Thứ Hai, 8 tháng 7, 2024

Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917 LÀ GÌ?

 

Ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 như sau:

Một là, Cách mạng Tháng Mười mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kể từ sau Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga và sau đó ở hàng loạt nước trên thế giới, trở thành hệ thống đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản.

Hai là, Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành chính quyền giành độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Mười thành công, chủ nghĩa cộng sản từ lý luận đã trở thành hiện thực ở Nước Nga Xôviết. Lúc ấy, nhân dân thế giới mới biết chủ nghĩa cộng sản là thế nào, nước Nga tự do là thế nào và họ “ngồi mơ nước Nga”. Đó là niềm khát khao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới; đồng thời cổ vũ họ trong cuộc đấu tranh xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ba là, Cách mạng Tháng Mười vạch ra con đường giải phóng cho các dân tộc và là mẫu mực về chiến lược và sách lược của giai cấp công nhân. Cách mạng Tháng Mười không những chỉ có giá trị trong những năm đầu của thế kỷ XX mà hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” [1]



2.       Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, H, 1980, tr. 461.

NỘI DUNG CHÍNH TRONG DIỄN BIẾN CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917 NHƯ THẾ NÀO?

 

Ngày 10 tháng 10 năm 1917, V.I.Lênin triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; ngày 16 tháng 10 lại triệu tập Hội nghị mở rộng. V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích đã phân tích tình hình trong nước, quốc tế, những điều kiện khó khăn, thuận lợi… để đi đến quyết định và thông qua kế hoạch khởi nghĩa vũ trang trong toàn nước Nga, giành chính quyền về tay nhân dân.

Cuộc khởi nghĩa được ấn định trong toàn quốc vào ngày 25 tháng 10 năm 1917, cùng ngày khai mạc của Đại hội Xôviết toàn Nga lần thứ II ở thành phố Pêtrôgrát. Nhưng do tình thế cách mạng nên khởi nghĩa nổ ra sớm hơn so với dự kiến ban đầu là 1 ngày.

Ngày 24 tháng 10 năm 1917, từ Điện Xmônưi, V.I.Lênin viết thư gửi các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương quyết định ngay tức khắc khởi nghĩa giành chính quyền. Đêm 24 tháng 10, các đại biểu của các đơn vị khởi nghĩa đã về Xmônưi nhận lệnh khởi nghĩa và khởi nghĩa đã diễn ra đúng như kế hoạch. Sáng 25 tháng 10, các địa bàn, vị trí quan trọng như ngân hàng, nhà ga xe lửa, bưu điện…v.v. ở Pêtrôgrát đã bị quân khởi nghĩa chiếm giữ.

Chiều 25 tháng 10, sào huyệt cuối cùng của Chính phủ lâm thời là Cung điện Mùa Đông đã bị chiến hạm Rạng Đông nổ pháo. Đêm 25 tháng 10, toàn bộ Chính phủ lâm thời bị bắt. Khởi nghĩa đã thắng lợi ở Pêtrôgrát.

Đúng 10 giờ đêm ngày 25 tháng 10, Đại hội II các Xôviết đã khai mạc ở điện Xmônưi. Thay mặt hơn 400 Xôviết toàn quốc, Đại hội đã tuyên bố: Toàn bộ chính quyền đã về tay các Xôviết; Đại hội ra lời hiệu triệu gửi công nhân, nông dân, binh lính và thông qua các Sắc lệnh về hòa bình, Sắc lệnh về ruộng đất, Sắc lệnh thành lập Chính phủ công nông do V.I.Lênin đứng đầu. Sau thắng lợi ở thủ đô, Cách mạng Tháng Mười tiếp tục giành thắng lợi ở các thành phố, khu công nghiệp và các vùng nông thôn xa xôi trên khắp nước Nga. Đầu tháng Hai năm 1918, cách mạng đã thắng lợi trên toàn quốc.

CÁCH MẠNG THÁNG HAI NĂM 1917 Ở NGA DIỄN RA TRONG BỐI CẢNH NHƯ THẾ NÀO?

 Một là, Sau cách mạng 1905 - 1907, đến năm 1916 sau 2 năm tham gia Thế chiến lần thứ Nhất, nền kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng, kiệt quệ. Nạn đói lan tràn từ nông thôn đến thành thị, nền độc lập bị đe dọa, phụ thuộc và có nguy cơ trở thành thuộc địa của nước Anh và Pháp. Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân, binh lính và các dân tộc bị Nga Hoàng áp bức phát triển mạnh hơn bao giờ hết đã vùng lên đòi lật đổ chế độ Nga Hoàng. Đến tháng 1 năm 1917, phong trào bãi công nổ ra rất rầm rộ nhất là ở thủ đô, dưới khẩu hiệu “bánh mì”, “đả đảo chiến tranh”, “đả đảo Nga Hoàng”.

Hai là, các cuộc bãi công chính trị của công nhân nổ ra liên tiếp, quy mô ngày càng lớn.  Ngày 18 tháng 2, một cuộc bãi công nổ ra ở Pêtơrôgrat trong nhà máy Pulitốp. Ngày 22 tháng 02, phần lớn công nhân ở các xí nghiệp lớn cũng bãi công. Ngày 23 tháng 02, theo lời kêu gọi của Ban Chấp hành Bônsêvích ở Pêtơrôgrat, các nữ công nhân đã biểu tình chống đói, chống chiến tranh và chế độ Nga Hoàng. Cuộc bãi công biến thành cuộc tổng biểu tình chính trị, chống chế độ Nga Hoàng.

Ngày 24 tháng 2 đã có 20 vạn công nhân bãi công. Ngày 25 tháng 2, bắt đầu cuộc tổng bãi công, biểu tình, công nhân đã tước vũ khí của cảnh sát để trang bị cho mình. Sáng ngày 26 tháng 2, bãi công chính trị và biểu tình bắt đầu biến thành khởi nghĩa. Ngày 26 tháng 2, Ủy ban khởi nghĩa ở Pêtơrôgrat đã ra bản tuyên ngôn kêu gọi tiếp tục đấu tranh vũ trang chống chế độ Nga Hoàng, lập ra chính phủ cách mạng lâm thời. Ngày 27 tháng 2, binh lính Nga Hoàng ở Pêtơrôgrat không bắn vào người biểu tình mà chạy sang hàng ngũ cách mạng, chế độ Nga Hoàng sụp đổ, cách mạng giành được thắng lợi.

Các Xôviết đại biểu công nhân và binh lính được thành lập ngay trong những ngày đầu cuộc khởi nghĩa. Nhưng đứng đầu Xôviết ở Pêtơrôgrat và Mátxcơva và một số thành phố khác là bọn Mensêvích và xã hội cách mạng. Quần chúng chưa giác ngộ đầy đủ về chính trị, chưa có kinh nghiệm về tổ chức để nhận rõ bộ mặt và âm mưu thỏa hiệp của chúng. Ban lãnh đạo thỏa hiệp của Xôviết Pêtơrôgrat giao chính quyền cho giai cấp tư sản. Ngày 2 tháng 3, Chính phủ lâm thời được thành lập. Nhưng bên cạnh Chính phủ lâm thời tư sản còn có một chính phủ khác là Xôviết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính.

Ba là,  sau Cách mạng Tháng Hai, toàn bộ chính quyền chưa thuộc về tay giai cấp công nhân mà tồn tại song song hai chính quyền đó là Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và các Xôviết công, nông, binh. Mặt khác, những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng cũng chưa được giải quyết, ruộng đất vẫn nằm trong tay bọn địa chủ; nhà máy, công xưởng vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản

NỘI DUNG CƯƠNG LĨNH CỦA PHÁI TẢ DO V.I.LÊNIN VẠCH RA LÀ GÌ?

 

Hưởng ứng lợi kêu gọi của V.I.Lênin, những người xã hội chủ nghĩa ở các nước đã tổ chức hai hội nghị liên tiếp ở Dimmécvan (9/1915) và Kientan (4/1916) ở Thụy Sĩ. Sau hội nghị, phái tả Dimmécvan đã được thành lập, bao gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại biểu của phái tả Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ, Hà Lan. Thay mặt cho phái tả, V.I.Lênin vạch ra cương lĩnh gọi là Cương lĩnh của phái tả với nội dung:

- Biến chiến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Nghĩa là làm cho chính phủ nước mình thất bại trong chiến tranh đế quốc, không được bỏ phiếu cho chiến tranh, những người xã hội chủ nghĩa phải rút khỏi chính phủ tư sản.

- Đoạn tuyệt hoàn toàn với Quốc tế II, tiến tới thành lập Quốc tế Cộng sản. Nhưng đến cuối năm 1916, những người trong liên minh phái tả Dimmécvan (trừ Đảng Bônsêvích Nga) đã rơi vào lập trường hòa bình tư sản, kỳm hãm việc mở rộng phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Trước tình hình đó, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga kiên quyết tách khỏi phái này. Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng tháng 4 năm 1917, V.I.Lênin cho rằng, không thể trông chờ vào lực lượng nào khác, đề nghị Đảng Bônsêvích Nga phải đảm nhiệm lấy sứ mệnh lịch sử đứng ra thành lập quốc tế mới - Quốc tế III.

V.I.LÊNIN ĐẤU TRANH VỚI TRÀO LƯU DÂN TÚY Ở NGA NHƯ THẾ NÀO?

 

Trào lưu dân túy ở Nga, một trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng tiểu tư sản ở Nga. Thời kỳ này, nó cản trở việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga. Bởi vậy, muốn đem chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân Nga và thành lập chính đảng mác xít cách mạng nhất thiết phải đập tan ảnh hưởng của trào lưu dân túy này.

Plêkhanốp và nhóm “giải phóng lao động Nga” đã làm việc đó, nhưng chỉ có cuộc đấu tranh của V.I.Lênin mới đập tan được chủ nghĩa dân túy. Các tác phẩm: “Những người bạn dân…” (1894), “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” (1899), “Gửi nông dân nghèo” (1903) của V.I.Lênin đã giáng những đòn chí tử vào trào lưu dân túy.

V.I.Lênin tạm thời bắt tay với phái Mác xít hợp pháp để cùng chống dân túy nhưng về nguyên tắc vẫn kịch liệt phê phán phái Mác xít hợp pháp là cắt xén chủ nghĩa Mác, mưu toan làm cho chủ nghĩa Mác thích nghi với chủ nghĩa tư bản, xét lại chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin gọi phái dân túy là kẻ thù công khai và phái Mác xít hợp pháp là kẻ thủ giấu mặt của phong trào cách mạng Nga. Về sau, phái Mác xít hợp pháp chuyển thành đảng của giai cấp tư sản tự do, hoàn toàn chống lại chủ nghĩa Mác.

NHẬN DIỆN TRÀO LƯU DÂN TÚY DỰA VÀO NHỮNG ĐẶC ĐIỂM GÌ?

 

Để nhận diện trào lưu dân túy, cần phải dựa vào các đặc điểm sau đây:

Một là, tư tưởng theo đuổi những chính sách trước mắt được dân chúng ủng hộ trong đoản kỳ nhưng không bền vững như trong trường kỳ, thường là những chính sách xã hội, như những chính sách trợ giá hàng hóa, trả tiền lương hưu hậu hĩ hoặc miễn phí chăm sóc y tế, …

Hai là, một khuynh hướng chính trị lấy danh nghĩa “nhân dân” làm căn bản cho tính chính danh của chế độ, tuy nhiên nhiều quan điểm của chủ nghĩa dân túy không coi “nhân dân” là toàn bộ dân số mà thay vì đó chỉ một số nhóm sắc tộc hoặc chủng tộc được coi là nhân dân “thực thụ”.

Ba là, một khuynh hướng chính trị sùng vai trò cá nhân, biểu hiện tuyên bố họ được giao sứ mệnh nắm giữ quyền lực, không phụ thuộc vào các thiết chế như đảng phái chính trị; Phát triển mối quan hệ trực tiếp, không qua trung gian với “nhân dân” mà tự xưng là người đại diện, hướng những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi của người dân vào một hành động tức thời. 

TRÀO LƯU DÂN TÚY LÀ GÌ VÀ RA ĐỜI TỪ KHI NÀO?

 

Trào lưu dân túy được dùng để nói về trào lưu tư tưởng, đường hướng chính trị mị dân, đánh vào tâm lý của đám đông để kêu gọi, lôi kéo, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận và quần chúng nhân dân tổ chức phong trào nhằm phục vụ mục đích chính trị của cá nhân và tổ chức chính trị.

Trào lưu dân túy xuất hiện trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm giữa thế kỷ XIX ở châu Âu. Sự kiện tháng 6 năm 1848 ở Pháp và tấn bi kịch Công xã Pari năm 1871, đã có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành hệ tư tưởng của trào lưu dân túy. Ở Mỹ, thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” (populism) được sử dụng rộng rãi từ những năm 1890, khi phong trào dân tuý thúc đẩy người dân nông thôn và Đảng Dân chủ chống lại những người Cộng hòa thường sống ở đô thị.

Ở Nga, thuật ngữ “dân túy”, được sử dụng để đề cập đến phong trào dân túy của Nga vào thế kỷ XIX, chủ yếu thức tự ghét bỏ tầng lớp mình đồng cảm với giai cấp nông dân, ấp ủ mộng ước xây dựng “công xã nông thôn” cho nông dân dựa trên tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng.

Trào lưu dân túy có nguồn gốc xã hội từ cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, đòi ruộng đất, thủ tiêu các hình thức bóc lột của chế độ nông nô.

Bản chất của trào lưu dân túy là sự hỗn tạp những tư tưởng dân chủ nông thôn với những ước mơ xã hội chủ nghĩa, với hy vọng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, một biến dạng của chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản, đó là hệ tư tưởng của phái dân chủ nông dân.

. V.I.LÊNIN ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI TRONG QUỐC TẾ II NHƯ THẾ NÀO?

 

Sau khi Ph.Ăngghen chết (1895), cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng cách mạng và cơ hội trong Quốc tế II càng trở nên gay gắt. Kẻ thù của chủ nghĩa Mác buộc phải dùng thủ đoạn mới giả danh là người mác xít để xét lại chống chủ nghĩa Mác. Trào lưu cơ hội chủ nghĩa mới xuất hiện, đại biểu của nó là Bécxtanh. Đồng thời với cuộc đấu tranh chống Bécxtanh, V.I.Lênin còn phải tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Cauxki, một phần tử thuộc phái giữa âm mưu “ôm hôn” chủ nghĩa Mác để bóp chết chủ nghĩa Mác, trên đầu lưỡi thì ca ngợi chủ nghĩa Mác nhưng trong hành động thì hoàn toàn ngược lại.

V.I.Lênin đã đấu tranh không ngừng chống chủ nghĩa cơ hội trong Quốc tế II. Các tác phẩm của Ông thời kỳ này đã góp phần quan trọng trước hết về mặt lý luận, đã giáng những đòn quyết liệt vào chủ nghĩa cơ hội, chỉ cho phong trào công nhân phương Tây con đường thoát ra khỏi chủ nghĩa cơ hội, tiến lên cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin đã đứng vững trên lập trường chủ nghĩa Mác, thấy rõ vai trò lịch sử của giai cấp vô sản Nga. Người đã lãnh đạo toàn thể nhân dân Nga đấu tranh chống lại chính quyền Nga Hoàng, là người đi tiên phong trong phong trào công nhân quốc tế.

Từ năm 1888, V.I.Lênin tham gia các tổ chức mácxít ở Cadan, Xamara, bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ănghen như: Tư bản, Sự khốn cùng của triết học, Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản…v.v.

Năm 1893, V.I.Lênin viết bài: “Những đổi mới về kinh tế trong đời sống nông dân”, bước đầu vận dụng các nguyên lý lý luận mác xít vào luận giải một vấn đề thực tiễn. V.I.Lênin tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác trong thanh niên trí thức, công nhân Nga ở Xamara, Pêtécbua. Năm 1895, V.I.Lênin hợp nhất các tổ chức mác xít của công nhân ở Pêtécbua thành “Hội liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân”; xác định nhiệm vụ của Hội là truyền bá chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân, thiết lập mối liên hệ với công nhân, lãnh đạo phong trào công nhân về mặt chính trị, tư tưởng; hướng cuộc đấu tranh của công nhân vào đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị.

Trong quá trình tiến tới thành lập đảng mác xít cách mạng, V.I.Lênin đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân Nga và đấu tranh chống các loại chủ nghĩa cơ hội ở Nga và Quốc tế II.

TẠI SAO NÓI, CÁCH MẠNG 1905 - 1907 ĐƯỢC COI LÀ CUỘC “TỔNG DIỄN TẬP” ĐẦU TIÊN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN NGA ĐẦU THẾ KỶ XX ?

 

Cuộc cách mạng 1905 - 1907 được coi là cuộc “tổng diễn tập” đầu tiên của giai cấp công nhân Nga, bởi vì:

Một là, lần đầu tiên trong lịch sử giai cấp công nhân Nga làm cuộc cách mạng chống chế độ áp bức, bóc lột với tư cách là lực lượng chính trị độc lập, với số lượng tham gia đông đảo, quy mô rộng khắp.

 Ngày 9 tháng 1 năm 1905 bùng nổ cuộc cách mạng ở Pêtécbua, 140.000 công nhân kéo tới cung điện Mùa Đông biểu tình. Chiều 09 tháng 01 năm 1905 công nhân Nga bãi công để phản đối tội ác của Nga Hoàng và đưa ra các yêu sách chính trị, các cuộc biểu tình đều hô vang khẩu hiệu “Đả đảo chế độ chuyên chế”; “Đả đảo Nga Hoàng”. Trong tháng Giêng, có tới 440.000 lượt người tham gia bãi công, biểu tình, nhiều hơn số người bãi công của 10 năm trước đó. Mùa thu năm 1905, cách mạng đã lan rộng khắp nước Nga với khí thế không gì ngăn cản nổi. Chính phủ Nga Hoàng, sau khi ký hòa ước với Nhật đã chuyển sang phản kích phong trào đấu tranh của công - nông - binh.

Hai là, giai cấp công nhân Nga được tôi luyện, thử thách trong đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Tháng 5 năm 1905, nhiều cuộc bãi công kinh tế chuyển sang đấu tranh chính trị, có nơi có vũ trang chống lại quân đội Nga Hoàng. Tháng 6 năm 1905, cuộc khởi nghĩa của binh lính Nga ở Hạm đội Hắc Hải nổ ra trên chiến hạm Pôchenkin, hưởng ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nông dân. Đầu tháng 10 năm 1905, cuộc bãi công của công nhân xe lửa tuyến Mátxcơva - Cadan nổ ra và tiếp đó lan rộng ra toàn quốc thành bãi công chính trị với gần một triệu người tham gia.

Ba là, cách mạng 1905 - 1907 để lại nhiều bài học kinh nghiệm phong phú cho giai cấp công nhân nói chung, công nhân, lao động Nga nói riêng. Đó là bài học về việc nhận định đánh giá sức mạnh của kẻ thù, về tổ chức một trung tâm lãnh đạo thống nhất, về tổ chức lực lượng cách mạng, về xây dựng khối liên minh công - nông kết hợp với giác ngộ binh lính trong hàng ngũ kẻ thù. Nhờ đó cách mạng tháng 2 năm 1917 giành thắng lợi nhanh chóng và Cách mạng Tháng Mười giành thắng lợi triệt để.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC NGA CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX NHƯ THẾ NÀO?

 

Hoàn cảnh lịch sử nước Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được thể hiện trên các vấn đề cơ bản sau:

Về kinh tế, chủ nghĩa tư bản Nga chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và là một trong những đế quốc lớn, mạnh nhất thế giới vào những năm đầu thế kỷ XX. Các ngành công nghiệp nặng luyện kimcơ khíhoá dầu,… phát triển với nhiều thành tựu. Năm 1913 sản lượng công nghiệp Nga chiếm 5,5% sản lượng công nghiệp thế giới, đứng thứ 5 thế giới. Tư bản độc quyền thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga, mức độ tập trung công nghiệp rất cao.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng nhưng muộn màng của chủ nghĩa tư bản Nga vẫn không thể thay đổi một thực tế nước Nga là vẫn là một nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn tồn tại sâu rộng ở nước Nga; Địa chủ bóc lột nông dân nặng nề, tàn bạo. Trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, nạn mất mùa và đói kém xảy ra thường xuyên. Sau khi Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chiến tranh đã làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ.

Về chính trị, xã hội, Nước Nga là một nước quân chủ chuyên chế điển hình dưới sự cai trị của Nga Hoàng Nikolai II, Nga Hoàng quyết định một mình tất cả mọi công việc. Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Nga với chế độ quân chủ chuyên chế của Nga Hoàng; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân; mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản; mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các dân tộc trong đế quốc; mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các đế quốc khác.

Tình hình trên làm cho đế quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, tạo nên tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi.