Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trở thành quốc bảo, bởi giá trị to lớn của nó; trong đó, khẳng định quyền con
người của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay là một nội dung quan trọng.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 có tầm nhìn vượt thời đại,
thể hiện rõ quyền con người vừa là cơ sở chính trị - pháp lý vừa là mục
tiêu đấu tranh của dân tộc ta. Những dòng đầu của bản Tuyên ngôn, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn những tư tưởng về quyền con người trong
bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Tiếp đó, Người đề cập tới quyền công dân khi trích dẫn bản “Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền Pháp” năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi,… Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, Bác đã chỉ rõ: độc lập dân tộc trong
thời đại ngày nay phải gắn liền với quyền con người và quyền công dân; phải gắn
liền với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước. Đây là một
chân lý mới của thời đại.
75 năm qua, kể từ khi bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra đời - từ một nước Việt Nam thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, dân tộc ta đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử gắn với
những biến động dữ dội của tình hình chính trị khu vực và thế giới. Đi theo tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc
ta đã thực hiện sứ mệnh của dân tộc và nhân loại, đứng lên đánh bại thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất nước nhà. Đồng thời, xây dựng đất nước từ mô
hình xã hội chủ nghĩa (với nhà nước chuyên chính vô sản, xóa bỏ thị trường thực
hiện kinh tế kế hoạch hóa,…), theo sự phát triển chung của nhân loại chuyển
sang mô hình mới của chủ nghĩa xã hội (từ năm 1986) với Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, không chỉ giữ nguyên giá trị lịch sử mà còn mang tính thời đại. Độc lập
dân tộc có giá trị “cứng” và giá trị “mềm”. Giá trị “cứng” của Độc lập dân tộc
ngày nay phải gắn với chủ quyền quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Khi nói đến chủ quyền quốc gia chúng ta không thể xem nhẹ, sao nhãng công tác
quản lý xuất nhập cảnh, cả ở những khu vực có đường mòn, lối mở,… trên bộ và ở
Biển Đông. Nói đến chủ quyền quốc gia, ngày nay, không thể không nói đến
quản lý - bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng.
Nhằm bảo đảm quyền của người dân được sử dụng
internet, mạng xã hội, Nhà nước ta đã cho phép nhiều hãng công nghệ hàng đầu,
như: Google, Facebook, Microsoft,… được phép kinh doanh ở thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam cũng đang phải ứng phó với tình trạng tin giả, tin
lừa đảo,… không kể những thông tin giả nhằm làm hại cá nhân, tổ chức và nhằm đến
các lợi ích kinh tế của nhiều công ty. Trong đại dịch Covid-19, có nhiều thông
tin sai sự thật về chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền địa phương; lợi dụng tình hình dịch bệnh để trục lợi cá nhân, như:
bán vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch (nước rửa tay, khẩu trang, máy đo
thân nhiệt,…).
Để bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân và xã hội trên
không gian mạng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều bộ luật, trong đó có Luật Báo
chí năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, v.v. Pháp luật nghiêm “cấm” đưa thông
tin: “cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan; kích động bạo lực; tuyên truyền lối sống
đồi trụy; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ
quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,…” (Luật Báo chí năm 2016).
Kỷ niệm 75 năm ra đời bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945,
chúng ta có dịp ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc. Bản Tuyên
ngôn độc lập là một dấu mốc lịch sử lớn lao, bền vững nhất trong lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn đó không
chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc ta mà còn mang giá trị thời đại: Nền
độc lập dân tộc vừa dựa trên chính nghĩa, vừa hướng tới mục tiêu bảo vệ, bảo đảm
quyền công dân và quyền con người của nhân dân Việt Nam. Nét đặc sắc của bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là ở sự tích hợp hai giá trị mang tính thời đại:
độc lập là quyền và khát vọng của các dân tộc và nhân quyền là quyền và nhân
cách của con người.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, chúng ta phải thực hiện
đổi mới tư duy chính trị theo các văn kiện của Đảng, xác định và ứng xử đúng với
các quốc gia theo quan điểm về “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng
Việt Nam: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”, “Bất kỳ
thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Nhất quán quan điểm
trên trong điều kiện toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, Việt Nam ngày nay đã là đối
tác bình đẳng với trên 180 nước, trong đó có tất cả các nước trong Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc. Việt Nam đã từng được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2014 - 2016 với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193 phiếu).
Trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực ngày nay,
bảo vệ độc lập dân tộc vẫn phải: kiên quyết và kiên trì bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ, lãnh hải; đồng thời, còn phải bảo đảm an toàn, an ninh internet, mạng
xã hội. Cùng với đó, chúng ta cần đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước, hướng tới
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Tất cả những gì Đảng và Nhà nước ta làm đều vì nước, vì dân
Trả lờiXóaBản Tuyên ngôn độc lập là một dấu mốc lịch sử lớn lao, bền vững nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trả lờiXóa