Thứ Tư, 9 tháng 9, 2020

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1945 VỚI QUYỀN CON NGƯỜI CỦA DÂN TỘC TA

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành quốc bảo, bởi giá trị to lớn của nó; trong đó, khẳng định quyền con người của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay là một nội dung quan trọng.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 có tầm nhìn vượt thời đại, thể hiện rõ quyền con người vừa là cơ sở chính trị - pháp lý vừa là mục tiêu đấu tranh của dân tộc ta. Những dòng đầu của bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn những tư tưởng về quyền con người trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp đó, Người đề cập tới quyền công dân khi trích dẫn bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp” năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi,… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, Bác đã chỉ rõ: độc lập dân tộc trong thời đại ngày nay phải gắn liền với quyền con người và quyền công dân; phải gắn liền với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước. Đây là một chân lý mới của thời đại.
75 năm qua, kể từ khi bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời - từ một nước Việt Nam thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, dân tộc ta đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử gắn với những biến động dữ dội của tình hình chính trị khu vực và thế giới. Đi theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã thực hiện sứ mệnh của dân tộc và nhân loại, đứng lên đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất nước nhà. Đồng thời, xây dựng đất nước từ mô hình xã hội chủ nghĩa (với nhà nước chuyên chính vô sản, xóa bỏ thị trường thực hiện kinh tế kế hoạch hóa,…), theo sự phát triển chung của nhân loại chuyển sang mô hình mới của chủ nghĩa xã hội (từ năm 1986) với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ giữ nguyên giá trị lịch sử mà còn mang tính thời đại. Độc lập dân tộc có giá trị “cứng” và giá trị “mềm”. Giá trị “cứng” của Độc lập dân tộc ngày nay phải gắn với chủ quyền quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Khi nói đến chủ quyền quốc gia chúng ta không thể xem nhẹ, sao nhãng công tác quản lý xuất nhập cảnh, cả ở những khu vực có đường mòn, lối mở,… trên bộ và ở Biển Đông. Nói đến chủ quyền quốc gia, ngày nay, không thể không nói đến quản lý - bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng.
Nhằm bảo đảm quyền của người dân được sử dụng internet, mạng xã hội, Nhà nước ta đã cho phép nhiều hãng công nghệ hàng đầu, như: Google, Facebook, Microsoft,… được phép kinh doanh ở thị trường Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam cũng đang phải ứng phó với tình trạng tin giả, tin lừa đảo,… không kể những thông tin giả nhằm làm hại cá nhân, tổ chức và nhằm đến các lợi ích kinh tế của nhiều công ty. Trong đại dịch Covid-19, có nhiều thông tin sai sự thật về chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương; lợi dụng tình hình dịch bệnh để trục lợi cá nhân, như: bán vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch (nước rửa tay, khẩu trang, máy đo thân nhiệt,…).
Để bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân và xã hội trên không gian mạng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều bộ luật, trong đó có Luật Báo chí năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, v.v. Pháp luật nghiêm “cấm” đưa thông tin: “cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan; kích động bạo lực; tuyên truyền lối sống đồi trụy; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,…” (Luật Báo chí năm 2016).
Kỷ niệm 75 năm ra đời bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, chúng ta có dịp ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc. Bản Tuyên ngôn độc lập là một dấu mốc lịch sử lớn lao, bền vững nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc ta mà còn mang giá trị thời đại: Nền độc lập dân tộc vừa dựa trên chính nghĩa, vừa hướng tới mục tiêu bảo vệ, bảo đảm quyền công dân và quyền con người của nhân dân Việt Nam. Nét đặc sắc của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là ở sự tích hợp hai giá trị mang tính thời đại: độc lập là quyền và khát vọng của các dân tộc và nhân quyền là quyền và nhân cách của con người.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, chúng ta phải thực hiện đổi mới tư duy chính trị theo các văn kiện của Đảng, xác định và ứng xử đúng với các quốc gia theo quan điểm về “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”, “Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Nhất quán quan điểm trên trong điều kiện toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, Việt Nam ngày nay đã là đối tác bình đẳng với trên 180 nước, trong đó có tất cả các nước trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam đã từng được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193 phiếu).
Trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực ngày nay, bảo vệ độc lập dân tộc vẫn phải: kiên quyết và kiên trì bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải; đồng thời,  còn phải bảo đảm an toàn, an ninh internet, mạng xã hội. Cùng với đó, chúng ta cần đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước, hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2 nhận xét:

  1. Tất cả những gì Đảng và Nhà nước ta làm đều vì nước, vì dân

    Trả lờiXóa
  2. Bản Tuyên ngôn độc lập là một dấu mốc lịch sử lớn lao, bền vững nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

    Trả lờiXóa