kém về ý thức chính trị, không nhận thấy rõ vị trí, vai trò sứ mệnh của mình, từ đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, suy giảm tinh thần đấu tranh cho mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, song những nguyên nhân trực tiếp, quan trọng làm suy giảm ý thức chính trị của một bộ phận không nhỏ công nhân hiện nay phải kể đến như: sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ và của lực lượng sản xuất ở các nước tư bản, sự khủng hoảng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới gây ra sự dao động trong ý thức chính trị của giai cấp công nhân nước ta; trong quá trình phát triển nền kinh tế trí thức ở nước ta, vấn đề tri thức hóa, trí tuệ hóa lao động ngày càng có xu hướng tăng lên, vai trò của trí thức được coi trọng, chính điều này đã phần nào tác động đến nhận thức của bộ phận công nhân tay nghề thấp; thực tiễn đời sống sinh hoạt tinh thần và vật chất của công nhân ở nhiều doanh nghiệp còn thấp kém, cường độ lao động tăng cao, dẫn tới một số nhận thức sai lệch, việc đáp ứng các nhu cầu văn hóa của công nhân cũng hạn chế; các tệ nạn xã hội tiêu cực, sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức xã hội, suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cũng là yếu tố tác động xấu đến tình cảm, thái độ, quan điểm, tư tưởng của giai cấp công nhân hiện nay…
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng “nòng cốt” trong công cuộc đổi mới đất nước, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Họ cũng là lực lượng tiên phong, “chủ công” của sự nghiệp cách mạng nước nhà, đảm nhiệm vai trò “sứ mệnh” lịch sử của mình với dân tộc-xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Để đảm nhiệm được vị trí, vai trò quan trọng đó, “đủ sức” thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của dân tộc đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam phải thường xuyên được xây dựng và phát triển vững mạnh về ý thức chính trị, góp phần hình thành bản lĩnh, lập trường kiên định, nguyện trung thành với mục tiêu và con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

BIỆN PHÁP XÂY DỰNG BẢN LĨNH THANH NIÊN, SINH VIÊN THỜI KỲ MỚI

Thứ nhất, tăng cường chất lượng hiệu quả giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Đây là biện pháp cơ bản mang tính lâu dài, theo đó việc giáo dục nội dung này cần phải hướng vào sự rèn luyện năng lực tư duy khoa học, thế giới quan Mác-xít, nhân sinh quan, đạo đức cách mạng và phương pháp luận. Điều đó, một mặt giúp thanh niên, sinh viên có đủ kiến thức, niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới nền kinh tế trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo cho họ có đủ sức “đề kháng” trước những diễn biến phức tạp của tình hình, trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, khích lệ ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Ngoài ra, trong giáo dục nội dung này cần phải có những cách làm hay, sáng tạo và hấp dẫn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia nhằm tạo hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, tích cực đưa thanh niên, sinh viên tham gia vào các hoạt động thực tế chính trị-xã hội, hoạt động tham quan, thực tập.
Bản lĩnh của con người nói chung và bản lĩnh của thanh niên, sinh viên nói riêng có nhiều con đường để hình thành, phát triển và không ngừng hoàn thiện; song cách hình thành nhanh và bền vững nhất chính là thông qua các hoạt động thực tiễn, trực tiếp tham gia vào các hoạt động cải tạo thực tiễn. Để thực hiện tốt điều này, Đoàn cần phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể trong xã hội tạo ra các hoạt động phong phú, thích hợp và thiết thực nhằm rèn luyện thanh niên, sinh viên giúp họ có điều kiện nhận thức sâu sắc thực tiễn, có tình cảm phong phú. Đồng thời, tổ chức ra các hoạt động thực tiễn gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội và quần chúng nhân dân, thông qua đó từng bước rèn luyện bản lĩnh chính trị và khoa học cho thanh niên, sinh viên. Điểm cốt lõi để thực hiện thành công nội dung này, đó là Đoàn cần phải tạo ra được một phong trào cách mạng sâu rộng trong thanh niên, sinh viên, kiên quyết đấu tranh, phê phán chống lại những tệ nạn xã hội, hành vi tiêu cực trong học tập, trong lối sống, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, xây dựng môi trường sống thật sự nhân văn và giữ vững kỷ cương pháp luật trong xã hội góp phần giáo dục rèn luyện bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên.
Yếu tố môi trường luôn có tác động, ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng, hình thành bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên. C.Mác đã từng chỉ rõ: Con người tạo ra môi trường đến đâu thì môi trường cũng sẽ tác động trở lại con người như vậy, thậm chí là hơn thế. Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường lành mạnh, lý tưởng để rèn luyện xây dựng bản lĩnh cho thanh niên, sinh viên là một yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. Điều đáng lưu ý đó là, xây dựng môi trường xã hội, môi trường giáo dục và văn hóa phải thông qua các hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ, các phong trào dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của thanh niên, sinh viên. Thông qua các hoạt động thiết thực, bổ ích như “Câu lạc bộ thanh niên tình nguyện”, “câu lạc bộ nghiên cứu khoa học”,… sẽ có sức hấp dẫn lớn lôi cuốn đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia, qua đây nhằm xã hội hóa giáo dục, cá thể hóa bản lĩnh nhân cách thanh niên, sinh viên. Đồng thời, phải tích cực đẩy lùi và kiên quyết ngăn chặn những tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội không cho chúng xâm nhập vào thanh niên, sinh viên.
Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động giao lực và hội nhập quốc tế trong thanh niên, sinh viên.
Thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học trong tầng lớp thanh niên, sinh viên, bởi đây là những hoạt động mang tính nền tảng trong hình thành nhân cách và xác lập bản lĩnh. Bên cạnh đó, Đoàn cần chú trọng đúng mức tới chuyển giao công nghệ, hoạt động sáng tạo, hoạt động chính trị, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng này giúp cho thanh niên, sinh viên có điều kiện biến những tri thức đã học thành vốn sống cần thiết, vận dụng trong nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đặc biệt, sẽ giúp thanh niên, sinh viên phát huy khả năng độc lập, sáng tạo và năng lực hoạt động khoa học công nghệ, hoạt động chính trị-xã hội. Điều này vừa tạo điều kiện cho thanh niên, sinh viên tự khẳng định mình trước những diễn biến sôi động của những thay đổi tình hình chính trị, kinh tế đất nước, những thay đổi thang bậc giá trị, đồng thời vừa tự định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, những hành trang cần thiết để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng bản lĩnh chính trị và khoa học cho thanh niên, sinh viên là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai. Đây cũng là vấn đề cốt lõi để xây dựng con người mới, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội, trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành.

GIỮ VỮNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP TỰ CHỦ

Trong tham luận về chủ đề "Đưa quá trình hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam", đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã nhấn mạnh, thành tựu đối ngoại năm năm qua khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra.
Các thành tựu đối ngoại đó là kết quả nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống chính trị, với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ban, ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung, trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 
Trong giai đoạn tới, Phó Thủ tướng khẳng định: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN, của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập, để hội nhập quốc tế thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu phục vụ phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc. 
Đặc biệt, trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đưa hội nhập đi vào chiều sâu tức là phải tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa nước ta với các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, nhất là với các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của đất nước; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta. 
Và để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Dự thảo văn kiện Đại hội, đối ngoại cần tập trung làm tốt các công việc sau:
Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương. 
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. 
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.
Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao trong ASEAN. 

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đường lối đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ.
Nhờ thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, nhất là vấn đề Biển Đông, trên một số trang mạng xã hội facebook xuất hiện những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả”... dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “phản biện”, “kiến nghị” “góp ý”... nhằm phê phán, bác bỏ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Họ cho rằng: Nếu Đảng, Nhà nước vẫn “kiên định”, vẫn “khăng khăng” giữ chính sách quốc phòng “ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) như thế là “dân đi một đường, Đảng đi một nẻo”(!)...
Vậy, bản chất những quan điểm, luận điệu đó thế nào? Đây là lời “trung thành” hay là dụng ý thâm độc của những kẻ cơ hội? Đây là sự phiến diện, lệch lạc do hạn chế về nhận thức, xử lý thông tin hay là sự xuyên tạc, đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật lịch sử?
Đây có phải là sự nham hiểm, tinh vi, trắng trợn của các thế lực thù địch, phản động trong thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối, là biểu hiện của sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ ra?
Như vậy, thực chất đây là những tư tưởng, quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đáng lưu ý có người hồ đồ nói rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia...
Một điều chúng ta chẳng lạ là trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam, đối ngoại là lĩnh vực trọng điểm mà các thế lực thù địch, phản động nhằm vào để chống phá.
Bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, tán phát những thông tin sai lệch, bịa đặt, phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây nghi kỵ quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Những động thái nói trên không có gì mới và không nhằm mục đích nào khác là tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam.
Dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại.
Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được mở rộng và tăng cường với các chính đảng ở nhiều nước theo hướng đa phương và đa dạng hóa các quan hệ.
Công tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân được kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước...
Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia.
Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ... bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ.
Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại được Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII là: “Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Những gì đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: Việt Nam không bao giờ liên minh với một nước khác để chống lại nước thứ ba.
Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

NGĂN NGỪA LẠM DỤNG QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

Quyền tự do ngôn luận, báo chí và quyền tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản, quan trọng của cá nhân được quy định trong nhiều công ước quốc tế về quyền con người (QCN) và đã được quy định trong các Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp 2013. Thế nhưng cách đây không lâu trong dịp đầu năm 2018, trên mạng Dân luận và nhiều hãng thông tấn, báo chí phương Tây đã tán phát “Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật”.
Văn bản mạng này do những tổ chức xã hội mạng phi pháp và một số cá nhân tự xem mình người “bất đồng chính kiến” ký. Điều đáng chú ý là có nhiều mạng và cá nhân ở nước ngoài, như Hoa Kỳ, Canada, Australia… cũng tham gia. “Bản lên tiếng” đưa ra một số vụ án, trong đó những bị can, bị cáo đã sử dụng mạng xã hội, nhất là mạng Facebook làm minh chứng.
Văn bản ảo này đòi hủy bỏ nhiều điều luật trong Chương XI- Về các tội phạm an ninh quốc gia, như Điều 79 (Tội lật đổ chính quyền nhân dân), Điều 88, Điều 258 Bộ luật Hình 1999 (vẫn được giữ lại trong Bộ luật Hình sự 2015). Họ còn đòi “trả lại toàn bộ sự thật” liên quan đến “biến cố Mậu Thân, 1968”.
Pháp luật nước ta cũng như các quốc gia, quyền bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ. Hiến pháp và nhiều bộ luật nước ta đã quy định rõ ràng các quyền tự do ngôn luận, báo chí, kể cả sử dụng mạng xã hội, và quyền tiếp cận thông tin.
Theo tổ chức nghiên cứu về mạng xã hội quốc tế Next Web, Việt Nam nằm trong “top 10” quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới. Số người có tài khoản trên Facebook là 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân có thể đăng tải lên mạng “Upload” các video/clip hoàn toàn không bị cấm đoán nếu không vi phạm pháp luật. Vậy vì sao trong số 64 triệu tài khoản trên Facebook của người Việt chỉ có một số rất ít người, như Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Hoàng Đức Bình… bị ra tòa?
Đó là vì họ đã vi phạm pháp luật. Chẳng hạn Hồ Văn Hải với trang blog và tài khoản facebook đã đăng nhiều bài viết bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước; Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển đã đăng tải nhiều video clip lên mạng Internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật.
Hoàng Đức Bình phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, quy định tại Điều 257, 258 Bộ luật Hình sự (1999) trong vụ “biển tình bất bạo động” đòi đuổi Formosa, tụ tập động người cố tình gây ách tắc quốc lộ 1A đoạn qua Hà Tĩnh, Nghệ An vào tháng 5-2017.
Còn về cái gọi là “biến cố Mậu Thân” thì sự thật là: Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 nằm trong chiến lược quân sự - chính trị tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc tiến công này đã đập tan ý chí giành chiến thắng của đế quốc, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, tạo thế và lực để quân dân ta giành toàn thắng vào năm 1975.
Tôn trọng và bảo đảm QCN thuộc bản chất và là một mục mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, trong thời kỳ đổi mới, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các QCN được được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế.
Lần đầu tiên Hiến pháp 2013 đã giành cả một chương (Chương II ) quy định về “QCN, quyền và nghĩa vụ công dân”. Chương này không chỉ quy định đầy đủ các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân mà còn quy định những nguyên tắc cơ bản về QCN. Đó là: 1) Nguyên tắc về mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, trong đó Nhà nước có nghĩa vụ, người dân là chủ thể của quyền; 2) nguyên tắc hạn chế quyền (chẳng hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình… (Điều 25) có thể bị hạn chế “vì lợi ích an ninh quốc gia, trật tự xã hội…”. Cần lưu ý rằng, quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tiếp cận thông tin…” là những quyền bị hạn chế.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết năm 2017, cả nước có 849 cơ quan báo chí, tạp chí in, trong đó có 86 báo Trung ương, 99 báo địa phương, 664 tạp chí và 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, 5 đơn vị hoạt động truyền hình với tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước được cấp phép là 281 kênh; 195 cơ quan báo chí điện tử đã được cấp phép, trong đó có 171 cơ quan báo chí, đài, tạp chí thực hiện loại hình báo chí điện tử; 178 giấy phép được thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp được cấp cho các cơ quan báo chí in, phát thanh, truyền hình để khai thác thế mạnh của loại hình thông tin hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin trong tình hình mới, nhất là khi thông tin trên mạng xã hội ngày càng có ảnh hưởng đến xã hội.  
Năm 2016, Quốc hội ta đã thông qua Luật tiếp cận thông tin (LTCTT). Đây là một đạo luật cụ thể hóa về quyền tự do ngôn luận, báo chí được quy định trong Hiến pháp 2013. Theo quy định của LTCTT thì quyền tiếp cận thông tin là một quyền có thể bị hạn chế hoặc là quyền có điều kiện. Những quyền bị hạn chế chẳng hạn: “Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, ...”; nhữngthông tin được tiếp cận có điều kiện: “Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận nếu chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý”... Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, nếu được người đó đồng ý” (Điều 7).
Điều 11 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm: “Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin… Cung cấp hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức...”
Trước tình hình nhiều cá nhân, tổ chức mạng sử dụng mạng xã hội, internet vi phạm quyền, lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích cá nhân, Bộ luật Hình sự 2015 đã có những quy định bảo vệ các quyền này. Điều 288 về “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” quy định, người nào thực hiện hành vi vi  phạm pháp luật nhằm thu lợi bất chính thì bị phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cao nhất đến 7 năm.
Trong thời gian qua, không ít người cho rằng, mọi người đều có quyền sử dụng mạng viễn thông, mạng máy tính, mạng xã hội, xem đó là một quyền tuyệt đối không có giới hạn cả những thông tin sai sự thật, thông tin bịa đặt... lên mạng mà không phải chịu trách nhiệm gì. “Bản lên tiếng” nói trên là một ví dụ.
Hơn lúc nào hết cán bộ, đảng viên và người dân cần hiểu rõ, nắm vững các quy định của pháp luật về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin; nâng cao tinh thần cảnh giác với những thủ đoạn tung tin ảo trên mạng xã hội, tránh tình trạng vô tình trở thành người vi phạm pháp luật.

Nguồn: cand.com.vn

LÝ SỰ CÙN CỦA NHỮNG KẺ PHẢN QUỐC

Tội phạm mà kêu không có tội và gắn mác "bất đồng chính kiến", "vì tự do, dân chủ' .... để bày trò trước công luận.
Công luận rất công bằng bởi họ biết kiểm chứng đâu là tin giả, đâu là tin thật; đâu là hành vi bất hợp pháp (vi phạm) và đâu là hành vi hợp pháp; đâu là hành vi tội phạm và đâu là hành vi không phải là tội phạm. Ấy vậy, những kẻ chống phá lại hay "lẻo mép" la làng mong nhận được sự 'thông cảm' từ phía công luận về hành vi vi phạm, hành vi phạm tội của mình. 
Không có sự nhầm lẫn và không hề có sự "quy chụp" giống như các diễn giả vẫn ngày đêm "kêu gào" về sự vô tội của đồng bọn, về hành vi của mình rồi quay ra đổi lỗi do chế độ, do sự trừng trị có 'địa chỉ'.
Nói đến vi phạm pháp luật hình sự-hay tội phạm đều có quy chuẩn của nó thông qua cấu thành tội phạm được mô tả rõ trong cả phần lý luận và ở mỗi tội danh. Việc xác định tội phạm và tội danh đều có những dấu hiệu và cấu thành rất cụ thể nhằm tránh việc làm oan người vô tội hoặc xác định tội danh không chính xác của người tiến hành tố tụng.
Việc định tội danh đối với những kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội lại dân tộc, dân nhân cũng không nằm ngoài những mô tả thuộc cấu thành tội phạm của mỗi tội danh mà Bộ luật hình sự quy định. Không thể có chuyện không cấu thành tội xâm phạm an ninh quốc gia mà lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở tội danh xâm phạm an ninh quốc gia và nếu bộ luật hình sự không quy định thì cũng không có chuyện truy cứu trách nhiệm hình sự.
Song, tiếng kêu 'oan khuất' của những kẻ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia lại cứ 'gào lên' với đủ các lý do biện hộ. Tâm lý chung, bất kỳ ai phạm tội đều không muốn mình bị dính vào vòng lao lý, đều muốn chối tội và không bao giờ chịu nhận tội. Đều muốn đổ lỗi vì một lý do nào đó để thoái thác trách nhiệm pháp lý của mình.
Những kẻ phạm tội phản bội Tổ quốc, nhân dân cũng vậy luôn khăng khăng là mình không có tội là yêu nước, yêu tự do, yêu dân chủ và lý do là bất đồng chính kiến,... Những lý do nghe quá nực cười với người dân Việt Nam, bởi chế độ này, xã hội này, nhà nước này do nhân dân Việt Nam lựa chọn, xây dựng và làm chủ. Bất kỳ hành vi nào xâm phạm đều bị trừng trị và xử lý theo quy định trong Bộ luật hình sự do chính người dân Việt Nam xây dựng nên.
Mới đây, tòa án Việt Nam đưa ra xét xử những thành viên cộm cán trong làng rận chủ, những kẻ chống lại chính quyền, chế độ, nhân dân Việt Nam theo đúng tội danh, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự thì những kẻ này lại biện ra cái lý sự 'cùn' để thoái thác, phủ bỏ trách nhiệm về hành vi do mình gây ra đối với dân tộc, đối với nhân dân Việt Nam.
Bất kỳ hành vi phạm tội nào bị xử lý đều đi ngược lại 'lòng dân', 'ý chí của người dân' vì các quy định trong bộ luật hình sự do nhân dân xây dựng nên, biểu quyết thông qua. Hành vi phản quốc bị xử lý là hành vi đi ngược lại lợi ích của nhân dân, xâm phạm vào tự do, dân chủ của nhân dân mà lại cho rằng đó là vì tự do, dân chủ của người dân thì không người dân nào chấp nhận được.
Mỗi bản án tòa án tuyên đối với những kẻ phản quốc-nhất là 7 tên tội phạm trong hội anh em dân chủ đều có tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của người dân Việt Nam. Lẽ ra, những kẻ chống phá tự do, dân chủ của người dân này phải hiểu, phải biết để quay đầu phục thiện 'cảm ơn nhân dân' thì chúng lại mượn 'tiếng dân' để đổi lỗi do cơ quan công quyền. 
Cơ quan công quyền chỉ là người thừa hành theo mệnh lệnh, ý chí của người dân khi xử lý những tên tội phạm phản Quốc và không có lý do gì để có thể biện minh, đổ lỗi bởi tính khách quan, không khai trong mỗi vụ án mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành. 
Người dân Việt Nam rất hoan nghênh cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã rất kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc đối với những kẻ phá hoại, kẻ phản bội, bội tín lại nhân dân cũng giống như các loại tội phạm khác. Mong rằng, cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ phát huy hơn nữa trong thực thi nhiệm vụ của mình để bảo vệ cuộc sống bình an của nhân dân và cần thiết phải trừng trị nghiêm khắc hơn đối với những tên tội phạm phản quốc.

ĐỪNG LẬT LỌNG VỀ NHỮNG KẺ TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Vi phạm pháp luật phải xử lý theo đúng quy định của pháp luật là vấn đề có tính nguyên tắc trong tổ chức, quản lý xã hội của mọi quốc gia văn minh, có chủ quyền. Tuy nhiên các năm gần đây, mỗi khi Nhà nước Việt Nam xét xử một số cá nhân phạm tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” thì một số chính phủ và tổ chức quốc tế lập tức lên tiếng bênh vực, đồng thời phê phán, đưa ra những đòi hỏi rất phi lý. Vậy thực chất vấn đề là gì?
Sau khi có thông tin về việc ngày 5-4-2018 Tòa án Nhân dân TP Hà Nội mở phiên tòa sơ thẩm xét xử sáu bị cáo bị truy tố về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” quy định tại Ðiều 79 - Bộ luật Hình sự năm 1999, không chỉ tổ chức khủng bố “Việt tân” và cái gọi là “phong trào dân chủ” phản đối, mà một số tổ chức, cá nhân khác cũng vội lên tiếng. Như ngày 4-4, HRW (Theo dõi nhân quyền) “yêu cầu Việt Nam hủy bỏ mọi cáo buộc, phóng thích ngay lập tức” sáu người; đồng thời P. Robertson (P. Rô-béc-xơn), Phó Giám đốc khu vực châu Á của HRW, phát biểu trên BBC với nội dung xuyên tạc, sai sự thật về nhân quyền ở Việt Nam và về phiên tòa. Cũng ngày 4-4, còn có một số sự kiện khác, như: AI (Ân xá quốc tế) bịa đặt ra số liệu về cái gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam, lo ngại sáu người nọ “phải đối mặt với sự xét xử không công bằng”; 50 tổ chức ký “bản lên tiếng” với yêu cầu vô lý là “Tòa án Hà Nội xem xét đình chỉ vụ án, trả tự do cho các nhà hoạt động”. Từ Australia (Ô-xtrây-li-a), dân biểu C. Hayes (C. Hay-ơ) cũng ra thông cáo để đòi “trả tự do” (!)… Người phát ngôn Đại diện cấp cao về chính sách đối ngoại và an ninh của Liên hiệp châu Âu (EU), Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Đặc ủy nhân quyền CHLB Đức cũng có phản ứng về phiên tòa… RSF (Phóng viên không biên giới) còn “kêu gọi các nước thành viên EU hãy bỏ phiếu phủ quyết việc triển khai thỏa thuận tự do trao đổi thương mại giữa Việt Nam và châu Âu”.
Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức ngày 5-4-2018, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã kiên quyết bác bỏ thông tin sai sự thật, thiếu khách quan về phiên tòa nêu trên; khẳng định ở Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm, không có việc những người tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ và nhấn mạnh: “như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định việc bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được thực hiện phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận… Ngày 6-4, trả lời phỏng vấn của BBC, một vị luật sư bào chữa cho hai trong số sáu bị cáo nêu trên cho biết, các quan sát viên quốc tế đã tham dự phiên tòa, và nhận xét, phiên tòa diễn ra “công khai, dân chủ, trên tinh thần cải cách tư pháp… Việc tiếp cận thân chủ không có gì khó khăn… gặp các bị cáo tại trại giam thì thuận lợi, không vấn đề gì. Tại phiên tòa các luật sư hoàn toàn được tự do làm việc, không có bất cứ một hành vi gây cản trở nào”.

Việc các thế lực thù địch với Việt Nam mở chiến dịch phản đối phiên tòa vốn là chuyện không mới, không lạ, cũng không khó nhận ra mục đích của việc vu cáo, vu khống đó là nhằm hạ uy tín của Việt Nam, phá hoại quan hệ của Việt Nam với các nước khác, cản trở Việt Nam trên con đường phát triển. Còn việc vì sao đại diện một số chính phủ cùng một số tổ chức quốc tế lại quan tâm đến phiên tòa này, và họ lên tiếng nhằm mục đích gì, có lẽ chỉ các chính phủ và các tổ chức đó mới có thể trả lời. Tuy nhiên, có một sự thật chung là khi phản đối, họ đều không quan tâm xem xét bản chất người được họ bảo vệ. Nếu quan tâm, họ sẽ để ý tới ngay việc sau khi bản án vừa được công bố, facebook của một thành viên của cái gọi là “hội anh em dân chủ” đăng dòng trạng thái khẳng định một trong sáu người bị xét xử tại phiên tòa là “hèn nhát, cơ hội, lưu manh, luồn lách, chụp giật, bất tài nhưng háo danh, tham lam”, đặt ra câu hỏi: “Việc thâm hụt tiền bạc như thế nào, việc làm cách mạng bằng cách bán máu anh em ra sao?”, cầu mong Nguyễn Văn Đài và mấy người khác “được nước ngoài cho đi tị nạn”, còn nhân vật lưu manh kia “ở lại với nhà tù”! Dù dòng trạng thái đã bị xóa bỏ, song bản chụp được lưu truyền trên mạng cũng đã đủ giúp nhận diện họ là ai.
Cũng phải nhắc tới sự kiện xảy ra gần đây đã cung cấp thêm bằng chứng về bản chất của số người được gọi là “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm”. Đó là ngày 4-3-2018, trang mạng một tờ báo của người Mỹ gốc Việt đã đăng bài “Còn mong nỗi gì?” của Huy Phương, sau đó nhanh chóng bị xóa bỏ. Nhưng bản lưu bài này còn trên mạng hoặc đăng ở một số trang khác với nhan đề gốc, hoặc đổi tên thành “Còn mong nỗi gì Tạ Phong Tần và Điếu cày?”. Bài của Huy Phương bị xóa vì liên quan “cuộc chiến” giữa Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần. Huy Phương nhận xét sau khi định cư ở Mỹ, hai kẻ này quay ra “chửi nhau một cách thâm độc”, và bày tỏ bị bất ngờ vì “biết quý vị coi nhau như kẻ thù, trong khi ngoài miệng vẫn nói kẻ thù chính của chúng ta là cộng sản, để bôi nhọ, lôi đời tư của nhau ra, “vạch áo cho người xem lưng”, không xứng đáng là một kẻ sĩ đã dấn thân tranh đấu cho đất nước”. Lập tức Tạ Phong Tần phản pháo bằng bài “Tôi còn mong nỗi gì ở sự công bằng và lòng chính trực ở người đời?”, trong đó coi Huy Phương là “bậc thầy “dùng chữ nghĩa để chửi nhau một cách thâm độc”…”!
Về lai lịch, Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần vốn là hai nhân vật nổi trội của cái gọi là “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm”. Trong một thời gian dài, họ liên tiếp có tên trong đủ loại đơn từ, lời kêu gọi, tuyên bố, điều trần, phúc trình phản đối Việt Nam, thậm chí có tên trong phát biểu của một vài lãnh đạo sứ quán một số nước ở Việt Nam. Từ hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam mà Nguyễn Văn Hải đã phải nhận mức án 12 năm tù giam, Tạ Phong Tần nhận mức án 10 năm tù giam. Cũng từ hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam mà hai người này được nhận nhiều loại giải thưởng, như: Nguyễn Văn Hải nhận giải Hellman-Hammett của HRW, giải “Tự do báo chí quốc tế” của CPJ (Ủy ban bảo vệ nhà báo), giải One Humanity của PEN Canada, rồi danh hiệu “người bảo vệ quyền công dân” của CRD (Người bảo vệ quyền công dân); Tạ Phong Tần được trao giải Hellman-Hammett của HRW, giải “anh hùng nhân quyền” của PTV (Tranh đấu cho nạn nhân bị tra tấn), giải “phụ nữ can đảm của thế giới” của Bộ Ngoại giao Mỹ… Và “phần thưởng” lớn nhất mà hai người này đã nhận là năm 2014, Nguyễn Văn Hải được định cư tại Mỹ, năm 2015 Tạ Phong Tần cũng nối gót tới định cư tại nước này. Khi mới sang Mỹ, hai người được tổ chức đón tiếp rùm beng, và họ hùng hồn tuyên bố sẽ “tiếp tục đấu tranh vì nhân quyền ở Việt Nam”. Dần dà sự hùng hồn nhanh chóng xuống cấp, để thay thế bằng việc họ “đấu tranh” với nhau. Tuy nhiên, “đấu tranh” của họ lại hoàn toàn không liên quan “dân chủ, nhân quyền” mà là bóc mẽ, lôi chuyện thâm cung bí sử của “làng dân chủ”, của mấy người gọi là “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm” ra để thóa mạ, chửi bới. 
Xem ra, sau khi “đấu tranh” để được ra nước ngoài sinh sống, mấy người được gắn mác “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm” mới có cơ hội để giải quyết ân oán tích tụ đã lâu ngày. Như Tạ Phong Tần coi Nguyễn Văn Hải là kẻ “độc tài, độc đoán, tiền bạc thu chi không minh bạch, tự thu tiền ủng hộ, tự chi, tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, coi anh em khác như công cụ để phục vụ cho quyền lợi cá nhân và phe đảng đứng sau, bè cánh bầy đàn, bất nghĩa bất nhân, bất chấp thủ đoạn để gom USD cho cá nhân, ngoa ngôn xảo ngữ dối trá để đổi trắng thay đen, từ ngày qua Mỹ không viết nổi một bài báo nào”… Sau khi kể công với Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần đặt ra câu hỏi: “Tôi có nên đòi ông tiền công sức xương máu của tôi khi tư vấn pháp luật, viết đơn, đăng lên mạng internet (in-tơ-nét) để kêu gào cho ông không?”, và khuyên bảo: “già rồi nên giữ tư cách một chút”. Về phần mình, Nguyễn Văn Hải cho rằng Tạ Phong Tần “tấn công bôi nhọ một cách có tổ chức, vu khống, cố tình bôi bẩn, lấy oán trả ơn, nói sai sự thật…”, và cũng kể công với Tạ Phong Tần.
“Cuộc chiến” giữa Tạ Phong Tần với Nguyễn Văn Hải sau khi đến Mỹ đã bổ sung bằng chứng về bản chất đích thực của mấy người được một số chính phủ, tổ chức quốc tế tâng bốc là “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm”. Để ý hơn sẽ thấy rõ có điều gì đó bất thường khi hiện tượng hễ được định cư ở nước ngoài là “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm” lộ nguyên hình kẻ bất lương đã liên tục lặp lại mà không được một số chính phủ, tổ chức quốc tế quan tâm, họ vẫn dựa vào mấy người này để vu cáo, vu khống, và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Trước sau thì “nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm” vẫn chỉ là các mỹ từ mà họ cố tình gán cho người vi phạm pháp luật và đã bị xử lý theo pháp luật. Và khi đứng ra bênh vực những người như thế, họ quên rằng cũng như mọi quốc gia có chủ quyền khác, luật pháp Việt Nam không dung thứ mọi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, gây rối loạn và cản trở sự phát triển của xã hội. Không căn cứ trên thực tế, chỉ dựa theo tin tức do kẻ xấu loan truyền trên internet thì thiết nghĩ, họ nên tham khảo điều tác giả Đào Văn Bình mới viết trên một trang mạng của người Việt Nam ở Mỹ: “Người có lương tâm và trí tuệ, trước các tin tức động trời do báo chí, truyền thông Tây phương loan tải, cũng phải dè dặt và phải nghe, xem nguồn tin trái ngược nói gì. Hối hả tin theo, hùa theo, lan truyền rộng rãi một tin tức sai lạc, giả tạo, chưa được kiểm chứng… cũng là một hình thức đồng lõa với tội lỗi”.

ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP KHÔNG THỂ ĐEM LẠI DÂN CHỦ CHO DÂN TỘC VIỆT NAM

Trong suốt quá trình phát triển của cách mạng việt nam, từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt đêm trường nô lệ của dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lập nên những kỳ tích mà không phải dân tộc nào trên thế giới cũng có thể làm được.
Từ chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu năm 1954 cho tới đại thắng mùa xuân năm 1975, trong giai đoạn đổi mới hiện nay dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực.
Dù trong giai đoạn nào, chiến tranh bảo vệ tổ quốc hay xây dựng đất nước nhân dân ta luôn được thực hiện quyền làm chủ một cách đầy đủ nhất, đây cũng chính là nhân tố quyết định dẫn đến sự thành công trong suốt quá trình lãnh đạo của đảng từ khi thành lập đến nay.
Chúng ta có thể tự hào khẳng định sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Chế độ dân chủ XHCN ở Việt Nam được xây dựng nhằm thực hiện quyền làm chủ của con người một cách đầy đủ, toàn diện và triệt để. Tuy nhiên, lâu nay những luận điệu giả dối, phản khoa học cho rằng “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” vẫn tiếp tục chống phá cách mạng, thực chất là  họ đang tiếp tục thực hiện những âm mưu, ý đồ đen tối mà thôi.
Nghiên cứu toàn bộ chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại và thực tế  chúng ta đã biết dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi nhà nước xuất hiện và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Nó tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong những giai đoạn lịch sử tương ứng. Mỗi nước có những đặc thù và trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, lịch sử,… khác nhau, do đó có nền dân chủ khác nhau. C.Mác viết “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quy định”. Chính những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử, … quy định dân chủ chứ không phải cơ chế đa nguyên, đa đảng hay một đảng. Quan điểm cho rằng, đa đảng thì có dân chủ, một đảng thì mất dân chủ thực chất là là một trò bịp nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu và vận dụng một cách sáng tạo, bằng thực tiễn chỉ đạo cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ của dân”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh chế độ dân chủ thực chất là chế độ ủy quyền của nhân dân vào Nhà nước và Nhà nước là cơ quan quyền lực của dân, thực thi sự ủy quyền của dân.
Ngược lại nói đến đa nguyên chính trị , đa đảng đối lập là nói đến hệ thống chính trị có nhiều cực, có nhiều đảng phái đại biểu cho những lợi ích đối lập nhau được tự do hoạt động, đó là một chế độ đa đảng. Chế độ đa đảng không đồng nghĩa với việc sẽ có dân chủ, phát triển, chế độ một đảng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ. Thực tiễn cho thấy, có những nước đa đảng nhưng vẫn thuộc nhóm nước nghèo nhất thế giới. Tuy nhiên, có những những nước chỉ một đảng lãnh đạo nhưng là một nước rất phát triển với đời sống nhân dân sung túc. Điều đó có nghĩa là đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho phát triển.
Nền tảng cơ bản vững chắc để bảo đảm dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai. Dưới sự lãnh đạo của đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động  Việt Nam và họ là người làm chủ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất nằm trong tay một thiểu số nhà tư bản, nền dân chủ đó là quyền làm chủ của một nhóm tư bản độc quyền. Còn quần chúng nhân dân chỉ là những người bị thống trị. Chính V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả, - để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước”.
Thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong hệ thống chính trị tư sản ở phương Tây chỉ là sự phân chia quyền lực giữa các phe cánh. Thực chất, chế độ đa đảng đó dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, đều là đảng của giai cấp tư sản. Còn một số nước tư bản phương Tây khác, mặc dù Đảng cộng sản có thể được cho tồn tại nhưng nếu giai cấp tư sản cảm nhận thấy sự tồn tại đó có khả năng uy hiếp, đe dọa đến sự lãnh đạo, thống trị xã hội của họ thì ngay lập tức, Đảng cộng sản đó sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cho nên, thứ dân chủ mà họ thường khoe khoang đó chỉ là thứ dân chủ giả hiệu.
Từ lý luận và thực tiễn kết quả lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam trải qua gần 90 năm chúng ta khẳng định sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại và nguyện vọng của nhân dân, đó là sự lựa chọn bảo đảm cho dân chủ được thực hiện thực sự trong đời sống xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, mọi sự tìm kiếm nào khác nhằm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam sẽ là mơ hồ mất, phương hướng chính trị - giai cấp và ảo tưởng, phản động.

SỨC MẠNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC BẮT NGUỒN TỪ SỨC MẠNH VĂN HÓA

Trong thời điểm cả nước đang dồn mọi sức lực, huy động mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia chống quân phát xít Nhật và thực dân Pháp để sớm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng ta đã ra “Đề cương văn hóa 1943”.'
Ra đời trong tình thế lịch sử “nước sôi lửa bỏng” ấy, đề cương chuyển tải thông điệp sâu sắc đến hôm nay và mai sau: Một mặt, vận mệnh văn hóa dân tộc phải luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; mặt khác, muốn dân tộc thoát khỏi nô lệ lầm than, không thể không khơi nguồn từ sức mạnh văn hóa ngàn đời của dân tộc.  
Văn hóa dân tộc thức tỉnh tinh thần yêu nước, khơi nguồn ý thức tự cường cho nhân dân
Cách nay 75 năm, dân tộc ta, nhân dân ta bị kìm kẹp “một cổ hai tròng” bởi chế độ thực dân phát xít và phong kiến. Văn hóa Việt Nam cũng bị “vòng cương tỏa” bởi những chính sách ngu dân, phản động của kẻ thù. Không ít người Việt, trong đó có cả bộ phận trí thức bị “nhồi sọ” những luồng văn hóa xấu độc ngoại lai. Do vậy, để ngăn ngừa xu hướng, tình trạng nguy hại này, Đảng ta đã ban hành "Đề cương văn hóa 1943". Một trong những mục tiêu bao trùm của đề cương này là muốn cứu được dân tộc thì phải cứu được văn hóa dân tộc, muốn giành được độc lập, tự do cho dân tộc thì nhất thiết phải dựa vào sức mạnh văn hóa dân tộc, phải khơi dậy được lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ-những người được coi là một trong những bộ phận tinh hoa của dân tộc.
Điều đáng chú ý trong ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam được Đảng ta nêu ra tại đề cương là yếu tố “dân tộc hóa” được đặt ở vị trí đầu tiên, tức là chống ảnh hưởng văn hóa nô dịch và thuộc địa, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Trong tình thế khốn cùng của các tầng lớp nhân dân vào đầu những năm 1940 của thế kỷ 20, phần lớn trí thức, văn nghệ sĩ cũng bị dồn vào thế chân tường. Do đó, sự xuất hiện đúng lúc, kịp thời của "Đề cương văn hóa 1943" với việc khơi dậy mạnh mẽ ý thức dân tộc giúp nhiều trí thức, văn nghệ sĩ đang đứng trước “ngã ba đường” như được thức tỉnh suy nghĩ để cùng hướng về ngọn cờ tiên phong văn hóa của Đảng, tự nguyện đi theo Đảng và tham gia sự nghiệp cách mạng cứu nước, cứu dân.
Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ nước ta ít nhiều đều cảm thấy bế tắc trong cuộc sống và trong sáng tạo của mình. Tư duy và ngòi bút của họ trở nên hoen gỉ, cuộc sống trở nên tù túng. Nhưng từ khi gặp ánh sáng của đề cương văn hóa soi đường, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ thời đó đã bị lôi cuốn bởi sức mạnh của trí tuệ, của khát vọng cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với văn hóa và vận mệnh văn hóa dân tộc, từ đó, họ từng bước rũ bỏ “cái tôi” cá nhân để tự giác hòa vào “cái ta” cộng đồng, tự nguyện hòa vào cuộc sống chiến đấu sôi động của các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một trong những thành tố của độc lập dân tộc, văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa làm nền tảng, bệ đỡ tinh thần cho con người, mà nó còn góp phần khai sáng trí tuệ, thức tỉnh lương tâm, khơi dậy ý thức tự lực, tự cường dân tộc cho những thân phận nô lệ, giúp họ vùng lên đấu tranh phá vỡ xiềng xích của văn hóa phát xít thực dân, quyết tâm bảo vệ văn hóa truyền thống dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu văn hóa đã khẳng định: Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần mở đường, khai sáng từ đề cương văn hóa của Đảng hai năm trước đó.
“Sức mạnh văn hóa của một nước không thể đo bằng cây số vuông”
Ít có dân tộc nào trên thế giới có bề dày lịch sử đấu tranh giữ nước lâu dài, bền bỉ như dân tộc Việt Nam. Cũng hiếm có dân tộc nào trên thế giới lại phải đứng lên trực tiếp đương đầu với kẻ thù mạnh hơn gấp bội lần cả về quân sự, vũ khí và tiềm lực kinh tế như dân tộc Việt Nam. Đế quốc Nguyên- Mông ở thế kỷ 13 là đế quốc hùng mạnh nhất thời phong kiến cổ trung đại, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong thế kỷ 19, 20 là những cường quốc về quân sự thời cận hiện đại đều đã đặt ách thống trị ở Việt Nam. Nhưng tại sao những thế lực ngoại bang xâm lược hung bạo nhất thế giới và từng “đánh đông dẹp bắc” trước sau đều phải chuốc lấy thất bại thảm hại ở Việt Nam và rút quân về nước? Một trong những nguyên nhân căn bản nhất là do kẻ thù không nhận định, đánh giá đúng về cội nguồn, truyền thống, sức mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Dành hàng chục năm tâm huyết chỉ để nghiên cứu văn hóa lịch sử quân sự Việt Nam, nhà nghiên cứu văn hóa quân sự Dương Xuân Đống đã khẳng định: Văn hóa quân sự Việt Nam thực chất là văn hóa giữ nước. Cái mầm mống yêu nước, quyết tâm đánh giặc chống ngoại xâm đã hình thành từ trong bào thai người mẹ sinh ra Thánh Gióng để truyền lại cho hậu thế một câu chuyện huyền thoại về lịch sử đấu tranh giữ nước quật cường của dân tộc ta ngay từ buổi bình minh dựng nước. Để rồi sau 22 thế kỷ trải qua bao can qua lửa đạn, khói bom có thể làm cho cửa mất nhà tan, xóm làng xơ xác, nhưng sức mạnh văn hóa quân sự Việt Nam không ngừng được vun trồng, bồi đắp và kết tinh, tỏa sáng mạnh mẽ chưa từng thấy trong thế kỷ 20: Lần đầu tiên quân đội một nước nhỏ bé ở Đông Nam Á đã “chôn vùi” chủ nghĩa thực dân Pháp tại chiến trường Điện Biên với đại thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7-5-1954; và đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của đế quốc Mỹ và bọn tay sai kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với đỉnh cao thắng lợi huy hoàng ngày 30-4-1975
Trong cuộc trò chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, chính cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert McNamara đã thẳng thắn thừa nhận, cuộc chiến tranh của Mỹ thua tại Việt Nam là thua về văn hóa. Bởi văn hóa Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng đối đáp với ông Robert McNamara rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc mà ý thức và quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc đã trở thành một triết lý, một bản sắc văn hóa và cũng là một nguyên tắc không lay chuyển của người Việt Nam.
Vào thời điểm giữa năm 1954, sau khi đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm dự báo Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta. Bởi vậy, trong buổi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong (nay là Sư đoàn 308, Quân đoàn 1) tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày 19-9-1954, Bác Hồ đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Là một trong những nhân chứng trực tiếp tham dự và được nghe lời căn dặn của Bác Hồ tại sự kiện lịch sử ấy, Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương (năm 1954 là Chính trị viên Đại đội Phòng không, Đại đoàn Quân Tiên Phong) cho rằng, lời căn dặn của Bác thấm đẫm “hồn thiêng sông núi” và hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. Bởi nhắc đến Vua Hùng đâu chỉ nhắc đến những vị quốc công đã sinh ra quốc gia dân tộc đầu tiên của người Việt, mà còn khơi gợi trong trái tim, khối óc mỗi người Việt Nam về tình yêu xứ sở cội nguồn, về lịch sử truyền thống lâu đời của tổ tiên ta đã dày công tạo dựng, bồi đắp nên. Do vậy, lời Bác dạy cũng là điều nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ cả nước phải luôn có ý thức bảo toàn non sông gấm vóc, giữ gìn nòi giống và bảo vệ những giá trị văn hóa mà tổ tiên để lại. Nhìn rộng ra, đó là ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền cả về lãnh thổ và văn hóa dân tộc.
Không chỉ các bậc tiền nhân xuất chúng như Nguyễn Trãi, Quang Trung- Nguyễn Huệ nhận ra sức mạnh tiềm tàng của văn hóa dân tộc, quyết tâm giữ gìn bằng được những giá trị văn hóa truyền thống, mà các bậc danh nhân lỗi lạc sau này như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy sức mạnh thực sự của văn hóa dân tộc, từ đó biến sức mạnh ấy thành sức mạnh “dời non lấp biển” để đánh tan, nhấn chìm mọi kẻ thù ngoại bang xâm lược, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi giang sơn và chủ quyền văn hóa thiêng liêng của dân tộc.
“Danh dự, sức mạnh độc lập, tự do, sức mạnh văn hóa của một nước không thể đo bằng cây số vuông”. Điều nhấn mạnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi trò chuyện với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trong cuộc gặp ngày 23-6-1997 tại Hà Nội thêm một lần khẳng định sức mạnh của một dân tộc không hẳn xuất phát từ diện tích lãnh thổ, tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, mà phải bắt nguồn từ chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa và bề dày truyền thống của dân tộc đó.
Với Việt Nam, sức mạnh văn hóa làm nên sức mạnh độc lập dân tộc là một chân lý khách quan đã được lịch sử kiểm chứng, xác nhận!
Nguồn: www.qdnd.vn