Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã ký ban hành nghị quyết 29 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nghị quyết nêu rõ mục
tiêu tổng quát đến năm 2030 Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công
nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao; đời sống của nhân dân được nâng cao.
Xây dựng nền công nghiệp
quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống
chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công
nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn...
Về các chỉ tiêu cụ thể đến
năm 2030, nghị quyết nêu rõ mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng
7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD; GNI
bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt trên 7.000 USD.
Đóng góp của năng suất
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%; chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới.
Tỉ lệ lao động nông nghiệp
trong tổng lao động xã hội dưới 20%; tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng
chỉ đạt 35 - 40%; tỉ lệ người dân trong độ tuổi lao động được đào tạo kỹ năng số
cơ bản đạt trên 80%; đạt khoảng 260 sinh viên trên một vạn dân.
Thuộc nhóm ba nước dẫn đầu
ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỉ trọng công nghiệp đạt trên 40%
GDP; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; tỉ trọng giá trị
sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên
45%.
Giá trị gia tăng công
nghiệp chế tạo, chế biến bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD. Tỉ trọng của
khu vực dịch vụ đạt trên 50% GDP, trong đó du lịch đạt 14 - 15% GDP.
Hình thành được một số tập
đoàn, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực
cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên,
công nghiệp mũi nhọn.
Xây dựng và phát triển được
một số cụm liên kết ngành công nghiệp trong nước có quy mô lớn, có năng lực cạnh
tranh quốc tế; làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp.
Xây dựng được ngành công
nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại.
Tỉ trọng kinh tế số đạt
khoảng 30% GDP. Hoàn thành xây dựng chính phủ số, thuộc nhóm 50 quốc gia hàng đầu
thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.
Tỉ lệ đô thị hóa đạt trên
50%. Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu về sử dụng hiệu quả tài nguyên (đất, nước,
khoáng sản), tái sử dụng, tái chế chất thải tương đương với các nước dẫn đầu
ASEAN; chỉ số hiệu quả môi trường (EPI) đạt trên 55. Chỉ số phát triển con người
(HDI) duy trì trên 0,7.
Về tầm nhìn đến năm 2045,
nghị quyết nêu rõ mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao,
thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.
* Về nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu, nghị quyết nêu rõ việc đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt,
tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong đó các nội dung cốt
lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021 - 2030
là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế.
Đồng thời thực hiện chuyển
đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản
xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước.
Nghị quyết cũng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng...
mục tiêu này rất khả thi
Trả lờiXóa