Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng đã luôn bị kẻ thù chống phá
quyết liệt. Đặc biệt sau khi chủ nghĩa
xã hội hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Có thể dễ
dàng thấy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang điên cuồng bài bác và
tung hô luận điệu cho rằng: Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH) của C.Mác chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không
tưởng và xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự ảo tưởng và không bao giờ thực
hiện được?
Phải thấy rằng
sự vận động, phát triển của nhân loại là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học
thuyết HTKT-XH của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh
chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại.
Mọi người đều
biết, học thuyết HTKT-XH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch
sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó
có sự phát triển của lịch sử Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ:
- Lịch sử
phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKT-XH,
trong đó sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ
tầng, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp.
- Lịch sử
loài người đã và đang trải qua 5 HTKT-XH. Đó là quy luật chung của sự phát
triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình
thái nào đó trong điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Chẳng hạn, Autralia,
các quốc gia Mỹ - Latinh đều bỏ qua HTKT-XH phong kiến trong quá trình phát
triển của mình. Việt Nam không trải qua HTKT-XH chiếm hữu nô lệ và HTKT-XH TBCN.
Việc các quốc gia này bỏ qua một HTKT-XH nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của họ, mà do các điều kiện lịch sử khách quan quy định.
Như vậy, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKT-XH,
mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi
HTKT-XH và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKT-XH từ thấp lên cao hoặc
tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự
nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm
hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản, thì sau HTKT-XH TBCN ấy
phải là một HTKT-XH tiến bộ hơn, đó chính là CSCN. Đó là cái tất yếu lịch sử
hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra.
Đặc biệt sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô đổ vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, không
ít học giả trong và ngoài nước đã tung hô về “cái chết” của chủ nghĩa Mác -
Lênin, “sự cáo chung” của chủ nghĩa cộng sản dựa trên học thuyết Mác. Cùng với sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới là một số hạn chế, yếu kém trong quá trình cải cách, đổi mới ở
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sự phát triển, “điều chỉnh”, “thích nghi” của
chủ nghĩa tư bản hiện đại... càng làm cho những luận điệu chống phá, bác bỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội hiện thực nói riêng có “mảnh đất”
để phát triển cả về nội dung và hình thức. Họ đưa ra nhiều căn cứ phủ định chủ
nghĩa xã hội và cho rằng: chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng không bao giờ thực
hiện được.
Hẳn là một suy
nghĩ hồ đồ
Trước hết phải thấy rõ là:
Thứ nhất, học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội không phải là “hệ thống tự biện”, vì trong khoa học, để tìm
ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì không chỉ nghiên cứu một sự
vật, hiện tượng cụ thể mà phải thông qua nhiều sự vật, hiện tượng từ đó tìm ra
các thuộc tính chung nhất của nó. Do đó, bất kỳ nghiên cứu khoa học nào cũng
cần đến thuộc tính trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nghiên cứu lịch sử phát triển
nhân loại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hay những yếu tố cấu thành của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng không thể không trừu
tượng hóa những đối tượng ấy. Vấn đề đặt ra là, sự trừu
tượng hóa ấy có phản ánh đúng bản chất, quy luật của hiện thực khách quan
không. Nếu phản ánh đúng bản chất, quy luật, chúng ta có cơ sở khoa học để dự
báo sự vận động phát triển.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội dựa trên học
thuyết Mác ra đời xuất phát từ “mảnh đất hiện thực” khách quan dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của châu Âu từ khi chủ
nghĩa tư bản ra đời và những tiền đề văn hóa, tư tưởng của nhân loại đạt được
trong suốt chiều dài lịch sử cùng với sự thiên tài trong kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tìm ra được quy luật vận động của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật
vận động của chủ nghĩa tư bản thông qua ba phát hiện vĩ đại: Học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư và sau này (như V.I.Lênin đã bổ sung) học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân, nghiên cứu “mảnh đất hiện thực”
của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ đế quốc, bộc lộ tất cả các mặt
“thối nát” của chúng. Từ đó, các ông đi đến kết luận: “Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột
có thật ấy vào trong tư duy, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột ấy,
trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ và sự xung đột ấy,
tức là giai cấp công nhân”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội: “không cần phải thực hiện một
lý tưởng nào cả, mà chỉ cần giải phóng những nhân tố của xã hội mới đã phát
triển trong lòng xã hội tư sản cũ đang sụp đổ”.
Như vậy, với học thuyết về HTKT-XH của chủ nghĩa Mác cho chúng ta thấy, chủ nghĩa xã hội
(giai đoạn đầu của HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa) ra đời là một tất yếu khách quan.
Tất yếu này đã được Đảng Bônsêvich Nga do V.I.Lênin
đứng đầu lãnh đạo tổ chức Cách mạng tháng Mười thành công, lập nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thực tế.
Thứ ba, chủ
nghĩa xã hội đã và đang là hiện thực của lịch sử nhân loại.
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bônsêvích, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động Nga đã tiến hành xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là
bước ngoặt to lớn đánh dấu chủ nghĩa
xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Cách mạng tháng Mười đã chứng minh trên
thực tế những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của ra đời HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa là có cơ sở khoa học. Nó cũng mở ra cho nhân loại
một xu hướng mới về xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, đối lập với
chế độ áp bức, bóc lột, bất công tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự đỗ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô, không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách một
học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, một học thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn,
triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và cho việc
xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh thực sự - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự đổ vỡ
này là do sai lầm của những người lãnh đạo đứng đầu của Đảng cộng sản ở các quốc gia
nêu trên; thêm vào đó, là sự phản bội của một số kẻ cơ hội bên trong kết hợp
với những kẻ thù địch từ bên ngoài. Chúng
ta biết rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác từng nhấn
mạnh, chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động. C.Mác và Ph.Ănghen đã luôn nhấn mạnh, học thuyết của các
ông không phải là “khuôn vàng, thước ngọc”, không phải là cái gì đã “xong xuôi
hẳn”, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã
nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông còn nhiều điều các ông chưa có điều
kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác -
Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân
chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ.
Thực tiễn cũng
chứng minh quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng, từng bước sụp đổ; đã
xuất hiện không ít tư tưởng hoài nghi về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đã tự vạch ra cho mình mô hình và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam, đồng thời lãnh đạo nhân
dân từng bước hiện thực hóa mô hình ấy.
Thực
tiễn tổng kết hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo những tiền đề
quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao... Những thành tựu to lớn trên
đã chứng tỏ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta là phản ánh đúng đắn quy luật
khách quan và phù hợp với thực tiễn cách mạng của Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới.
Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội không phải là ảo tưởng mà là hiện thực, hiện thực đó đang ngày càng sinh động ở nước ta; hiện thực đó không phải chỉ những người cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự nhận, tự thấy mà được các nước, các tổ chức quốc tế thừa nhận. Hiện thực đó đang là tấm gương cho nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế - xã hội học tập và noi theo./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét